NGHĨ VỀ ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN
1975
Đã có hàng ngàn cuốn sách, bài báo của
hàng trăm tác giả trong và ngoài nước phân tích, đánh giá về Đại thắng mùa xuân
1975 của lực lượng Cách mạng Việt Nam. Trong bài viết ngắn này, tác giả chỉ tập
trung phân tích một số tình tiết, chứng minh các nhân tố sau:
Một, vai trò cá nhân và tập thể lãnh
đạo.
Hai, vai trò quần chúng nhân dân, cán
bộ chiến sĩ Cách mạng.
Ba , về lực lượng quân sự hai phe.
Vai
trò lãnh đạo:
Các nhà nghiên cứu tiến bộ trên thế
giới đều nhất trí với nhau về vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có công đầu
trong việc tổ chức, lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành lại độc lập, thống nhất
đất nước từ tay thực dân Pháp, đế quốc Mỹ.
Có
một Đảng chân chính, đoàn kết thống nhất ý chí và hành động, có đường lối đúng
đắn tập hợp mọi lực lượng yêu nước quanh mình, biết tổ chức làm chiến tranh tạo
nên sức mạnh, lực lượng từ không đến có, từ yếu sang mạnh, từ du kích lên chính
quy hiện đại, càng đánh càng mạnh, đối phương không nhận ra chiến thuật, chiến
lược của bên ta, và cuối cùng dùng sức mạng tổng hợp quân sự, chính trị Tổng
tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 gây cho quân địch và những nhà nghiên cứu
trên thế giới sự ngạc nhiên đến ngở ngàng nhất trong thế kỷ XX: một nước dân số
không đông, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, yếu kém đã biết xây dựng thế và lực
cho mình đủ sức đánh thắng Pháp rồi Mỹ cường quốc hàng đầu thế giới.
Người
Mỹ sau khi thua họ cũng nhìn ra cái mạnh của Cách mạng Việt Nam, cái yếu của họ
và chính quyền tay sai Sài Gòn: Xuyên suốt 9 năm chống thực dân Pháp rồi 21 năm
chống Mỹ, lãnh tụ Cách mạng Việt Nam là Hồ Chí Minh, và người kế nhiệm lãnh đạo,
người thống lĩnh quân đội là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Vì vậy người Việt Nam có
được đường lối chủ trương, lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhất quán, xuyên suốt
cuộc chiến, tạo nên thế lực càng đánh càng mạnh và cuối cùng giành thắng lợi
hoàn toàn. Người Pháp, người Mỹ không có được điểm ưu việt nói trên. Nước Pháp,
vì cuộc chiến với Việt Nam đã xảy ra khủng hoảng không có người nào ngồi ghế
Thủ tướng được lâu, phải thay đổi liên tục.
Người Mỹ cũng vậy, cuộc chiến 20 năm với Việt Nam họ có 4 đời Tổng
thống, 3 đời Đại tướng(*).Tổng thống Nixon phải từ bỏ ý định tranh cử nhiệm kỳ
sau. Đường lối chính trị, quân sự cũng thay đổi liên tục: Chiến tranh đơn
phương, tự do bắn giết trong lúc đối phương không chống lại bằng vũ lực; Chiến
tranh đặc biệt; Chiến tranh cục bộ; Việt Nam hóa chiến tranh. Người Mỹ còn mặt
yếu không thể khắc phục: người lính không có động cơ, tự nguyện chiến đấu như
người lính của Cách mạng. Mặt khác, quân viễn chinh chỉ ở chiến trường vài năm rồi
về nước thay một lực lượng mới, hạn chế sự hiểu biết địa hình địa vật chiến
trường. Người lính Cách mạng chiến đấu trên quê hương đất nước của mình, đi đâu
ở đâu cũng là nhà, được người dân mến thương ủng hộ hết lòng. Lính của Sài Gòn,
Mỹ và các nước chư hầu không được người dân ủng hộ mà còn bị họ tích cực chống
lại.
