Lời dẫn: Như Google.tienlang vừa đưa tin, ông Lê Hiếu Đằng, sinh năm
1944 ở Quảng Nam và vừa qua đời vào khoảng 22 giờ tối ngày 22/01/2014 tại Bệnh
viện viện 115, thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 70 tuổi.
Nhóm Biên tập Google.tienlang xin chân thành gửi
lời chia buồn tới gia đình ông Lê Hiếu Đằng. Để tưởng nhớ người quá cố, chúng
tôi sẽ cố gắng sớm khôi phục lại kho tư liệu về ông Lê Hiếu Đằng từng có ở
Google.tienlang. Kính mong các tác giả, đặc biệt là bác Người Đất Thép hỗ trợ
chúng tôi trong quá trình khôi phục này. Mở đầu cho công việc khôi phục kho tư liệu này, chúng tôi xin đăng lại nguyên văn bài "Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh" của ông Lê Hiếu Đằng.
***********
Sau hơn 45 năm chiến đấu trong hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam, với 45
tuổi Đảng, những trải nghiệm cay đắng mà tôi cùng nhiều bạn bè nữa trong
phong trào học sinh sinh viên trước 1975 đã chịu đựng, thôi thúc tôi
phải “thanh toán”, “tính sổ” lại tất cả. Trong lúc nằm bịnh tôi đọc
quyển Chuyện nghề của Thủy của đạo diễn Trần Văn Thủy, các truyện
của các nhà văn quân đội như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu,
Trần Dần và qua ti vi xem các chuyến đi thăm Mỹ của Chủ tịch nước Trương
Tấn Sang, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng thăm Hàn Quốc, Myanmar
(Miến Điện) lại càng giục giã tôi viết những dòng này. Các nhà văn đã
cho tôi thấy thêm sự bi thảm của thân phận con người trong cái gọi là
CNXH ở Miền Bắc, một xã hội không có bóng người. Chuyến đi của Chủ tịch
nước Trương Tấn Sang không có những nghi thức cao nhất của một nguyên
thủ quốc gia hay chuyến đi thăm Hàn Quốc, Myanmar của Chủ tịch Quốc hội
Nguyễn Sinh Hùng nếu đem so sánh các chuyến đi thăm Trung Quốc của các
vị thì không khí hoàn toàn khác nhau. Một bên thì khô cứng, lạnh lùng
của một nước lớn đầy tham vọng, một bên là không khí cởi mở, vui vẻ bình
đẳng. Không biết các nhà lãnh đạo của ĐCS Việt Nam với lòng tự trọng
dân tộc có “mở mắt” thấy điều đó không? Hẳn nhiên chúng ta không thể đòi
hỏi Mỹ làm nhiều điều tích cực hơn bởi vì công bằng mà nói anh không
thể “mở lòng” với một nước mà thái độ không rõ ràng, bất nhất.
Tất
cả tình cảm của gia đình và bạn bè trong nước cũng như ở nước ngoài làm
tôi suy nghĩ miên man trong lúc nằm bịnh càng khẳng định với tôi một
điều: con đường mà tôi cùng nhiều bạn bè, đồng đội đã lựa chọn, con
đường tiếp tục đấu tranh cho lý tưởng thời trai trẻ và một xã hội công
bằng tự do dân chủ. Ở đó con người sống với nhau một cách tử tế, thật sự
được giải phóng từ người nô lệ thành người làm chủ của đất nước. Tôi
ngày càng hiểu sâu sắc từ “GIẢI PHÓNG” không có nghĩa như ngày nay người
ta thường dùng mà là sự thoát xác thật sự làm người tự do dù cho người
cai trị là da trắng hay da vàng, thậm chí điều đau khổ, bi thảm nhất là
hệ thống cai trị chính là người của dân tộc đó, là Việt Nam, là Trung
Quốc, v.v. Nếu hiểu từ giải phóng theo ý thức sâu xa đó thì tôi cũng rất
đồng tình với nhận xét của nhiều nhà báo, nhà văn, học giả ở Miền Bắc,
trong đó có nhà báo Huy Đức trong cuốn Bên thắng cuộc mới đây.
Thật sự là Miền Nam đã giái phóng Miền Bắc trên tất cả các lĩnh vực nhất
là kinh tế, văn hóa, tư tưởng… Vì những lẽ trên tôi xin “tính sổ” với
ĐCS VN và với bản thân cuộc đời của tôi, tư cách một đảng viên, một công
dân ở những điểm cơ bản sau: một cách minh bạch, sòng phẳng để từ đây
thanh thản dấn thân vô cuộc chiến mới.
1. Vì sao tôi đi kháng chiến, vào ĐCS Việt Nam?
Vào
thế kỉ trước, chủ nghĩa Marx, CNXH, CNCS đã làm say mê biết bao trí
thức, văn nghệ sĩ ở các nước, nhất là ở nước Pháp, cái nôi của khuynh
hướng xã hội, dân chủ mà cả thời kỳ ánh sáng với các tên tuổi như
Montesquieu, Voltaire, Jean Jacques Rousseau, v.v. với khát vọng xây
dựng một xã hội bác ái, tự do, bình đẳng. Chủ nghĩa Marx, CNXH, CNCS
chẳng những lôi cuốn, làm say mê nhiều thế hệ trí thức phương Tây mà ở
Việt Nam cũng vậy. Những tri thức văn nghệ sĩ tên tuổi lẫy lừng như Văn
Cao, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Thanh Tịnh, Thế Lữ,
v.v. hay những trí thức tên tuổi ở nước ngoài như Trần Đức Thảo, Nguyễn
Mạnh Tường. Thật ra họ theo lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của HCM mà
đi vào chiến khu chứ họ ít hoặc chưa biết chủ nghĩa Marx là gì, CNXH ra
sao, nhưng họ hy vọng sau khi kháng chiến thành công sẽ xây dựng một xã
hội dân chủ, tiến bộ xã hội, tự do, hạnh phúc mà trong Tuyên ngôn độc
lập và Hiến pháp năm 1946 ông HCM đã trịnh trọng cam kết trước toàn dân
giữa Ba Đình lịch sử. Lòng yêu nước, lòng tự trọng dân tộc đã thúc đẩy
mọi người tham gia Cách mạng tháng 8 và sau đó đi kháng chiến. Bạn bè
tôi và bản thân tôi cũng bị thôi thúc bởi những tình cảm đó: lòng yêu
nước, ý chí chống xâm lược, giành độc lập tự do dân chủ cho Tổ quốc để
xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn các chế độ cũ ở đó công nhân, nông dân,
người lao động, những người hi sinh nhiều trong chiến tranh có cuộc sống
ấm no, hạnh phúc đã thôi thúc chúng tôi lên đường. Tôi vào Đảng cũng
rất đơn giản: năm 1966, anh Nguyễn Ngọc Phương (Ba Triết) phụ trách đơn
tuyến tôi, hẹn tôi gặp nhau ở một chùa trên đường Trần Quốc Toản (nay là
3-2) để sinh hoạt. Anh Nguyễn Ngọc Phương nghiêm mặt tuyên bố: “Đ/c Bắc
Sơn (bí danh của tôi lúc đó), đ/c từ nay là Đảng viên Đảng nhân dân
cách mạng (thực chất là Đảng Lao động Việt Nam ở Miền Nam mà thôi). Lẽ
ra tôi đưa điều lệ để đồng chí nghiên cứu nhưng đ/c là người hoạt động
công khai trong Ban chấp hành Tổng hội sinh viên Sài Gòn và ĐH Luật Khoa
nên tôi bây giờ mới phổ biến một số điều trong điều lệ để đ/c biết”.