Lãnh tụ và lãnh đạo Cách mạng Việt Nam
các cấp hòa đồng, chịu gian khổ hy sinh như người chiến sĩ nên tạo sự gắn bó
mật thiết giữa người lãnh đạo, chỉ huy với chiến sĩ và nhân dân. Chủ tịch Hồ
Chí Minh từng dặn dò các tướng lĩnh: Chiến sĩ chưa có cơm thì chỉ huy không
được kêu mình đói, chiến sĩ thiếu áo mặc chỉ huy không được nói mình rét...cán
bộ đối với chiến sĩ phải như anh em ruột thịt...Điều này người Mỹ và lực lượng
chư hầu cả VNCH không có được. Chính vì thế nên nhiều người trong hàng ngũ của
họ nhìn thấy cuộc chiến tranh họ đang tham gia là phi nghĩa, nảy sinh tư tưởng
phản chiến ngày càng đông.
Vai
trò quần chúng nhân dân cán bộ chiến sĩ:
Ở miền Nam Việt Nam thời chống Mỹ cứu
nước, có hai vùng: Một bên chính quyền Sài Gòn quản lý, một bên Chính phủ Cách
mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quản lý (vùng giải phóng). Vùng giải
phóng dù bị bom đạn của địch đánh phá ác liệt nhưng người dân luôn bám đất bám
làng sản xuất, đóng góp sức người sức của, ủng hộ Cách mạng không tiếc máu
xương quyết chiến thắng xâm lược. Có một thực tế rõ ràng: Người ở vùng tạm
chiếm tìm cách thoát ly tự nguyện tham gia lực lượng kháng chiến, còn địch phải
bắt buộc thanh niên đi lính. Không có ai ở vùng giải phóng chạy ra vùng địch để
tự nguyện đi lính cho QLVNCH.
Lực lượng hai bên còn có cách sống,
đối xử với người dân rất khác nhau:
- Bên cách mạng, cán bộ chiến sĩ luôn
tuân thủ kỷ luật rất nghiêm, không lấy cây kim sợi chỉ của dân, phải giúp dân,
thực hành công tác dân vận cho tốt, tạo nên sự gắn bó giữa người dân với cán bộ
chiến sĩ như cá với nước, nên: "Đi dân nhớ, ở dân thương", dân bao
bọc, nuôi dưỡng che giấu bảo vệ cán bộ chiến sĩ giải phóng - không chỉ ở vùng
giải phóng mà có cả ở vùng địch tạm chiếm nữa.
- Lính "Quốc gia", khi càn
vào vùng giải phóng họ bắn phá, giết chóc đồng bào, hãm hiếp phụ nữ, cướp tài
sản của dân, xảy ra thường xuyên. Thời ấy lính Quốc gia mặc quần có hai túi ở
đùi, người ta kháo nhau dùng để đựng gà vịt họ cướp của dân. - Đây là sụ thật
chứ không phải nói đùa chế nhạo. Lính Mỹ, Hàn Quốc, Thái Lan...tàn sát người
dân vùng giải phóng, đã xảy ra nhiều trường hợp đàn bà trẻ em bị giết chết oan
uổng, gây ra oán thù khắp nơi, thì làm sao người dân ủng hộ họ được.
Điều thực tế nêu trên cho thấy chính
nghĩa đã thuộc về bên cách mạng rất rõ ràng. Những người lính viễn chinh có
lương tâm, những nhà nghiên cứu trên thế giới có điều kiện tiếp cận tình hình
ấy họ nhận ra bên sẽ thắng trong cuộc chiến này; nhà báo phương Tây Wilfred Burchett
đã đến vùng giải phóng miền Nam Việt Nam trước tiên, khá sớm, qua tiếp xúc với
lãnh đạo, cán bộ chiến sĩ, người dân vùng giải phóng ông đã viết nhiều bài báo,
in nhiều cuốn sách khẳng định: CÁCH
MẠNG VN SẼ CHIẾN THẮNG.
Lực
lượng quân sự:
Nếu chỉ xem đơn thuần về số lượng quân
lính, trang thiết bị quân sự hai bên thì Mỹ và quân đội Sài Gòn mạnh hơn lực
lượng miền Bắc và của MTDTGPMN rất nhiều lần.
Lực lượng Quân Giải phóng của miền
Nam, trước Đồng khởi 1959 gần như không đáng kể. Sau Đồng khởi, lực lượng ba
thứ quân xây dựng tại chỗ và được miền Bắc chi viện phát triển nhanh nhưng quân
số vẫn ít hơn quân Mỹ - ngụy và chư hầu. Trang bị vũ khí cũng kém hơn. Phía đối
phương lực lượng không quân chiếm lĩnh làm chủ bầu trời, cơ động đổ quân bằng
trực thăng, kịp chi viện cho chiến trường, làm cản ngại không nhỏ sức mạnh của
quân ta. Xe tăng, bọc thép, pháo cực nhanh cũng là một lợi thế đáng kể của
địch.
Sau khi Mỹ rút quân lực lượng Cách
mạng phát triển nhanh, chiến trường đã có xe tăng phối hợp với bộ binh trong
chiến đấu, việc điều quân một số chiến trường có ô tô vận chuyển. Tuy vậy, đến
Chiến dịch Hồ Chí Minh việc tiến quân mới có điều kiện "thần tốc"
hành tiến bằng ô tô đến hội quân tại Sài Gòn.
Sau Hiệp định Paris 1973, chính quyền
Sài Gòn không chịu thi hành Hiệp định, họ xua quân đánh chiếm vùng giải phóng,
lấn đất giành dân, buộc phía Cách mạng phải đánh trả. Qua đó, cho thấy không có
khả năng thống nhất bằng phương pháp hòa bình nên việc giải phóng miền Nam bằng
sức mạnh quân sự là con đường duy nhất đúng. Ta nhanh chóng bố trí lực lượng mở
chiến dịch Tây Nguyên rồi Trị Thiên, Khu năm và Chiến dịch Hồ Chí Minh giải
phóng Thành phố Sài Gòn đầu não của địch.
Đến đầu năm 1975, lực lượng quân đội,
cảnh sát, phòng vệ dân sự của VNCH còn nguyên vẹn, trên 1 triệu 200 ngàn quân,
họ vẫn đông hơn bên Cách mạng. Nhưng về tinh thần thì sa sút nặng, bởi những lý
do thuộc bản chất một quân đội không có chính nghĩa.
Cụ thể:
- Khi có quân Mỹ và chư hầu dồn sức,
nhưng không thắng. Sau khi đội quân viễn chinh rút về nước, đội quân VNCH
"đơn độc" không còn chỗ dựa nữa nên tư tưởng hoang mang, ý chí chiến
đấu sa sút là tất yếu.
- Một chính quyền, quân đội được
"nuôi" bằng viện trợ nước ngoài nó mới "thở" được. Khi mất
nguồn viện trợ, ắt "tắt thở" là chuyện cũng tất yếu.
- Trong chiến đấu, quân lính phải có
chỉ huy giỏi, sát cánh bên họ thì lính mới tuân lệnh. Chính quyền, quân đội Sài
Gòn trong những ngày giữa cuối tháng Tư lịch
sử 1975, ở vào tình trạng "Tướng đầu cuốn gói ba quân ngỡ
ngàng". Rắn mất đầu, tướng tá lục tục bỏ chạy tiếp ra nước ngoài
thì lính và sĩ quan cấp thấp tự tan rã cũng
là tất yếu.
Lịch sử chiến tranh thế giới chưa có
cuộc tháo chạy nào như cuộc tháo chạy của QLVNCH mùa xuân 1975: Tháo chạy khỏi
Tây Nguyên là cuộc tháo chạy tồi tệ nhất trong chiến tranh. Tháo chạy khỏi Trị
Thiên - Quảng Nam Đà Nẵng cũng không hơn tháo chạy bỏ Tây Nguyên bao nhiêu.