Một buổi kết nạp chẳng có lời thề thốt, cờ quạt gì cả. Anh Nguyễn Ngọc
Phương, người phụ trách tôi trong thời gian đầu, là người lớn lên trong
một gia đình khá giả, có em gái lấy nghệ sĩ hài nổi tiếng Bảo Quốc. Thật
ra qua một số người hoạt động ở Huế anh ấy đã biết tôi từng tham gia
phong trào đấu tranh Sinh viên học sinh Huế lúc tôi còn học đệ nhị, đệ
nhất Quốc học Huế và đã từng bị bắt giam ở lao Thừa Phủ Huế gần một năm
với Lý Thiện Sanh (nay là Bác sĩ định cư ở Úc). Vì chính quyền Thừa
Thiên-Huế lúc đó nghĩ tôi là thành viên của Đoàn TN nhân dân Cách mạng
Miền Nam. Nhắc đến đây tôi có một kỉ niệm khó quên: ba tôi và mẹ Lý
Thiện Sanh nóng lòng vì đã đến kì thi Tú tài II nhưng chúng tôi vẫn bị
nhốt trong tù. Vì vậy ông bà làm đơn hú họa xin cho hai chúng tôi được
ra thi. Thế mà chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó lại giải quyết cho ra
thi. Tôi theo ban C Triết học nên chỉ còn vài ngày nữa là thi, ba tôi
gửi một số sách vào cho tôi. May mắn lúc đó tôi đã đọc nhiều sách triết
học của các Giáo sư Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Toàn và các tạp chí Sáng tạo, Hiện đại của nhà văn Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, nhà thơ Nguyên Sa, Tô Thùy Yên, v.v., kể cả quyển sách viết về Nietzsche
của Nguyễn Đình Thi thời còn trai trẻ trước 1945, nên gặp đề thi triết
khá hay tôi tán đủ điều, đậu hạng thứ dễ dàng. Còn Lý Thiện Sanh học ban
B vốn rất giỏi nên đậu hạng bình thứ. Những ngày ba tôi đến đón tôi ra
thi ông đã đi qua cánh đồng An Cựu trong giá lạnh. Tôi không thể nào
quên hình ảnh đó của ba tôi. Bây giờ Người đã mất nhưng tôi không bao
giờ quên ông, biết ơn nuôi dạy tôi thành người trưởng thành pha một chút
ân hận vì tôi mà ông phải khổ sở. Tôi không biết với chế độ gọi là “ưu
việt” hiện nay có người tù nào đã được cho ra khỏi nhà tù để đi thi như
chúng tôi hay không? Trong thời gian đó, lúc nhà tù cho tù nhân làm văn
nghệ tôi thường hát bài “Tình quê hương” thơ Phan Lạc Tuyên, nhạc Đan
Thọ, lúc đó là Đại úy Quân đội Sài Gòn. Gia đình của người phụ trách lao
Thừa Phủ đứng trên bức tường có đường đi bao quanh nhà tù để xem. Đúng
là cái máu lãng mạng của đám Sinh viên học sinh chúng tôi lúc đó ngay
trong tù cũng nổi dậy đùng đùng và có cô con gái rất thích bài đó. Lý
Thiện Sanh đùa “Nó khoái mày rồi đó”. Về anh Nguyễn Ngọc Phương người
phụ trách tôi sau này bị địch bắt, đã hi sinh trong tù năm 1973. Năm
ngoái, nhân ngày giỗ anh, tôi có kể lại việc mỗi lần sinh hoạt với tôi
xong anh đề nghị tôi hát bài “Trăng mờ bên suối” của Lê Mộng Nguyên. Hát
xong tôi hỏi anh: “Anh là bí thư Đảng ủy sinh viên mà sao thích bài hát
ướt át quá vậy?”. Anh cười buồn và nói: “Chúng ta chiến đấu xét đến
cùng là vì con người. Nhưng bài hát đó viết rất hay về con người thì sao
mình không thích được!”. Nghe anh tôi càng cảm phục người đ/c phụ trách
tôi và hôm giỗ anh tôi hát lại bài “Trăng mờ bên suối” để cúng anh. Sau
đó, chị Cao Thị Quế Hương có vẻ trách tôi vì cho rằng anh Phương không
thể ủy mị như vậy. Tôi cười buồn và im lặng.
Tôi đã đi theo kháng chiến và vào Đảng như thế đó…
2. Vấn đề đa nguyên, đa đảng
Có
thời gian từ 1975 đến 1983 tôi là giảng viên Triết học và Chủ nghĩa xã
hội khoa học ở Trường Đảng Nguyễn Văn Cừ thuộc Khu ủy Sài Gòn-Gia Định.
Về phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lê nin mà tôi hiểu được có một
điều cơ bản là cơ sở hạ tầng (bao gồm cơ sở xã hội, cơ sở kinh tế, v.v.)
như thế nào thì phản ảnh lên thượng tầng kiến trúc như thế đó. Sau một
thời gian dài Đảng và nhà nước Việt Nam nhận chìm các tầng lớp nhân dân
Việt Nam từ Bắc chí Nam dưới chế độ quản lý kinh tế bao cấp, đi ngược
lại tất cả qui luật tự nhiên, cop-pi mô hình kinh tế của Liên bang Xô
viết và Trung Quốc cộng sản 100%. Dân chúng đói kém rên xiết. Các đợt
cải tạo tư sản X1, X2 đã làm tan nát biết bao gia đình, làm dòng người
vượt biên ngày càng nhiều và biết bao gia đình phải chết tức tưởi trên
biển. Trong đó có gia đình nhà báo Trần Triệu Luật, người đã cùng tôi
vào chiến khu và đã hi sinh vào ngày 11.10.1968 tại căn cứ Ban tuyên
huấn T.Ư cục Miền Nam cùng với nhà thơ Thảo Nguyên Trần Quang Long sau
trận bom ác liệt của F105 của Mỹ. Hoặc bị bọn cướp biển hãm hiếp làm
nhục trước mặt chồng con. Có thể nói tất cả điều đó là tội ác của Đảng
và Nhà nước Việt Nam, không thể nói khác được. Trước sự rên xiết của
người dân, những nhà lãnh đạo còn có tấm lòng và suy nghĩ đã chủ trương
phải đổi mới kinh tế bằng cách phải chấp nhận kinh tế có nhiều thành
phần trong đó có kinh tế cá thể. Thế thì một khi cơ sở hạ tầng có nhiều
thành phần kinh tế khác nhau trong xã hội sẽ có nhiều tầng lớp với lợi
ích khác nhau thì tất yếu họ phải có tổ chức để đấu tranh bảo vệ quyền
lợi của họ. Đó là qui luật tất yếu, vì vậy không thể không đa nguyên đa
đảng được, và như vậy điều 4 Hiến Pháp hiện nay là vô nghĩa. Trước sau
gì các vị lãnh đạo của ĐCS phải chấp nhận thách thức này: các Đảng, tổ
chức đối lập sẽ đấu tranh bình đẳng với ĐCS trong các cuộc bầu cử hợp
pháp có quan sát viên Quốc tế giám sát như hiện nay Campuchia đã làm.
Tôi thách bất cứ ai trong Bộ chính trị, Ban bí thư, trong Ban Tuyên huấn
của Đảng mà đứng đầu là ông Đinh Thế Huynh, vừa là Trưởng ban, vừa là
Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương, trả lời luôn một cách công khai,
minh bạch với chúng tôi trên các diễn đàn mà không chơi trò “bỏ bóng đá
người” như đã từng thường sử dụng hiện nay. Thực tế hiện nay, trong Nam
ngoài Bắc đã tập hợp được những khuynh hướng có chủ trương đấu tranh cho
một thể chế dân chủ cộng hòa mà tiêu biểu là đề nghị 7 điểm và dự thảo
Hiến pháp năm 2013 của nhân sĩ trí thức tiêu biểu ở trong Nam ngoài Bắc
như nhà văn Nguyên Ngọc, các Giáo sư Hoàng Tụy, Chu Hảo, Tương Lai, Phạm
Duy Hiển, những trợ lý Tổng bí thư, Thủ tướng hoặc Đại sứ nhiều thời kỳ
như ông Trần Đức Nguyên, Việt Phương, Nguyễn Trung, v.v. Các nhà kinh
tế có uy tín lớn như Lê Đăng Doanh, Phạm Chi Lan, các nhà báo, nhân sĩ
trí thức kỳ cựu như Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Đình Đầu, Lữ Phương, Kha Lương
Ngãi, Nguyễn Quốc Thái, và các “lãnh tụ” sinh viên trước đây đã có một
thời kỳ lẫy lừng trong phong trào đấu tranh tại Sài Gòn và các đô thị
Miền Nam trước 1975 như Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Công Giàu, Trần Văn Long (Năm
Hiền), Huỳnh Kim Báu, Hạ Đình Nguyên, Cao Lập và biết bao con người tâm
huyết mặc dầu đời sống kinh tế đã khá giả, có những người là giàu có,
nhưng không thể yên tâm thụ hưởng tất cả những tiện nghi của đời sống đã
vùng lên sau một giấc ngủ khá dài để chấp nhận mọi rủi ro, nguy hiểm
cho bản thân cá nhân mình cũng như gia đình, quyết dấn thân vào cuộc
chiến đấu mới để tiếp tục thực hiện lý tưởng thời trai trẻ mà hiện nay
đã bị phản bội, chà đạp lên những lời hứa năm nào trong kháng chiến.
Ngoài ra còn cả một lớp trẻ hăng hái, nhiệt tình bao gồm những bloger,
những sinh viên đang có những hoạt động ở các trường Đại học hoặc nhiều
tổ chức khác. Tình hình trên cộng với thực tế hiện nay tôi biết nhiều
đảng viên đang muốn ra khỏi Đảng, hoặc không còn sinh hoạt Đảng (giấy
sinh hoạt bỏ vào ngăn kéo). Vậy tại sao chúng ta hàng trăm đảng viên
không tuyên bố tập thể ra khỏi Đảng và thành lập một Đảng mới, chẳng hạn
như Đảng Dân chủ xã hội, những Đảng đã có trên thực tế trước đây cho
đến khi bị ĐCS bức tử phải tự giải tán? Tại sao tình hình đã chín mùi mà
chúng ta không dám làm điều này vì chủ trương không đa nguyên đa đảng
chỉ là chủ trương của Đảng chứ chưa có một văn bản pháp lý nào cấm điều
này? Mà nguyên tắc pháp lý là điều gì luật pháp không cấm chúng ta đều
có quyền làm. Đó là quyền công dân chính đáng của chúng ta. Không thể
rụt rè, cân nhắc gì nữa. Đây là một yếu tố sẽ làm cho xã hội công dân,
xã hội dân sự mạnh lên, không có thế lực nào ngăn cản được. Đây là cách
chúng ta phá vỡ một mảng yếu nhất của một nhà nước độc tài toàn trị hiện
nay. Chẳng lẽ nhà nước này bắt bỏ tù tất cả chúng ta sao? Chúng ta phải
đấu tranh với phương châm công khai, minh bạch, ôn hòa, bất bạo động,
phản đối tất cả mọi hành động manh động, bạo lực khiêu khích gây chiến
tranh. Như nhà thơ Nguyễn Duy đã viết, đại khái: trong bất cứ cuộc chiến
tranh nào người thất bại đều là nhân dân. Giờ hành động đã đến. Không
chần chừ, do dự được nữa.
3. Vấn đề Độc lập dân chủ, tự do và hạnh phúc
-
Việt Nam đã thống nhất mặc dầu còn nhiều điều chưa hòa hợp, đoàn kết
thực sự. Nhưng còn độc lập thì sao? Sau khi hi sinh biết bao xương máu,
nay Đảng và Nhà nước Việt Nam muốn làm việc gì đều phải len lén nhìn ông
bạn láng giềng Trung Quốc, những kẻ luôn chực nuốt chửng nước ta và vào
năm 1979 họ đã xua quân tàn sát người dân Lạng Sơn và các tỉnh phía Bắc
mà tên Đặng Tiểu Bình xấc xược gọi là dạy cho Việt Nam một bài học.
Thật ra tổ tiên chúng ta, những tiền nhân thời xa xưa đã cho họ nhiều
bài học Chi Lăng, Bạch Đằng Giang, Gò Đống Đa, v.v. Không biết tập đoàn
Tập Cận Bình có còn nhớ những bài học đó không? Riêng các vị lãnh đạo
ĐCS và Nhà nước Việt Nam thì dường như chưa thấy hết sức mạnh của dân
tộc Việt Nam nên quá “hiền lành” đối với một nước lớn nhưng rất “tiểu
nhân” (chữ nghĩa của các truyện Tàu), miệng thì xoen xoét nói về “bốn
tốt mười sáu chữ vàng” trong lúc hành động thực tế là uy hiếp, săn đuổi,
bắt bớ một cách vô nhân đạo các ngư dân Việt Nam đang đánh bắt trong
ngư trường truyền thống của mình hoặc hèn hạ cắt đứt cáp các tàu thăm dò
dầu khí của chúng ta. Thế mà phản ứng của lãnh đạo Việt Nam thì quá nhu
nhược: chỉ là lời phản đối lặp đi lặp lại nghe quá nhàm tai và khó chịu
của người phát ngôn viên bộ Ngoại giao. Đến nỗi có những vụ việc lớn mà
lại không dám thực hiện hành động đáp trả theo quy tắc bình thường
trong quan hệ quốc tế là triệu tập Đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội để trao
công hàm phản đối chứ không chỉ là đưa công hàm đến tòa Đại sứ. Vậy thì
độc lập cái gì? Hẳn nhiên là chúng ta không dựa vào nước này chống các
nước khác nhưng thực tế quốc tế hiện nay rất thuận lợi để chúng ta liên
kết với các nước để đấu tranh với Trung Quốc về Biển Đông. Tôi rất mừng
nghe Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố ở hội nghị Shangri-La chống lại
nền chính trị cường quyền và những đối xử vô nhân đạo đối với ngư dân
Việt Nam. Trả lời phỏng vấn một Thiếu tướng Trung Quốc, Thủ tướng đã
khéo léo nói nước đó là nước nào ai cũng biết. Rõ ràng đây là cú đấm
đích đáng bọn bành trướng Bắc Kinh trong một diễn đàn quốc tế. Tôi càng
thấy vui hơn khi được biết đây là ý kiến của cá nhân Thủ tướng dám chịu
trách nhiệm để tuyên bố như vậy chứ không có sự chỉ đạo nào của Bộ chính
trị cả. Vì thế mà Hạ Đình Nguyên trong một bài viết về vấn đề này đã
hoan hô Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến 5 lần.
4. Vấn đề Dân chủ, tự do và hạnh phúc
Thực
chất đây là vấn đề dân sinh, dân chủ mà trước đây trong thời kì kháng
chiến hoặc trước 1975 ĐCS VN đã phát động để đấu tranh giành quyền sống.
Đây là vấn đề về con người.
+ Về dân chủ thì
đã quá rõ. Muốn có dân chủ thực sự thì phải thay đổi thể chế từ một nhà
nước độc tài toàn trị chuyển thành một nhà nước cộng hòa với tam quyền
phân lập: lập pháp, hiến pháp, tư pháp độc lập. Tư pháp độc lập thì mới
có thể chống tham nhũng. Cần có Quốc hội lập hiến để soạn thảo và thông
qua Hiến pháp mới. Sau đó bầu Quốc hội lập pháp để ĐCS sẽ qua bầu cử
bình đẳng mà trở thành người lãnh đạo. Tôi nghĩ trong một thời gian dài
ĐCS vẫn sẽ là một lực lượng chính trị mà không có bất cứ lực lượng nào
có thể tranh chấp được. Các nhà lãnh đạo ĐCS cần tự tin điều đó. Dần dần
các Đảng đối lập sẽ trở thành một lực lượng làm nhiệm vụ như một kháng
thể trong một cơ thể xã hội lành mạnh. Nếu xã hội không có lực lượng đối
lập sẽ trở thành một con bệnh SIDA khó trị, chờ chết mà thôi.
+
Con người khác con vật ở chỗ là có tự do. Tự do là thuộc tính của con
người. Không có tự do thì con người chỉ là một đàn cừu (theo ngôn ngữ
của Giáo sư toán học Ngô Bảo Châu). Không có tự do thì không thể có khoa
học, văn học, nghệ thuật, báo chí… thật sự. Do đó Hiến Pháp 1946 đã qui
định những quyền tự do của con người. Đó là vấn đề quyền con người.
Nhưng giờ đây chế độ toàn trị đã phản bội tước đoạt tất cả các quyền cơ
bản đó, vất bỏ tuyên ngôn nhân quyền và nhai đi nhai lại luận điệu mỗi
nước có hoàn cảnh riêng, có vấn đề nhân quyền riêng. Họ không biết rằng
đó là quyền cơ bản và phổ quát mà loài người đã đấu tranh qua nhiều thế
hệ. Đại tá nhà văn Nguyễn Khải đã nói: “khi đọc cuốn Bàn về tự do
của Stuart Mil thì vỡ ra nhiều vấn đề”. Vì vậy anh Nguyễn Khải đã nhìn
lại những gì mà anh đã trải nghiệm một cách sâu sắc với một giọng văn
nhẹ nhàng không hàm hồ nên rất thuyết phục. Đây là quyển sách đã đi sâu
vào tim óc của chế độ mà không thấy các vị “phê bình chỉ điểm” (cách gọi
mới đây của nhà văn Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội đối
với tên Nguyễn Văn Lưu cùng với một số người trong việc “bề hội đồng”
bài viết của Thạc sĩ Nhã Thuyên về nhóm “Mở miệng”) nào dám phê phán,
chửi rủa. Các vị lãnh đạo ĐCS tại sao không suy nghĩ trong chế độ thuộc
Pháp lại có một thời báo chí, văn học nghệ thuật phát triển mà cho đến
nay chưa có thời kì nào có thể so sánh được dù là chế độ gọi là “tự do
gấp vạn lần” như bà Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan đã nói một cách
hàm hồ, thiếu suy nghĩ, chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Báo chí thì nở
rộ: Gia Định báo, Phụ nữ tân văn, Nam Phong, Phong hóa, Ngày nay…
với những học giả Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi,… Văn học nghệ
thuật thì có cả một trào lưu thơ mới với Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ,
Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư và nhiều nhà thơ nổi tiếng khác với nhiều bài
thơ bất hủ mà đến nay ai cũng thuộc nằm lòng. Về tiểu thuyết thì có
nhóm Tự lực văn đoàn với Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo…
Ngoài ra còn có hàng loạt nhà văn tài hoa khác như Nguyễn Tuân, Tô Hoài,
Lan Khai, Thanh Tịnh, Nguyên Hồng, v.v. Với Thanh Tịnh tôi vẫn nhớ bài
“Tôi đi học” trong tập Quê mẹ của ông. “Hằng năm cứ vào cuối thu,
lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng
tôi lại nao nức những kỷ niệm mênh mang của buổi tựu trường. Tôi không
thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như
mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng. Những ý tưởng ấy
tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay
tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ
lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã. Buổi sáng mai
hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay
tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi
lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh
tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi
đi học”. Nhạc thì có một thời có nền tân nhạc rực rỡ với các tên tuổi
như Văn Cao, Đặng Thế Phong, Phạm Duy, Đoàn Chuẩn-Từ Linh, Doãn Mẫn, Lê
Thương, Nguyễn Văn Thương… Thế mà Thanh Tịnh và những nhà văn, nhà thơ,
nhạc sĩ nói trên dưới chế độ XHCN ở Miền Bắc chẳng có tác phẩm nào ra
hồn.
Cũng may ra sau 1975, không khí vui vẻ,
sum họp của những ngày đầu đã tạo nên trào lưu hứng khởi để nhạc sĩ VĂN
CAO làm bài “Mùa xuân đầu tiên” với điệu valse dìu dặt. Nhưng tội nghiệp
cho Văn Cao đã ngây thơ tin rằng “Từ đây người biết yêu người, từ đây
người biết thương người, từ đây người biết quê người…” thế mà bài ca này
cũng bị cấm hát hết mấy năm. Những năm sau khi vào chơi với Trịnh Công
Sơn và các nhạc sĩ Miền Nam ông đã nói lên nỗi thất vọng của ông. Cảnh
chia lìa, vượt biên, đày đọa, tù tội trong đó có người bạn văn chương
của các ông đã làm ông buồn bực và tiếp tục uống rượu. Chỉ có một điều
an ủi ông là vào Nam, vào Sài Gòn ông nghe mọi người từ trẻ đến già đều
hát “Mùa xuân đầu tiên”, “Thiên thai”, “Suối mơ”, “Trương Chi”, “Buồn
tàn thu”, v.v. của ông. Vấn đề là ĐCS VN cần trả lại những gì của lịch
sử, của tiền nhân để lại. Việc đổi tên đường từ Trần Quý Cáp thành Võ
Văn Tần, từ Phan Đình Phùng thành Nguyễn Đình Chiểu, v.v. là việc làm
thiếu suy nghĩ, nếu không nói là ngu xuẩn, chà đạp lên lịch sử, xúc phạm
những chiến sĩ tuy không phải là Cộng sản nhưng đã đấu tranh bảo vệ đất
nước trong các phong trào Cần Vương, Duy Tân. Ngay trong lĩnh vực báo
chí tại sao lại lấy ngày ra đời báo Thanh niên, báo của tổ chức CS làm ngày báo chí VN. Quan điểm tôi là phải lấy ngày 15-4 là ngày số báo đầu tiên của Gia Định báo
năm 1865 làm ngày báo chí VN. Năm sau, một số nhà báo cùng chúng tôi sẽ
tổ chức ngày báo chí VN vào ngày 15-4. Còn ĐCS và các tổ chức của mình
cứ lấy ngày 21-6 làm ngày báo chí Cách mạng cũng không sao. Việc ai nấy
làm. Thế thôi.
Tại Miền Bắc gọi là XHCN khi hòa
bình mới lập lại, các văn nghệ sĩ mà đặc biệt đi tiên phong là các nhà
thơ, nhà văn quân đội, mà tiêu biểu là Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng
Cầm,... đã gây chấn động trong vụ Nhân văn giai phẩm. Có lẽ là những
người trực tiếp chiến đấu chứng kiến cảnh chết chóc của nhân dân trong
chiến tranh nên họ quyết tâm tiếp tục chiến đấu để xây dựng một chế độ
xã hội tự do dân chủ và tiến bộ xã hội. Họ đã quy tụ được nhiều nhân sĩ,
trí thức, văn nghệ sĩ giàn trận đấu tranh quyết liệt với Đảng để đòi
hỏi tự do sáng tác, đòi hỏi chính trị không được can thiệp vào sáng tác
của văn nghệ sĩ. Nhà nước độc tài Đảng trị trong những năm đó thấy đây
là nguy cơ đe dọa của chế độ nên đã ra tay đàn áp, bắt bớ, tù đày một
cách không nương tay. Người bị tù với vụ án ngụy tạo như công thần
Nguyễn Hữu Đang, người đã làm lễ đài Độc lập năm 1946. Hữu Loan với lòng
tự trọng của một người văn nghệ sĩ cương quyết về quê thồ vác đá nuôi
vợ con. Ba mẹ vợ anh trong cải cách ruộng đất đã bị chôn sống để trâu bò
bừa lên đầu, lên cổ cho đến chết. Một Nguyên Hồng khảng khái bỏ về Yên
Thế nuôi heo để kiếm sống. Nguyễn Hữu Đang sau khi ra tù sống những ngày
tủi nhục phải góp nhặt bao thuốc lá làm hàng “đối lưu” với ếch nhái,
rắn rết của bọn trẻ chung quanh kiếm cho. Năm 1989, tôi gặp Tiến sĩ Luật
Nguyễn Mạnh Tường ở Pháp, người đã theo Hồ Chí Minh về nước năm 1946.
Ông kể lại hoàn cảnh của ông lúc đó, bị cô lập đến nỗi học trò cũng
không dám nhìn mặt, phải bán tủ sách quí để sống qua ngày. Còn nhà triết
học Trần Đức Thảo, khi tôi còn làm Phó chủ tịch thường trực MTTQ TP HCM
đã mời ông đến nói chuyện. Bước xuống xe ông ngó lên liền xem có công
an theo dõi ông không. Buổi nói chuyện làm mọi người thất vọng vô cùng
về ông.
Tôi còn có những kỉ niệm đau đến xé lòng
khi còn nằm trong hệ thống chính trị của nhà nước toàn trị. Lúc còn là
phó CT/TT MTTQ TP HCM và là đại biểu HĐND TP khóa 4, khóa 5. Có mấy việc
tôi còn nhớ mãi:
+ ĐCS VN ngày trở thành kiêu
binh. Đâu đâu cũng vỗ ngực xưng tên là “ĐCS VN quang vinh muôn năm”.
Ngay cả Hội trường của cơ quan dân cử như HĐND TP thế mà chẳng thấy đất
nước, Tổ quốc đâu cả, chỉ thấy một khẩu hiệu to chần dần [to đùng] “ĐCS
VN quang vinh muôn năm”. Một số đại biểu trong HĐND trong Đảng cũng như
ngoài Đảng thấy chướng mắt nhưng không dám nói. Họ đến nói với tôi. Tôi
thông cảm họ. Trong HĐND khóa 5, khi lên phát biểu ở Hội trường tôi trầm
giọng nói: “Đây là cơ quan dân cử, đại diện cho nhân dân TP, nhưng tôi
không thấy đất nước, Tổ quốc ở đâu mà chỉ có ĐCS muôn năm thôi là sao?
Đảng chỉ là một bộ phận của nhân dân, không có Tổ quốc, nhân dân thì làm
gì có Đảng. Đảng phải đặt Tổ quốc lên trên hết, vì vậy tôi đề nghị thay
đổi khẩu hiệu này bằng câu CHXHCN Việt Nam. Cả hội trường im phăng
phắc. Nhưng ngay kỳ họp sau thì khẩu hiệu Đảng đã thay đổi bằng tên
nước.
+ Tôi là Trưởng ban VHXH HĐND TP khóa 5.
Trong các kỳ họp HĐND TP, các ban có bài thẩm dịnh khá công phu. Phải đi
thực tế, làm việc với các ngành và sau đó họp toàn ban để thông qua
Trưởng ban là người quyết định cuối cùng. Tôi nhớ trong một kì họp, tôi
thức suốt đêm sửa chữa, hoàn thiện văn bản để phát biểu trước HĐND. Khi
lên phát biểu, nhìn xuống thì không thấy vị Phó CT nào dự, kể cả phó CT
phụ trách VHXH. Thấy vậy tôi không đọc mà đề nghị ông Huỳnh Đảm, lúc đó
là CT HĐND, cho các thư kí, trợ lý điện gấp cho các Phó CT, nhất là các
Phó CT phụ trách VHXH về dự họp. Ban thẩm định chuẩn bị công phu để phân
tích những vấn đề, nhất là những vấn đề còn tồn tại, hạn chế trong lĩnh
vực văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, các vấn đề xã hội khác.
Những vấn đề có liên quan thiết yếu đến đời sống nhân dân TP. Khi thầy
các Phó CT lục tục về họp tôi mới phát biểu bản thẩm định của Ban. Đây
là lần đầu tiên các phóng viên báo chí thấy việc này nên rất khoái. Từ
đó, kì họp nào các PCT UBND cũng đều có mặt trừ một số PCT có lý do
chính đáng. Cái bệnh chỉ coi trọng Đảng, Thành ủy, xem thường HĐND đã
vào máu các vị quan chức của chúng ta.
+ Việc
thứ ba là cuộc đấu tranh hay có thể nói là đấu khẩu của Chủ tịch UBND TP
Võ Viết Thanh và tôi về việc có nên dẹp chợ hoa Nguyễn Huệ hay không?
Cuộc đấu khẩu gay gắt đến nỗi CT Võ Viết Thanh nói đại ý nếu đ/c Đằng
thấy Đảng chật hẹp quá thì xin ra khỏi Đảng. Tôi liền đốp chát lại: đó
là chuyện mà tôi và anh sẽ nói trong Đảng, còn đây là HĐND. Giữa lúc có
nhiều đại biểu đồng ý với tôi, trong đó có Trần Văn Tạo, Ủy viên TVTU,
Phó giám đốc Công an TP, Phạm Phương Thảo, Ủy viên TVTU, Phó CT phụ
trách VHXH UBND TP thì chủ tọa kỳ họp lại được tin ban Thường vụ Thành
ủy họp và đã đồng ý dẹp chợ hoa TP. Tôi cương quyết đề nghị có Nghị
quyết về vấn đề này nhưng chủ tọa làm ngơ và thông qua NQ ở HĐND TP. Tuy
đấu tranh gay gắt như vậy nhưng đối với anh Võ Viết Thanh tôi vẫn tôn
trọng tính trung thực, quyết đoán của anh. Lúc đó tôi với tư cách đại
biểu HĐND TP có phối hợp với các vị hưu trí Q.6, với Ban quản lý thị
trường TP để tố cáo những tiêu cực, sai trái của Giám đốc Đông lạnh Hùng
Vương. Phối hợp với cuộc đấu tranh này có anh Nguyễn Văn Thắng, Ủy viên
TV Quận ủy Q.6, Trưởng ban Tuyên huấn Q.6. Thắng cũng là dân phong trào
SV. Không hiểu sao sau đó có một văn bản có danh sách 12 người gọi là
điệp báo của Cục tình báo TƯ Mỹ trong đó Nguyễn Văn Thắng nằm ở số 7.
Lúc ấy anh Nguyễn Minh Triết mới về làm Phó bí thư thường trực của TƯ.
Tôi gặp anh Nguyễn Minh Triết và trình bày với anh về vấn đề thì anh đề
nghị tôi không can thiệp nữa vì danh sách đã có dấu đỏ của đặc ủy tình
báo TƯ của Mỹ. Trước đó có người biết chuyện ngụy tạo danh sách này và
nói danh sách láo được đánh trên giấy Bãi Bằng là giấy chỉ do Cộng sản
sau 1975 sản xuất. Anh Nguyễn Minh Triết ghi nhận nhưng Nguyễn Văn Thắng
vẫn bị giam ở 4 Bạch Đằng. Lúc ấy Q.6 tính lấy lại nhà của Nguyễn Văn
Thắng ở Bà Hom, Q.6. Tôi gặp Chủ tịch Võ Viết Thanh và đề nghị anh xem
xét lại vấn đề này thì anh nói với tôi một cách cương quyết: “Chuyện
chính trị của Thắng tôi không biết nhưng chuyện nhà của Thắng tôi bảo
đảm không ai lấy được”. Anh giữ lời hứa khi Thắng được giải oan về lại
Bà Hom, Q.6 như cũ. Tôi gặp anh Võ Viết Thanh cám ơn anh. Nhân đó tôi
hỏi thăm tại sao anh không đi học Cử nhân, Tiến sĩ như những người khác.
Anh cười nói rất Nam Bộ: “Tôi không chơi kiểu đó. Nếu tôi học tôi sẽ
xin nghỉ làm để đi học thật sự, không như những vị học giả mà bằng thật
như hiện nay”. Từ đó quan hệ giữa anh và tôi rất vui vẻ, không còn nhớ
gì trận đấu khẩu nảy lửa ở HĐND về vụ chợ hoa Nguyễn Huệ. Sau này anh bị
thất sủng vì vụ án Sáu Sứ mà trong quyển Bên thắng cuộc nhà báo Huy Đức có nêu.
Tôi
nêu những trải nghiệm nói trên để chứng minh rằng trong chế độ này
không có chỗ cho người trung thực mà chỉ dành cho những người nói láo,
tránh né đấu tranh. Giờ đây chúng ta phải phá vỡ nỗi sợ hãi đó đi để
thực hiện một chủ trương cực kỳ quan trọng của nhà cách mạng Phan Châu
Trinh: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.
Cuối
cùng tôi xác định bài viết này chỉ có mục đích là thanh toán, tính sổ
cuộc đời của mình, trang trải những món nợ còn lại để gửi các vị lãnh
đạo Đảng CSVN, để mong các vị “mở mắt” ra mà có sự lựa chọn con đường
sống cho dân tộc. Hiện nay xu hướng chạy theo CN Mác-Lênin CNXH đã lạc
điệu, không còn phù hợp nữa và đã sụp đổ tan tành ở ngay quê hương Xô
Viết. Hiện nay là cuộc đấu tranh trên thế giới về dân quyền, dân sinh,
dân chủ, tự do, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. Nghĩa là đây là
cuộc đấu tranh quyết liệt cho con người, vì con người chống lại các thế
lực phản động đang âm mưu nô dịch nhân dân, phá hoại môi trường vì những
lợi ích kinh tế ích kỷ của các tập đoàn, lũng đoạn nhà nước.
Tôi
không tin lắm về sự tự giác của một số nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước
sớm thấy tình hình và xu thế phát triển hiện nay để đặt lợi ích của Đất
nước, Tổ quốc lên trên hết mà có một giải pháp hợp lý, không vì lợi ích
và sự tồn tại của Đảng, của chế độ mà đi ngược lại xu thế phát triển của
thời đại hiện nay. Tôi quan niệm rằng làm nhiệm vụ của chúng ta hiện
nay là cương quyết đấu tranh cho một xã hội công bằng, dân chủ và tiến
bộ, tôn trọng thực hiện những lý tưởng của biết bao thế hệ cha anh chúng
ta về một nước VN hòa bình, độc lập, tiến bộ xã hội, văn minh và giàu
mạnh. Một khi xã hội dân sự, xã hội công dân mạnh lên, sẽ đủ sức kìm
hãm, ức chế các khuynh hướng độc tài của một nhà nước toàn trị. Trước
mắt là phải “chấn dân khí” để không còn sợ hãi các thế lực tàn bạo,
không sợ bắt bớ, tù đày. Sau đó là “khai dân trí” và “hậu dân sinh”.
Bài
viết này cũng là để trải lòng với bạn bè, đồng đội và những nhân sĩ trí
thức, các văn nghệ sĩ, các bạn thanh niên, sinh viên, học sinh mà tôi
đã quen hoặc mới quen, để khẳng định một điều: với lòng tự trọng của một
công dân một nước có lịch sử hào hùng chúng ta phải hành động. Không
nên ngồi tranh luận với nhau về sự đúng, sai khi chọn lựa đứng bên này
hay bên kia. Vì thật ra cả một bộ phận loài người trong đó có người VN
luôn khát khao một xã hội tốt đẹp hơn, chống lại cái ác, cái xấu, nên đã
có thời gian dài nuôi ảo tưởng về ĐCS VN và CNXH. Vấn đề là trước đây
chúng ta chưa có đủ điều kiện, dữ liệu để nhận thức một số vấn đề sống
còn của đất nước, nhưng hiện nay tình hình trong nước và trên thế giới
đã thay đổi, vì vậy chúng ta phải nhận thức lại một số vấn đề trước đây.
Nhận thức lại và dấn thân hành động cho cuộc chiến đấu mới. Đừng loay
hoay những chuyện đã qua mà làm suy yếu sức mạnh đoàn kết dân tộc. Hãy
để con cháu chúng ta làm nhiệm vụ đánh giá lịch sử. Còn chúng ta trước
mắt là hành động, hành động và hành động. Điều này tôi nói một lần rồi
thôi…
Viết trong những ngày nằm bịnh.
Lê Hiếu Đằng
===========
MỜI XEM BÀI LIÊN QUAN:
Phó GS-TS Nguyễn Lê Ninh - Ủy viên BCH Liên hiệp các Hội KH&KT TP Hồ Chí Minh - giảng viên ĐH Bách khoa - ĐH Quốc gia TP HCM: “Ông Lê Hiếu Đằng đã có tư tưởng lệch lạc, không khác chi hành động phản bội lại niềm tin của Đảng, Nhà nước và người dân”
Trả lờiXóaTheo tôi, trong bài viết của mình, ông Lê Hiếu Đằng (LHĐ) đã có những đánh giá sai lệch về Đảng, về đất nước và dân tộc. Ông đã cố tình quên đi một thực tế, là những dấu ấn, ghi dấu trong lịch sử Việt Nam đã được bạn bè quốc tế, nhân dân các nước dân chủ và nhân loại tiến bộ trên thế giới đều công nhận và ủng hộ Đảng Cộng sản (ĐCS) Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của ĐCS, Việt Nam đã và đang đi lên, phát triển, hội nhập rất tốt với quốc tế.
Trước hết tôi xin nói thẳng, nói thật: Tôi không đồng tình với quan điểm và ý kiến của ông Lê Hiếu Đằng trong bài “suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh”. Nó không khác gì sự phản bội với Đảng, với nhân dân, với lý tưởng mà ông nhân danh theo bấy lâu. Trên quan điểm của một nhà khoa học, cũng là một giảng viên vẫn đang lên giảng đường hằng ngày tại Trường ĐH Bách khoa (ĐH Quốc gia TP HCM), trước hết có thể khẳng định quan điểm triết học của ông LHĐ đã và đang “có vấn đề” dù trong bài viết ông cho biết đã có 45 năm tuổi Đảng. Nếu như ông có một bản lĩnh kiên cường của một đảng viên chân chính, người chiến sĩ cách mạng, thì không bao giờ có những phát biểu sai lệch như vậy. Trong đó, chủ đạo là nếu ông có một quan điểm triết học đúng đắn và nhìn nhận thực tiễn chính xác thì dễ dàng lý giải được các hiện tượng và sự đổi thay trong xã hội đang ngày ngày diễn ra rất nhanh. Lý giải đúng đắn những hiện tượng tiêu cực, những cái xấu hay bất công trong xã hội. Bài viết đã thể hiện ông LHĐ đã chỉ biết nhìn vào những hiện tượng tiêu cực ở nơi này nơi kia, phát biểu “chụp mũ” cho rằng Đảng CSVN là xấu, là kém thì đã quá thiển cận, sai lầm. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam, mà người cầm quân tài ba là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa nhân dân ta đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác, đánh đổ bè lũ tay sai, bán nước, lũ giặc ngoại xâm giành được độc lập cho dân tộc. Những thành công của dân tộc Việt Nam còn phải được nhân dân thế giới công nhận.
Ở khía cạnh, góc độ khác nhìn nhận về lực lượng đảng viên của ta mà ông LHĐ đã có những quan điểm, tôi cho rằng hết sức sai lầm mà tôi chia sẻ: cũng như trong một đàn chim, không chỉ có một con “ghẻ” mà có thể có rất nhiều con “ghẻ”. Trong Đảng cũng vậy, có một số thành phần cơ hội, chưa hoàn toàn lành mạnh “chui” vào hàng ngũ của Đảng và gây hiệu ứng không tốt trong hành vi, lời nói, tác động không tốt tới xã hội, người dân, làm xấu đi hình ảnh người đảng viên chân chính vì lợi ích cá nhân của họ. Là một đảng viên, ông LHĐ không đủ bản lĩnh mà tìm ra hướng giải quyết, quả là thiếu bản lĩnh chính trị, suy nghĩ triết học thiếu đúng đắn. Triết học đúng đắn trước hết phải gắn liền với hình ảnh chân lý của cuộc sống. Mà cuộc sống luôn thay đổi, nhận thức phải thay đổi theo cho phù hợp. Còn mục tiêu cao cả mà người đảng viên theo đuổi là vì dân, vì nước thì phải luôn luôn nhớ. Để trước những thay đổi của thời cuộc thì ta phải tự tìm ra cách lý giải, trả lời được câu hỏi tại sao và tìm cách khắc phục. Chứ không phải là chuyện bất bình trước một hiện tượng trong xã hội mà thích thì nói cho “thỏa cái miệng” hay không thể “không thỏa mãn thì quay lưng” như ông LHĐ đã trình bày trong bài viết của ông. Cái không thỏa mãn ấy chỉ là cái cá nhân, ích kỷ. Ông LHĐ đã coi cá nhân của mình lớn quá! Lấy tư tưởng cá nhân của mình mà suy xét cả xã hội là không được. Và trong tình hình thế giới nhiều thay đổi như hiện nay thì theo tôi là không thể chấp nhận được với một đảng viên Đảng Cộng sản có 45 năm tuổi Đảng như vậy. Đó cũng không khác gì với việc đã phản bội lại lý tưởng, phản bội lại niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và người dân đã giao phó.
Ông Đặng Văn Phước, cán bộ hưu trí ngụ tổ 49A, khu phố 6, phường 17, quận Gò Vấp (TP HCM): Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân
XóaTrong bài viết của mình, ông LHĐ cho rằng đa nguyên đa đảng là quy luật tất yếu và có như vậy mới có dân chủ, người dân mới có thể đưa ra ý kiến này, ý kiến nọ. Ông Đằng từng đảm nhận vị trí tương đối cao trong hệ thống chính trị, do đó việc ông Đằng nói sẽ được một số ít người vì lý do này, lý do khác “đồng thanh, tương ứng”, để rồi tự “suy ra” đó là đòi hỏi của nhân dân. Nếu suy xét sâu xa, tại sao ông Đằng và một số ít người này không đả động một chút gì đến “nền dân chủ phương Tây”, mà ở đó khi một lần bầu cử tổng thống thì ứng cử viên phải có thật nhiều tiền để đi vận động cử tri bỏ phiếu cho mình, mặt khác họ đưa ra thật nhiều lời hứa về dân sinh, dân chủ… nhưng thực hiện có được bao nhiêu.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là đòi hỏi của lịch sử. Khi cả nước chìm đắm trong nô lệ, phong trào đấu tranh giành độc lập cho dân tộc được nhiều sĩ phu, văn thân yêu nước lãnh đạo đã diễn ra liên tục khắp nơi trong cả nước, nhưng đều thất bại. Trong bối cảnh lịch sử đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, dưới sự lãnh đạo tài tình của Bác Hồ đã đưa phong trào cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và hiện nay là một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, tự do, cuộc sống của nhân dân ngày một được nâng lên; Việt Nam được bạn bè quốc tế tin cậy, cụ thể là đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng tăng, là điểm đến của khách du lịch 5 châu.
Khi đọc bài viết của ông LHĐ, tôi thật tiếc cho ông, một người có quá trình tham gia cách mạng dài, có tuổi Đảng cao, nhưng do không đạt được mục đích cá nhân của mình đã có những đánh giá không đúng về vai trò, vị trí, vị thế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông Đằng không thể lấy hiện tượng một số cán bộ đảng viên sai phạm, tiêu cực, tham nhũng… để quy kết, đánh giá về một đội ngũ với hàng triệu đảng viên khác có lập trường kiên định, có phẩm chất đạo đức tốt đang từng ngày từng giờ cống hiến sức lực, trí tuệ của mình cho công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước. Quá trình lãnh đạo, Đảng ta có những sai lầm, khuyết điểm; nhưng Đảng ta đã nhận ra và đã sửa chữa, khắc phục những khuyết điểm đó; đồng thời xử lý nghiêm khắc những cán bộ đảng viên tiêu cực, tham nhũng. Lịch sử đã chứng minh: chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Luật sư Đoàn Thị Thu Hiền, Công ty Luật Hoàng Minh Tâm - TP HCM: Người vội tin mới là những kẻ bệnh nặng
XóaKhoan nhắc đến nội dung bài viết của ông LHĐ đang được những kẻ cơ hội tung hô, chỉ cần nhìn vào phần tiêu đề được chính người viết ra đặt cho cái tên là “Suy nghĩ trong những ngày nằm bệnh” đã buộc những người tỉnh táo phải suy xét thận trọng. Bởi đã là người bệnh, phải nằm bẹp để điều trị ở bệnh viện thì việc đầu tiên phải xét đến là liệu người viết ra những dòng đó đầu óc có còn đủ minh mẫn cần thiết hay không khi mà sức khỏe không đảm bảo; nhất là sau khi đã phải điều trị một lượng thuốc nhất định vào người có thể dẫn đến ảo giác, ức chế thần kinh? Ở khía cạnh pháp luật, được biết ông Đằng từng là luật gia, tức là người có kiến thức về mặt pháp luật, nên nếu có đủ tỉnh táo cần thiết để chịu trách nhiệm trước pháp luật, ông Đằng thừa hiểu rằng vấn đề nào được tự do ngôn luận; vấn đề nào khi phát ngôn ra sẽ bị pháp luật điều chỉnh. Đặc biệt là khi hành vi vi phạm đã được thực hiện bằng cách suy diễn, quy chụp, viết ra “giấy trắng mực đen” rồi đem phát tán mà không đưa ra được chứng cứ cần thiết. Trước đây ông Đằng cũng từng là người tham gia đấu tranh để góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng rồi trở thành cán bộ Nhà nước trong nhiều năm liền. Nay bỗng quay ngoắt 180 độ, sẵn sàng phủ nhận tất cả những gì chính bản thân ông ta đã mơ ước, theo đuổi và phấn đấu; kêu gào đòi phải thay đổi thể chế, nhưng lại không thể đưa được ra mô hình nào khả dĩ cũng có nghĩa góp ý nhưng không dựa trên tinh thần xây dựng, mà là hoạt động chống phá. Nên có lẽ chính ông ta đang tự biến mình thành con rối cho những kẻ cơ hội giật dây điều khiển