Lính tráng, chỉ huy không chiến đấu, lột bỏ quần áo, giày, nón sắt, vứt súng
đạn hàng cây số trên đường phố ngoại ô Sài Gòn như mọi người đã biết.
Trước tình hình càng đánh càng thắng, trận
thắng sau to hơn trước, khí thế quân dân lên cao vùn vụt, thu chiến lợi phẩm của
địch đủ loại số lượng lớn nhất: máy bay, xe tăng, chiến xa, vũ khí, xăng
dầu...bổ sung kịp thời, lực lượng cách mạng lớn mạnh như Phù Đổng; trong một
thời gian ngắn đủ lực mở cuộc chiến cuối cùng dự định phải giải quyết trong
tình huống phức tạp, kẻ thù còn cố chống
trả. Nhưng trước sức mạnh của quân đội và quần chúng cách mạng, buộc Tổng thống
Dương Văn Minh phải chọn giải pháp đầu hàng, quân đội Sài Gòn chỉ còn vài nhóm
nhỏ chống cự lẻ tẻ nhanh chóng bị quân ta tiêu diệt trên đường thẳng tiến vào
Dinh Độc lập lúc 11 giờ 30 ngày 30-4-1975. Rồi hoàn thành nhiệm vụ giải phóng
toàn miền Nam vào ngày hôm sau ở các tỉnh đồng bằng sông Cữu Long.
Ngày nay thời bình, từ tình hình thực
tế Đảng, Nhà nước ta chủ trương hiện đại hóa quân đội bao gồm các mảng đổi mới
phương thức huấn luyện, tăng cường quản lý chặt chẽ, mua sắm và chế tạo các
loại vũ khí, khí tài mới, ưu tiên trang bị cho lực lượng Phòng không, Không quân,
Hải quân, v.v...mạnh, hiện đại gấp nhiều lần 40 năm trước, sẵn sàng đập tan
những thế lực phản động, bảo vệ toàn vẹn Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.
GIÀ
THÉP
Chú thích (thao
Wikipedia):
Các
Tổng thống Mỹ lãnh đạo cuộc chiến Việt Nam: Eisenhower, Kennedy, Johnson, Nixxon,
và hon một năm đầu của Gerald Fotd nữa. Các Đại tướng: McNamara, Westmoreland,
Abrams.
Lực lượng quân sự hai phía:
* Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và và
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam: Quân số: 520.000, trong đó
280.000chie61n đấu ở miền Nam (năm 1968).
Trang bị nặng (năm 1968): 150 xe
thiết giáp, 850 đại bác, 90 máy bay và trực thăng, 65 hệ thống phòng không
SA-2, 1000 pháo phòng không, 12 tàu phóng ngư lôi và vài chục tàu vận tải nhỏ.
Trung Quốc: 170.000 (giai đoạn
1965-1969, chủ yếu là nhân viên hậu cần-làm đường phía bắc Hà Nội), Liên Xô:
3000, CHDCND Triều Tiên: 300-600.
* Mỹ và chư hầu: 1.200.000 quân
(tháng 7.1968), gồm:
Hoa kỳ: 541.933 người, VNCH;
600.00, Thái Lan: 5900, Hàn Quốc: 50.355, Philippines: 1825, Úc: 7.379, New
Zealand: 523, Đài Loan: 31.
Trang bị của địch (năm 1968): 3787
xe tăng, xe thiết giáp, 2540 đại bác các loại, hơn 2000 máy bay và 3.300 máy
bay trực thăng (chiếm 60% Không lực Hoa Kỳ), 4 tàu sân bay, 263 tầu chiến và
hơn 1500 xuồng cỡ nhỏ (chiếm 40% Hải quân hoa kỳ)...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét