Cuối tuần: GOOGLE.TIENLANG- CÔ LÀ AI???

Thứ Năm, 27 tháng 11, 2014

THÔNG TƯ HƯỚNG DẪN VỀ CÔNG TÁC TÌM KIẾM, QUY TẬP HÀI CỐT LIỆT SĨ

Lời dẫn: Google.tienlang hoàn toàn đồng tình với ý kiến nhận xét dưới đây của bác Nguyễn Tấn Xuân:

Anh Đông La vẫn cho rằng Nhà nước không cấm ngoại cảm. Vâng, đúng vậy. Nhà nước mà cụ thể là Bộ Quốc phòng có thông tư vầ việc tìm kiếm quy tập hài cốt Liệt sĩ. Trong Thông tư này không có một chữ nhắc đến ngoại cảm nhưng toàn bộ Thông tư toát lên tinh thần CẤM NGOẠI CẢM. Bởi việc quyết định cất bốc dứt khoát phải có quyết định của cơ quan quân sự. Mọi công dân, mọi tổ chức có thông tin về mộ liệt sĩ dứt khoát phải cung cấp cho cơ quan quân sự để cơ quan này thẩm định, đối chiếu với nguồn thông tin khác rồi chính cơ quan quân sự mới quyết định.
Như vậy, cái kiểu nghe nhà ngoại cảm rồi đến năn nỉ ỉ ôi xin cất bốc hài cốt hoặc bốc trộm hài cốt từ nay đã cấm tiệt.
Nếu ai vi phạm điều CẤM này sẽ bị xử lý theo pháp luật.
Cụ thể là chính quyền xã huyện tỉnh nơi có nghĩa trang phải chịu trách nhiệm quản lý nghĩa trang, không cho các nhà ngoại cảm làm bậy như trước.
Đề nghị Chủ trang Google.tienlang khôi phục lại entry Toàn văn Thông tư của Bộ Quốc phòng về vấn đề này. Trước đây đã có ở blog cũ nhưng đã bị hack. Hiện nay trên mạng internet có vẻ rất khó tìm cái Thông tư này. Nếu cần thì tôi sẽ gửi cho các bạn chủ trang Thông tư đó vào hộp thư.
Cảm ơn.

Thể theo yêu cầu rất chính đáng của bác Nguyễn Tấn Xuân, chúng tôi xin đăng lại Thông tư này:
******************* 

BỘ QUỐC PHÒNG                           CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 
Số: 214/2013/TT-BQP                                       Độc lập - Tự do - Hạnh phúc                         
                                                                 Hà Nội, ngày 07 tháng 12 năm 2013


THÔNG TƯ

HƯỚNG DẪN VỀ CÔNG TÁC TÌM KIẾM, QUY TẬP HÀI CỐT LIỆT SĨ

Căn cứ Nghị định số 35/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 4 năm 2013 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Quốc phòng;

Căn cứ Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09 tháng 4 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng;

Căn cứ Quyết định số 1237/QĐ-TTg ngày 27 tháng 7 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo (sau đây gọi tắt là Quyết định 1237/QĐ-TTg);

Xét đề nghị của Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị;

Bộ trưởng Bộ Quc phòng hướng dẫn công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ như sau:
 

 
Chương 1.

QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng

1. Phạm vi điều chỉnh: Thông tư này hướng dẫn về công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ ở trong và ngoài nước, bao gồm: Tuyên truyền; cung cấp, tiếp nhận, rà soát, kiện toàn hồ sơ, xây dựng cơ sở dữ liệu tích hợp về liệt sĩ, mộ liệt sĩ; tổ chức lực lượng, bảo đảm và các hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; quan hệ hợp tác quốc tế; sơ kết, tổng kết công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.

2. Đối tượng áp dụng: Cơ quan, đơn vị, địa phương trực tiếp thực hiện công tác tìm kiếm, quy tập; tổ chức, cá nhân có liên quan đến công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.

Điều 2. Trách nhiệm tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ

1. Các tổ chức, đoàn thể, các lực lượng được cấp có thẩm quyền giao nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập, có trách nhiệm tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ hy sinh trong các cuộc chiến tranh, đưa vào an táng tại các nghĩa trang liệt sĩ.

2. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ; tham gia tìm kiếm, quy tập; hỗ trợ kinh phí, trang bị, phương tiện, vật chất, kỹ thuật phục vụ công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.

Điều 3. Nội dung công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ

1. Tuyên truyền về công tác tìm kiếm, quy tập.

2. Cung cấp, tiếp nhận, rà soát, hoàn chỉnh hồ sơ, xây dựng cơ sở dữ liệu về liệt sĩ, mộ liệt sĩ.

3. Tổ chức lực lượng và bảo đảm cho công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.

4. Tổ chức các hoạt động tìm kiếm, cất bốc, quy tập hài cốt liệt sĩ.

5. Lấy mẫu sinh phẩm để phục vụ công tác giám định ADN.

6. Quan hệ hợp tác quốc tế trong công tác tìm kiếm, quy tập.

7. Sơ kết, tổng kết công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.

Điều 4. Phân cấp quản lý công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ

1. Bộ Quốc phòng giúp Chính phủ quản lý Nhà nước; thống nhất chỉ đạo thực hiện công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ ở trong và ngoài nước.

2. Các Bộ, ngành có trách nhiệm quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện các nội dung tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

3. Các quân khu có trách nhiệm giúp Bộ Quốc phòng quản lý, chỉ đạo công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ trên địa bàn quân khu và ở ngoài nước theo phân công của Ban Công tác đặc biệt, Ủy ban Chuyên trách Chính phủ.

4. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) có trách nhiệm quản lý, chỉ đạo công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ trên địa bàn; quản lý, chỉ đạo công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ ở ngoài nước theo phân công của Ban Công tác đặc biệt, Ủy ban Chuyên trách Chính phủ.

5. Các đơn vị quân đội từ cấp trung đoàn và tương đương trở lên có trách nhiệm hướng dẫn, tổ chức thực hiện công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ theo phạm vi trách nhiệm được phân công.

6. Lực lượng chuyên trách, lực lượng lâm thời do cấp có thẩm quyền thành lập là lực lượng nòng ct thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt lit sĩ.

Chương 2.

TÌM KIẾM, QUY TẬP HÀI CỐT LIỆT SĨ

MỤC 1. QUẢN LÝ VÀ XỬ LÝ THÔNG TIN VỀ LIỆT SĨ, MỘ LIỆT SĨ

Điều 5. Giải mã ký hiệu, phiên hiệu đơn vị quân đội trong chiến tranh

1. Công tác giải mã ký hiệu, phiên hiệu đơn vị quân đội trong chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế thực hiện theo Chỉ thị số 07/CT-BQP ngày 22 tháng 3 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

2. Cơ sở dữ liệu giải mã ký hiệu, phiên hiệu đơn vị được cấp có thẩm quyền phê duyệt ban hành là căn cứ có tính pháp lý phục vụ công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; giải quyết chính sách tồn đọng sau chiến tranh.

Điều 6. Thu thập, rà soát, hoàn chỉnh hồ sơ liệt sĩ, mộ liệt sĩ phục vụ công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ

1. Các Bộ, ngành, đơn vị, địa phương có trách nhiệm thu thập, rà soát, hoàn chỉnh hồ sơ liệt sĩ, mộ liệt sĩ thuộc cơ quan, đơn vị, địa phương mình quản lý.

2. Nội dung thu thập, rà soát, hoàn chỉnh hồ sơ liệt sĩ, mộ liệt sĩ

a) Rà soát, thống kê, bổ sung, xác định số lượng, hoàn chỉnh danh sách liệt sĩ, xác định nơi chôn cất ban đầu của liệt sĩ;

b) y dựng, hoàn thiện cơ sở dữ liệu về liệt sĩ, mộ liệt sĩ; tích hợp các cơ sở dữ liệu để phục vụ công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ;

c) Hoàn chỉnh sơ đồ mộ liệt sĩ hiện đang quản lý.

3. Phương pháp thu thập, rà soát, hoàn chỉnh hồ sơ liệt sĩ, mộ liệt sĩ

a) Các Bộ, ngành, địa phương chỉ đạo các đơn vị thuộc quyền rà soát, thống kê, hoàn chỉnh hồ sơ, danh sách liệt sĩ và các thông tin liên quan đến liệt sĩ, mộ liệt sĩ thuộc Bộ, ngành, địa phương; cung cấp cho các đơn vị quân đội khi có yêu cầu để thống nhất quản lý và tổ chức tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ;

b) Các đơn vị quân đội từ cấp trung đoàn và tương đương trở lên, các địa phương từ cấp xã trở lên tiếp nhận thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ; rà soát, thống kê, bổ sung các thông tin còn thiếu; so sánh, đối chiếu, hoàn chỉnh danh sách liệt sĩ, xác định nơi chôn cất ban đầu, hoàn chỉnh sơ đồ mộ liệt sĩ;

c) Cục Chính sách, Tổng cục Chính trị xây dựng cơ sở dữ liệu tích hợp về liệt sĩ, mộ liệt sĩ; chuyển giao, hướng dẫn sử dụng hệ cơ sở dữ liệu đối với các cơ quan, đơn vị, địa phương; tiếp nhận, chỉnh lý, hoàn thiện hệ cơ sở dữ liệu tích hợp về liệt sĩ, mộ liệt sĩ.

Điều 7. Cung cấp, tiếp nhận, xử lý thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ

1. Tổ chức, cá nhân có thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ có trách nhiệm cung cấp cho các cơ quan, đơn vị, địa phương, các lực lượng chuyên trách tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ và các cơ quan thông tấn, báo chí phục vụ công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.

2. Nội dung cung cấp, tiếp nhận, xử lý thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ bao gồm: Cơ sở nguồn tin; vị trí, số lượng mộ, danh sách liệt sĩ, sơ đồ mộ chí và các đặc điểm khác có liên quan (nếu có).

3. Các cơ quan, đơn vị, địa phương tiếp nhận có trách nhiệm kiểm tra, đối chiếu, xử lý thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ do các tổ chức, cá nhân cung cấp. Khi xác định được yếu tố cần thiết, có tính xác thực, cung cấp cho lực lượng tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.

4. Văn phòng Ban Chỉ đạo quốc gia, cơ quan thường trực đồng thời là cơ quan trung tâm giúp Ban Chỉ đạo các cấp tiếp nhận, xử lý, quản lý và cung cấp thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ.

Điều 8. Lập bản đồ và hệ thông tin địa lý tìm kiếm, quy tập hài cốt lit sĩ

1. Bản đồ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ là tài liệu chuyên ngành, phản ánh kết quả công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ: Khu vực có chôn cất liệt sĩ đã tổ chức tìm kiếm, quy tập xong; khu vực có thông tin, đã tìm kiếm, quy tập nhưng chưa hết, cần phải tìm kiếm, quy tập tiếp; khu vực có thông tin chôn cất liệt sĩ nhưng chưa rõ vị trí cụ thể; khu vực chưa tìm kiếm, quy tập.

Bản đồ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được lập theo địa giới hành chính ở 3 cấp; Cấp xã, cấp huyện và cấp tỉnh.

2. Căn cứ lập bản đồ và nội dung bản đồ

a) Căn cứ lập bản đồ

- Địa giới hành chính theo quy định của cấp có thẩm quyền;

- Kết quả rà soát, đối chiếu về liệt sĩ, mộ liệt sĩ; nghĩa trang liệt sĩ;

- Thông tin về mộ liệt sĩ do các đơn vị, địa phương, các tổ chức, cá nhân cung cấp;

- Thực tiễn công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ ở địa phương.

b) Nội dung bản đồ

Bản đồ tìm kiếm, quy tập thể hiện đầy đủ các yếu tố có liên quan đến nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ:

- Số lượng liệt sĩ hy sinh trên địa bàn;

- Khu vực có mộ liệt sĩ, đã tìm kiếm, quy tập xong;

- Khu vực đã tìm kiếm, quy tập nhưng còn hài cốt liệt sĩ cần tiếp tục tìm kiếm, quy tập; dự kiến số lượng mộ liệt sĩ cần tiếp tục tìm kiếm, quy tập;

- Khu vực có mộ liệt sĩ nhưng chưa tìm kiếm, quy tập;

- Khu vực có thông tin chôn cất liệt sĩ nhưng chưa rõ vị trí cụ thể;

- Tổ chức lực lượng, phương tiện tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ;

- Các yếu tố khác có liên quan.

3. Trình tự, trách nhiệm lập bản đồ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ

a) Cơ quan quân sự địa phương các cấp chủ trì, giúp Ủy ban nhân dân tiếp nhận, xử lý thông tin; khảo sát, xác minh, kết luận các nội dung theo Điểm b, Khoản 2 Điều này;

b) Tổ chức Hội nghị liên ngành từng cấp, do Chủ tịch Ủy ban nhân dân chủ trì, thành phần gồm: Quân sự, Công an, Cựu Chiến binh, Lao động - Thương binh và Xã hội, Người cao tuổi và các thành phần khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân quy định, kết luận các nội dung của bản đồ;

c) Trên cơ sở kết luận các nội dung của bản đồ, cơ quan quân sự địa phương các cấp chủ trì, giúp Ủy ban nhân dân tổng hợp, lập bản đồ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ của địa phương;

d) Hằng năm, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp chỉ đạo rà soát, điều chỉnh, bổ sung nội dung bản đồ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ theo kết quả đã thực hiện;

đ) Cục Chính sách/Tổng cục Chính trị chủ trì, phối hợp với Cục Bản đồ/BTổng Tham mưu hướng dẫn về nghiệp vụ lập bản đồ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Trên cơ sở bản đồ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ và các thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ do các tổ chức, cá nhân và địa phương cung cấp, rà soát, đối chiếu, phân loại, tổng hợp xây dựng Hệ thng tin địa lý phục vụ quản lý, tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ trong phạm vi toàn quốc.

MỤC 2. TỔ CHỨC LỰC LƯỢNG VÀ BẢO ĐẢM CHO CÔNG TÁC TÌM KIẾM, QUY TẬP HÀI CỐT LIỆT SĨ

Điều 9. Ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ

1. Ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ (gọi tắt là Ban Chỉ đạo quốc gia 1237) được thành lập theo Quyết định số 1753/QĐ-TTg ngày 30 tháng 9 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo.

2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Chỉ đạo quốc gia 1237 được quy định tại Điều 2 Quyết định số 1753/QĐ-TTg ngày 30 tháng 9 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ.

3. Văn phòng Ban Chỉ đạo quốc gia 1237 là cơ quan giúp việc của Ban Chỉ đạo, hoạt động theo Quy chế được ban hành theo Quyết định số 249/QĐ-BCĐQG 1237 ngày 07 tháng 11 năm 2013 của Trưởng Ban Chỉ đạo. Tổ chức, biên chế, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Văn phòng Ban Chỉ đạo quốc gia 1237 do Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo quốc gia xem xét, quyết định.

Điều 10. Ban Chỉ đạo tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ cấp quân khu

1. Ban Chỉ đạo tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ của quân khu do Tư lệnh quân khu quyết định thành lập, gồm:

a) Trưởng Ban Chỉ đạo; Phó Chính ủy quân khu;

b) Các Phó trưởng Ban Chđạo:

- Phó Trưởng ban Thường trực: Thủ trưởng Cục Chính trị quân khu;

- Phó Trưởng ban; Thủ trưởng Bộ Tham mưu quân khu.

c) Các Ủy viên Ban Chỉ đạo, gồm: Đại diện Thủ trưởng các cơ quan; Chính trị, Hậu cần, Kỹ thuật; Thủ trưởng các Phòng: Chính sách, Cán bộ, Tuyên huấn, Quân lực, Tác huấn, Bản đồ và Tài chính thuộc quân khu.

2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Chỉ đạo

Ban Chỉ đạo quân khu có trách nhiệm giúp Tư lệnh, Chính ủy quân khu triển khai, quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ trên địa bàn đảm nhiệm, có nhiệm vụ sau:

a) Chỉ đạo, điều hành sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương tổ chức triển khai thực hiện công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ trên địa bàn; chỉ đạo công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ ở ngoài nước theo phân công của Ban Công tác đặc biệt, Ủy ban Chuyên trách Chính phủ;

b) Kiểm tra, đôn đốc, đánh giá kết quả công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, giải quyết những vướng mắc trong tổ chức thực hiện và định kỳ báo cáo, tổng hợp kết quả thực hiện công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ trên địa bàn về Bộ Quốc phòng và Ban Chỉ đạo quốc gia 1237.

c) Sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm công tác tìm kiếm, quy tập; đề xuất khen thưởng các tập th, cá nhân có thành tích trong triển khai, thực hiện công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.

3. Hoạt động của Ban Chỉ đạo

a) Trưởng Ban Chỉ đạo ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Chỉ đạo cấp quân khu; phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên Ban Chỉ đạo;

b) Ban Chỉ đạo quân khu làm việc theo chế độ kiêm nhiệm;

c) Trưởng ban, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo ký sử dụng con dấu của Bộ Tư lệnh quân khu và cơ quan mình.

4. Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo

Cục Chính trị là cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo cấp quân khu. Giúp việc Cơ quan Thường trực là Phòng Chính sách quân khu và một số cán bộ kiêm nhiệm, có nhiệm vụ:

a) Xây dựng kế hoạch, hướng dẫn, phục vụ Ban Chỉ đạo cấp quân khu kiểm tra các đơn vị, địa phương triển khai thực hiện; tổng hợp báo cáo kết quả và chuẩn bị kế hoạch, nội dung sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ trên địa bàn quân khu;

b) Theo dõi, nắm tình hình, chủ động phối hợp với các cơ quan, đơn vị, địa phương xử lý những vướng mắc trong tổ chức thực hiện; hướng dẫn thực hiện và kiểm tra các công việc đã được phê duyệt hoặc có chủ trương triển khai thực hiện;

c) Lập dự toán kinh phí, kế hoạch bảo đảm cho nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ và bảo đảm cho hoạt động của Ban Chỉ đạo cấp quân khu; thực hiện chế độ báo cáo theo quy định.

Điều 11. Ban Chỉ đạo tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

1. Ban Chỉ đạo tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là Ban Chỉ đạo 1237 cấp tỉnh) do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập.

2. Thành phần Ban Chỉ đạo, gồm:

a) Trưởng Ban Chỉ đạo: Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh.

b) Các Phó Trưởng ban Ban Chỉ đạo:

- Phó Trưởng ban Thường trực: Chính ủy Bộ Chỉ huy quân sự cấp tỉnh.

- Phó Trưởng ban: Đại biểu lãnh đạo Sở Lao động - Thương binh và Xã hội.

c) Các Ủy viên Ban chỉ đạo gồm đại diện lãnh đạo các sở, ngành: Công an, Tài chính, Văn phòng Ủy ban nhân dân, Ban Tuyên giáo, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Cựu Chiến binh; Thủ trưởng Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng, Thủ trưởng Bộ Chỉ huy quân sự và các cơ quan Tham mưu, Chính trị/BChỉ huy quân sự cấp tỉnh.

Đối với các tỉnh, thành phố số lượng hài cốt liệt sĩ trên địa bàn cần tìm kiếm, cất bốc, quy tập còn lớn, có thể bổ sung thêm Ủy viên Ban Chỉ đạo, nhưng tổng số không quá 15 người.

3. Nhiệm vụ, quyn hạn của Ban Chỉ đạo

Ban Chỉ đạo cấp tỉnh có trách nhiệm giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh triển khai, quản lý, thực hiện công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ trên địa bàn, có nhiệm vụ sau:

a) Chỉ đạo, điều hành các cơ quan, đơn vị, địa phương tổ chức thực hiện công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ trên địa bàn; chỉ đạo công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ ở ngoài nước theo phân công của Ban Công tác đặc biệt, Ủy ban Chuyên trách Chính phủ;

b) Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, đánh giá kết quả công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, giải quyết những vướng mắc phát sinh ở địa phương và định kỳ báo cáo kết quả thực hiện công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ về Ban Chỉ đạo cấp Quân khu để tổng hợp; báo cáo Bộ Quốc phòng và Ban Chỉ đạo quốc gia 1237.

c) Sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm; đề xuất khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích trong triển khai, thực hiện công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.

4. Hoạt động của Ban Chỉ đạo

a) Trưởng Ban Chỉ đạo ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh; phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên Ban Chỉ đạo;

b) Ban Chỉ đạo cấp tỉnh làm việc theo chế độ kiêm nhiệm; giúp việc Ban Chỉ đạo cấp tỉnh có cơ quan Thường trực đặt tại Bộ Chỉ huy quân sự cấp tỉnh;

c) Trưởng Ban Chỉ đạo sử dụng con dấu của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Phó Trưởng Ban và Ủy viên Ban Chỉ đạo sử dụng con dấu của cơ quan, đơn vị mình;

d) Ban Chỉ đạo cấp tỉnh phối hợp chỉ đạo, cùng với Ban Công tác đặc biệt, Ban Chuyên trách của tỉnh chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ ở Lào và Campuchia theo phạm vi, nhiệm vụ được phân công, phù hợp với thông lệ quốc tế.

5. Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo cấp tỉnh

Phòng Chính trị, Bộ Chỉ huy quân sự cấp tỉnh là cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo, giúp việc Cơ quan Thường trực là Ban Chính sách và một số cán bộ kiêm nhiệm, có nhiệm vụ:

a) Giúp Ban Chỉ đạo triển khai thực hiện, quản lý toàn bộ về công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ trên địa bàn;

b) Xây dựng kế hoạch, hướng dẫn, phục vụ Ban Chỉ đạo cấp tỉnh kiểm tra các đơn vị, địa phương triển khai thực hiện công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; tổng hợp, báo cáo kết quả và chuẩn bị kế hoạch, nội dung sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ trên địa bàn;

c) Theo dõi, nắm tình hình, chủ động phối hợp với các cơ quan, đơn vị, địa phương liên quan hướng dẫn thực hiện; xử lý những vướng mắc và thường xuyên kiểm tra công việc đã triển khai;

d) Lập dự toán kinh phí đảm bảo cho nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ và bảo đảm cho hoạt động của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh, tổng hợp báo cáo về Ban Chỉ đạo quân khu và Văn phòng Ban Chỉ đạo quốc gia 1237.

Điều 12. Tổ chức lực lượng chuyên trách tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ

1. Lực lượng chuyên trách tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ là các Đội quy tập đã được Bộ Quốc phòng quyết định thành lập, do các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng quản lý, chỉ đạo; thực hiện công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ ở trong và ngoài nước.

2. Những đơn vị, địa phương cần thiết thành lập mới các Đội chuyên trách, báo cáo Bộ trưởng Bộ Quốc phòng xem xét, quyết định.

3. Tổ chức, biên chế, trang bị của lực lượng tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ do Bộ Tổng Tham mưu quy định.

Điều 13. Lực lượng lâm thời; trưng dụng lực lượng phối hợp

1. Lực lượng lâm thời

a) Căn cứ vào thông tin về hài cốt liệt sĩ cần phải tìm kiếm, quy tập, các đơn vị, địa phương lập kế hoạch, đề xuất tổ chức lực lượng lâm thời báo cáo Bộ Quốc phòng xem xét, quyết định.

b) Quân số lực lượng lâm thời là cán bộ, chiến sĩ, CNVQP của các đơn vị, do đơn vị quy định; lực lượng lâm thời giải thể sau khi hoàn thành nhiệm vụ.

2. Trưng dụng lực lượng phối hợp

a) Thành phần lực lượng trưng dụng

- Lực lượng dẫn đường: Là những người biết thông tin chính xác mộ liệt sĩ, có sức khỏe, trực tiếp chỉ dẫn cho lực lượng tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ;

- Lực lượng bảo vệ: Tổ chức, cá nhân tham gia bảo vệ cho lực lượng tìm kiếm, quy tập trong quá trình thực hiện nhiệm vụ ở địa bàn cần phải bảo vệ.

- Lực lượng giúp việc đào bới, khai quật: Là lực lượng Dân quân, tự vệ và nhân dân trên địa bàn, được huy động tham gia quy tập và dưới sự chỉ huy của đơn vị tổ chức tìm kiếm, quy tập.

b) Ban Chỉ đạo các cấp căn cứ đề nghị của cơ quan Thường trực hoặc các Đội chuyên trách tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; kiểm tra, xác minh và quyết định thành phần lực lượng trưng dụng phù hợp yêu cầu nhiệm vụ;

c) Lực lượng trưng dụng có trách nhiệm bảo đảm thông tin chính xác; đảm bảo an toàn tuyệt đối cho lực lượng tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; chịu trách nhiệm phối hợp chặt chẽ và chịu sự chỉ huy của đơn vị tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ;

d) Lực lượng trưng dụng được hưởng các chế độ theo quy định.

Điều 14. Bảo đảm trang bị, phương tiện

1. Nội dung bảo đảm trang bị, phương tiện thực hiện theo quy định của Thủ tướng Chính phủ về chế độ, chính sách và cơ chế bảo đảm cho công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ và hướng dẫn của Bộ Quốc phòng, Ban Chỉ đạo quốc gia 1237.

2. Hằng năm, căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập của từng địa phương, đơn vị, Ban Chỉ đạo các cấp lập kế hoạch bảo đảm gửi Ban Chỉ đạo quân khu tổng hợp, báo cáo Ban Chỉ đạo quốc gia 1237 và Bộ Quốc phòng.

Điều 15. Quan hệ quốc tế về tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ

1. Nội dung hợp tác quốc tế về tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ

a) Thu thập, xử lý thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ;

b) Chia sẻ kinh nghiệm tìm kiếm quân nhân hy sinh, mất tin, mất tích trong chiến tranh;

c) Trao đổi, tiếp nhận cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ;

d) Phối hợp tổ chức các hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ;

đ) Các hoạt động khác theo yêu cầu hợp tác phục vụ công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.

2. Đối tác quan hệ hợp tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ

a) Các nước có hài cốt liệt sĩ của Việt Nam;

b) Các nước có lực lượng trực tiếp tham gia chiến tranh ở Việt Nam;

c) Các nước có số lượng lớn quân nhân hy sinh trong chiến tranh; các nước có kinh nghiệm trong công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt quân nhân hy sinh sau các cuộc chiến tranh;

d) Các tổ chức và cá nhân có liên quan.

MỤC 3. HOẠT ĐỘNG TÌM KIẾM, QUY TẬP HÀI CỐT LIỆT SĨ

Điều 16. Xây dựng kế hoạch tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ

1. Trách nhiệm lập và phê duyệt kế hoạch

a) Căn cứ nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ của từng địa phương, đơn vị, hằng năm, Bộ Chỉ huy quân sự cấp tỉnh (và tương đương) giúp Ban Chđạo cấp tỉnh xây dựng kế hoạch xin ý kiến Chỉ đạo cấp quân khu trước khi trình Trưởng Ban Chỉ đạo cấp mình phê duyệt;

b) Kế hoạch của cấp tỉnh được tổng hợp chung trong kế hoạch của Ban Chỉ đạo cấp quân khu.

2. Nội dung kế hoạch

a) Xác định rõ yêu cầu, nội dung nhiệm vụ, giải pháp, tiến độ thực hiện;

b) Sử dụng lực lượng, phương tiện;

c) Xác định phương án xử lý kết quả tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ;

d) Các mặt bảo đảm, tổ chức thực hiện tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.

Yêu cầu kế hoạch phải thể hiện cụ thể các nội dung: Căn cứ xây dựng kế hoạch; số lượng người tham gia tìm kiếm, cất bốc; địa bàn tìm kiếm, cất bốc; dự kiến số lượng hài cốt liệt sĩ cất bốc được; sử dụng phương tiện, trang bị; thời gian thực hiện; trình tự, phương pháp triển khai; dự toán kinh phí và các mặt công tác bảo đảm khác.

Điều 17. Tổ chức cất bốc, quy tập và lập hồ sơ quản lý hài cốt liệt sĩ

1. Căn cứ vào kế hoạch chung đã được phê duyệt, từng đợt, từng trường hợp cụ thể phải có kế hoạch chi tiết, do Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh phê duyệt mới thực hiện.

a) Trước khi cất bốc mộ liệt sĩ phải xác định rõ nguồn thông tin có căn cứ; tổ chức khảo sát, xác minh, đối chiếu, so sánh giữa danh sách liệt sĩ, sơ đồ mộ chí của đơn vị (nếu có) với vị trí của từng ngôi mộ để xác định họ tên, quê quán của liệt sĩ;

b) Bảo đảm chu đáo cho công tác cất bốc, quy tập hài cốt liệt sĩ; phù hợp với phong tục, tập quán địa phương.

2. Thực hành cất bốc hài cốt liệt sĩ theo kế hoạch đã được phê duyệt

a) Chỉ có lực lượng chuyên trách hoặc lực lượng lâm thời do các đơn vị quân đội chỉ huy, quản lý thực hiện nhiệm vụ cất bốc, quy tập; các lực lượng khác tham gia phối hợp, không tự tổ chức lực lượng cất bốc;

b) Tổ chức cất bốc hài cốt liệt sĩ phải bảo đảm chặt chẽ, công khai, trang trọng, tỷ m và an toàn.

3. Mộ liệt sĩ sau khi cất bốc đều phải lập hồ sơ bao gồm: Đơn vị làm nhiệm vụ cất bốc; nguồn thông tin về vị trí mộ; thời gian cất bốc; tọa độ, sơ đồ, vị trí nơi phát hiện ra mộ; họ tên, quê quán liệt sĩ (nếu có); biên bản kiểm kê hài cốt, di vật (nếu có). Hồ sơ và biên bản phải được người chỉ huy làm nhiệm vụ cất bốc, ký xác nhận và chịu trách nhiệm trước pháp luật.

4. Hài cốt liệt sĩ chưa có thông tin về danh tính, sau khi quy tập lấy mẫu sinh phẩm để lưu giữ xét nghiệm ADN.

Điều 18. Cất bốc, quy tập khu vực có nhiều hài cốt liệt sĩ (mộ tập thể)

1. Xác minh thông tin

Các đơn vị, địa phương khi phát hiện hoặc được cung cấp thông tin mộ liệt sĩ tập thể, cần tổ chức xác minh thông tin để có căn cứ khẳng định. Các bước xác minh như sau:

a) Thu thập thông tin từ Ban liên lạc các đơn vị, Cựu chiến binh của ta và các tổ chức, cá nhân đối phương (địa điểm chôn cất liệt sĩ; danh sách liệt sĩ; thời gian chôn cất; đặc điểm, vị trí chôn cất);

b) Đề nghị cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương nơi phát hiện có thông tin mộ tập thể hoặc cá nhân có liên quan khác xác minh, cung cấp các yếu tố có liên quan;

c) Báo cáo về Cục Chính sách - Văn phòng Ban Chỉ đạo quốc gia 1237 và các đơn vị tham gia chiến đấu trên địa bàn nơi có thông tin mộ tập thể, căn cứ hồ sơ, danh sách liệt sĩ, sơ đồ mộ chí đơn vị đang lưu giữ, cung cấp cho đơn vị làm nhiệm vụ quy tập các thông tin có liên quan;

d) Cục Chính sách, Tổng cục Chính trị căn cứ hồ sơ điện tử quản lý liệt sĩ cung cấp danh sách liệt sĩ tham gia trận đánh và các thông tin liên quan khác (nếu có); chỉ đạo việc tổ chức cất bốc, quy tập và an táng.

2. Lập kế hoạch cất bốc quy tập

a) Trách nhiệm lập kế hoạch và phê duyệt kế hoạch, yêu cầu, nội dung kế hoạch thực hiện theo Điều 16 Thông tư này.

b) Trường hợp vị trí tổ chức cất bốc, quy tập liên quan đến đền bù thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân có liên quan vượt quá thẩm quyền quy định phải báo cáo Ban Chđạo quốc gia 1237 và Bộ Quốc phòng trước khi thực hiện.

3. Xử lý kết quả cất bốc

a) Đối với các mộ liệt sĩ được mai táng riêng trong khu vực mộ: Sau khi cất bốc đều phải lập hồ sơ quản lý hài cốt liệt sĩ theo quy định tại Khoản 3, Điều 17 Thông tư này; lấy mẫu sinh phẩm để xét nghiệm ADN theo quy định.

b) Đối với hài cốt mộ liệt sĩ tập thể:

Khi cất bốc, quy tập mà không xác định được chính xác số lượng hài cốt liệt sĩ, danh tính và di vật của từng liệt sĩ thì số hài cốt cất bốc được an táng chung vào mộ tập thể; vị trí an táng theo chỉ đạo của chính quyền địa phương sở tại (không dùng phương pháp khác để chia riêng từng bộ hài cốt và ghi danh tng liệt sĩ nếu như không đủ căn cứ để kết luận).

d) Căn cứ danh sách liệt sĩ do đơn vị, các cựu chiến binh từng tham gia chiến đấu trên địa bàn cung cấp (nếu có) và hồ sơ quản lý, Cục Chính sách, Tng cục Chính trị phối hợp với Cục Người có công, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thm định, thống nhất danh sách để ghi vào bia ghi tên liệt sĩ trên ngôi mộ chung.

Điều 19. Bàn giao hài cốt liệt sĩ

1. Quy định về bàn giao hài cốt liệt sĩ

a) Hài cốt liệt sĩ đã xác định được họ tên, quê quán, bàn giao cho ngành Lao động - Thương binh và Xã hội sở tại.

Đối với hài cốt liệt sĩ ngoài địa phương sở tại thì lập thành danh sách theo quê quán (kèm theo biên bản) để di chuyển và bàn giao cho Sở Lao động - Thương binh và Xã hội theo quê quán của liệt sĩ.

b) Hài cốt liệt sĩ chưa xác định được họ tên, quê quán: Đơn vị quy tập bàn giao (kèm theo hồ sơ) cho Sở Lao động - Thương binh và Xã hội nơi quy tập; số hài cốt liệt sĩ di chuyển từ Lào và Campuchia về thì đơn vị quy tập bàn giao (kèm theo hồ sơ) cho Sở Lao động - Thương binh và Xã hội nơi được giao đón nhận.

2. Nội dung bàn giao hài cốt liệt sĩ

a) Hài cốt liệt sĩ đã xác định được họ tên, quê quán: Danh sách trích ngang; Biên bản kiểm kê hài cốt và di vật (nếu có) của từng liệt sĩ; hồ sơ cất bốc;

b) Hài cốt liệt sĩ chưa xác định được họ tên, quê quán: số lượng hài cốt liệt sĩ; Biên bản kiểm kê hài cốt và di vật (nếu có) của từng bộ hài cốt liệt sĩ; hồ sơ cất bốc.
 

Chương 3.

ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Điều 20. Trách nhiệm của các Bộ, ngành

1. Các Bộ, ngành thực hiện trách nhiệm theo quy định tại Quyết định số 1237/QĐ-TTg ngày 27 tháng 7 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ.

2. Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thuộc quyền rà soát, kiện toàn hồ sơ, lập danh sách liệt sĩ; cung cấp, tiếp nhận các thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ; phối hợp với các đơn vị quân đội trong việc tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ của Bộ, ngành mình.

Điều 21. Trách nhiệm của cơ quan, đơn vị quân đội

1. Tổng cục Chính trị

a) Chủ trì, chỉ đạo hướng dẫn thực hiện Thông tư này;

b) Chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí trong quân đội phối hợp với các cơ quan báo chí Trung ương và địa phương tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; phát động các tổ chức, cá nhân, nhất là các cựu chiến binh cung cấp thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ;

c) Phối hợp với Bộ Tổng Tham mưu và các Tổng cục xây dựng tổ chức biên chế, phương tiện, trang bị và bảo đảm cho các lực lượng tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ;

d) Hướng dẫn các cơ quan, đơn vị thực hiện công tác tìm kiếm, quy tập; theo dõi, tổng hợp đề xuất chủ trương, giải pháp tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.

2. Bộ Tổng Tham mưu

a) Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị thực hiện giải mã ký hiệu, phiên hiệu đơn vị quân đội trong chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc;

b) Ban hành và triển khai thực hiện các quyết định về tổ chức, biên chế quân số, trang bị phục vụ nhiệm vụ tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ trong và ngoài nước;

c) Chỉ đạo việc huấn luyện nghiệp vụ; huấn luyện kỹ, chiến thuật, xây dựng phương án sẵn sàng chiến đấu bảo toàn lực lượng, phương tiện, trang bị;

d) Chỉ đạo, phối hợp hướng dẫn công tác lập bản đồ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.

3. Các Tổng cục

Theo chức năng và nhiệm vụ, ban hành, chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện các quyết định về trang bị, phương tiện chuyên dùng; phương tiện phục vụ thông tin, tuyên truyền; trang bị phương tiện bảo đảm kỹ thuật, hậu cần, đời sống bảo đảm cho công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.

4. Các đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng

a) Chỉ đạo công tác tuyên truyền sâu rộng về công tác tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ; cung cấp tiếp nhận và xử lý thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ; nhất là việc tổ chức quán triệt, thực hiện Quyết định số 1237/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và các quy định tại Thông tư này;

b) Chỉ đạo xây dựng và thực hiện kế hoạch tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ theo phạm vi thẩm quyền và nhiệm vụ được phân công;

c) Rà soát, thống kê, bổ sung các thông tin còn thiếu; so sánh, đối chiếu, kiện toàn danh sách liệt sĩ, xác định nơi chôn cất ban đầu, kiện toàn sơ đồ mliệt sĩ; bổ sung, hoàn thiện cơ sở dữ liệu của cơ quan, đơn vị mình quản lý;

d) Chỉ đạo lập bản đồ tìm kiếm quy tập của các địa phương;

đ) Chỉ đạo, phối hợp công tác tìm kiếm quy tập theo phạm vi trách nhiệm được phân công;

e) Chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc cung cấp thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ; tiếp đón thân nhân liệt sĩ theo phạm vi trách nhiệm;

f) Quan hệ hp tác quốc tế về công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ theo phạm vi thẩm quyền;

g) Các Quân khu chỉ đạo Bộ Chỉ huy quân sự cấp tỉnh tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh; kiện toàn các cơ quan chuyên môn và các Đội chuyên trách; bảo đảm kinh phí, vật tư, trang bị, phương tiện, chế độ, chính sách đối với các lực lượng tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị;

h) Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng chỉ đạo cơ quan, đơn vị phối hợp thực hiện nhiệm vụ theo Quyết định 1237;

i) Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, đánh giá kết quả công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; kịp thời giải quyết những vướng mắc, phát sinh trong tổ chức thực hiện và định kỳ báo cáo kết quả thực hiện công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ về Bộ Quốc phòng.

5. Các cơ quan thuộc Bộ Quốc phòng

a) Cục Chính sách, Tổng cục Chính trị

Phối hợp với các cơ quan chức năng, nghiên cứu, tham mưu đề xuất Bộ Quốc phòng kiến nghị với Chính phủ điều chỉnh, bổ sung chế độ, chính sách, trang bị, phương tiện bảo đảm đối với các lực lượng làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập phù hợp với đặc điểm từng giai đoạn; là cơ quan trung tâm tham mưu đề xuất, quản lý và cung cấp thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ;

Xây dựng và hướng dẫn thực hiện kế hoạch của Ban Chỉ đạo quốc gia 1237; chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; kiểm tra, đôn đốc các đơn vị, địa phương; tổng hợp, báo cáo kết quả và chuẩn bị kế hoạch, nội dung sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ;

Lập dự toán kinh phí và các mặt bảo đảm cho các hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ ở trong nước và ngoài nước;

Theo dõi, nắm tình hình, chủ động phối hợp với các cơ quan, đơn vị, địa phương xử lý những vấn đề có liên quan thuộc lĩnh vực tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.

b) Các cơ quan có liên quan theo phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, phối hợp với các cơ quan có liên quan, nghiên cứu, tham mưu đề xuất để Bộ Quốc phòng kiến nghị với Chính phủ điều chỉnh, bổ sung chế độ, chính sách, trang bị, phương tiện bảo đảm đối với các lực lượng làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập phù hợp với đặc điểm từng giai đoạn, quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ, bảo đảm cho công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ đạt hiệu quả.

Điều 22. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp

1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

Có trách nhiệm tổ chức quán triệt và thực hiện nghiêm túc công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ theo Quyết định số 1237/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và các quy định tại Thông tư này:

a) Chỉ đạo công tác tuyên truyền sâu rộng về công tác tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ; tiếp nhận và xử lý thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ;

b) Thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh theo quy định tại Điều 11 của Thông tư này;

c) Kết luận số lượng, lập danh sách liệt sĩ của địa phương; kết luận số lượng liệt sĩ hy sinh trên địa bàn; dự kiến số lượng cần tìm kiếm, quy tập;

d) Chỉ đạo công tác lập bản đồ tìm kiếm quy tập ở cấp huyện và cấp xã; tổng hợp, rà soát, lập bản đồ tìm kiếm quy tập cấp tỉnh; quản lý và chỉ đạo thực hiện việc bổ sung nội dung bản đồ theo kết quả tìm kiếm, quy tập hằng năm;

đ) Xây dựng kế hoạch; chỉ đạo các hoạt động tìm kiếm, cất bốc, quy tập hài cốt liệt sĩ trong và ngoài nước theo phạm vi được phân công;

e) Quan hệ hợp tác quốc tế về công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ theo phạm vi thẩm quyền;

f) Chỉ đạo công tác cung cấp thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ cho thân nhân thuộc phạm vi trách nhiệm.

2. Ủy ban nhân dân cấp huyện

a) Chỉ đạo công tác tuyên truyền sâu rộng về công tác tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ; tiếp nhận và xử lý thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ;

b) Kết luận số lượng, lập danh sách liệt sĩ của địa phương; kết luận số lượng liệt sĩ hy sinh trên địa bàn; số cần tìm kiếm, quy tập;

c) Chỉ đạo cấp xã lập bản đồ tìm kiếm quy tập; tổng hợp, rà soát, lập bản đồ tìm kiếm quy tập cấp huyện báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;

d) Quản lý thống nhất các hoạt động tìm kiếm, cất bốc, quy tập trên địa bàn và thực hiện theo kế hoạch của cấp trên xác định;

đ) Chỉ đạo các cơ quan chức năng cung cấp thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ cho thân nhân thuộc phạm vi trách nhiệm.

3. Ủy ban nhân dân cấp xã

a) Tổ chức tuyên truyền sâu rộng về công tác tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ; tiếp nhận và xử lý thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ;

b) Kết luận số lượng, lập danh sách liệt sĩ của địa phương; kết luận số lượng liệt sĩ hy sinh trên địa bàn;

c) Chỉ đạo, tổ chức lập bản đồ tìm kiếm, quy tập của xã, bảo đảm đầy đủ nội dung quy định và tính xác thực của bản đồ, báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện;

d) Huy động lực lượng trưng dụng theo yêu cầu của trên khi tổ chức tìm kiếm, quy tập tại địa bàn cấp xã quản lý;

đ) Quản lý hành chính hoạt động tìm kiếm, cất bốc, quy tập trên địa bàn;

e) Cung cấp thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ cho thân nhân thuộc phạm vi trách nhiệm.

Điều 23. Nguồn kinh phí

Kinh phí đảm bảo cho công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ thực hiện theo quy định tại Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về chế độ, chính sách và công tác bảo đảm đối với tổ chức, cá nhân làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.

Điều 24. Hiệu lực thi hành

1. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 21 tháng 01 năm 2014.

2. Trong quá trình triển khai thực hiện, nếu có vướng mắc, đề nghị các Bộ, ngành Trung ương, các địa phương; các cơ quan, đơn vị phản ánh kịp thi về Bộ Quốc phòng (qua Cục Chính sách - Văn phòng Ban Chỉ đạo quốc gia 1237) để xem xét, giải quyết./.

KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG

Thượng tướng Nguyễn Thành Cung
=========================

Xem bài liên quan:



22 nhận xét:

  1. Nguyễn Tấn Xuânlúc 17:53 27 tháng 11, 2014

    Cảm ơn các bạn chủ trang đã đáp ứng đề nghị của tôi. Các bạn đọc quan tâm thêm về lĩnh vực này có thể tìm hiểu ở trang của Bộ Quốc phòng.
    http://www.mod.gov.vn/wps/portal/!ut/p/b1/xZPbbqNADIafpQ8QMcOZSyDDISHAAJPA3CDSshAIkAQSCk-_dFWttCu1vdmDfWXps377t8xQJmZomz1ORTacujY7v9VUTA3VDWQNqsCDlgFsDmOOhIAFMr8AyQLopmrxkgOA7JgCsFWLBArmOKByv_UDe-nXNMAqFgKeJDIHJq6eeWXd7ca1GheADQGqN-k4lNXoHZMtqffgpFmts7L1yIDy454renQLiUIODQwquetjSE3kJ0597vjepKfq-mw3YipkXTnIqzykOozxKz1r7VTJJMIkzVEzk908ACv3gw4ERiZe55wTO14bxVBotza6P15vK-7kX-VvwkuPIH56et8VfBAq-MqrA0N_RUwOSosdKvZ5j18Q9h34zM4fwCczJAsgfTjFlmUiJgZ8GlbTxZ7rOaikYBehHoTo4sFq77lVFLsRmkLXhP1ah3BN5qgKtgMqPRd1rOs6_ss-IJqqxYWlTV8I2uAfC27h3xY0vTfBTbQRQg__hw3tP3_DDUOLc3dcHn4fJ7yE3r4RRT6-G-FhbQkYCTro60l_HpOEtd3avVtkbZCVInnGdbilh9Lgz2w5tk0uyxLr4ZUyXmPODptdK6PLi45rTik6QTdsBHDqwhLB8SalEw5uanOp2SwCR3eWsFD2A_pm7a9UcqTatbOqgCt_7-PTsHvFsleblN9502MTjkdS4OkQ8dQP0gs8-3NYaLR-Ylyra3Lm0pCHIwbWHP_M_DvFi5t4/dl4/d5/L2dBISEvZ0FBIS9nQSEh/

    Các văn bản khác

    Kế hoạch Triển khai thực hiện Quyết định số 150/QĐ-TTg ngày 14/1/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án xác định hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin (21/03/2014)
    Hướng dẫn xác nhận liệt sĩ, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh trong chiến tranh không còn giấy tờ (20/12/2013)
    Quy định về chế độ, chính sách và công tác bảo đảm đối với tổ chức, cá nhân làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ (10/12/2013)
    Về việc phê duyệt Đề án tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo (30/07/2013)
    Phê duyệt Đề án xác định hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin (23/01/2013)
    Quyết định về việc cấp Bằng Tổ quốc ghi công, ngày 20/7/2010 (14/09/2012)
    Hướng dẫn Nghị định số 16/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 01 năm 2007 của Chính phủ qui định về tìm kiếm, qui tập hài cốt liệt sĩ, quản lý mộ, nghĩa trang, đài tưởng niệm, bia ghi tên liệt sĩ (13/09/2012)
    Quyết định về việc cấp Bằng Tổ quốc ghi công, ngày 24/7/2008 (13/09/2012)
    Hướng dẫn một số nội dung xác nhận liệt sỹ, thương binh đối với quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng hy sinh, bị thương trước ngày 01/10/2005 (phần thuộc quân đội giải quyết) (01/09/2012)

    Trả lờiXóa
  2. Công Nông đối thoạilúc 19:40 27 tháng 11, 2014

    Từ lâu tôi đã từng đọc có ý kiến bạn đọc đề nghị chu8r nhà khôi phục lại bài "Google.tienlang lật lại hồ sơ "Linh hồn Việt Cộng" và chùm bài về ông nhà thơ Bùi Minh Quốc đi tìm hài cốt vợ là liệt sĩ bị các nhà ngoại cảm lừa đảo.
    Tôi rất mong chủ nhà quan tâm.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Dương Thị Xuân Quý sinh trưởng trong một gia đình nổi tiếng ở tỉnh Hưng Yên. Ba chị là ông Dương Tụ Quán, chủ bút báo Duy Tân, và hai người bác ruột là Dương Bá Trạc và Dương Quảng Hàm.

      Chị tốt nghiệp Trường Báo chí trung ương và về làm phóng viên báo Phụ Nữ Việt Nam từ năm 1961, đến tháng 4-1968 chị xung phong vào chiến trường miền Nam.

      Hơn bốn tháng vượt Trường Sơn, chị vào đến chiến trường Quảng Đà (Quảng Nam - Đà Nẵng cũ) vào tháng 7-1968 và về làm phóng viên cho tạp chí Văn Nghệ Giải Phóng Trung Trung bộ (Khu 5), đóng tại vùng núi phía tây Quảng Nam.

      Tháng 12-1968 chị đi công tác xuống vùng ác liệt Quảng Đà để viết, chưa đầy hai tháng sau chị đã anh dũng hi sinh. Toàn bộ các truyện ngắn và bút ký chị viết trong những ngày khói lửa ở chiến trường Quảng Đà và viết trước đó được tập hợp thành tập Hoa rừng.

      Xóa
  3. Đây là bài viết của ông nhà thơ Bùi Minh Quốc viết và được đăng trên báo Tiền phong ngày 15:08 ngày 02 tháng 05 năm 2007. Điều đáng nói là bài này đăng sau khi Nhà ngoại cảm Đặng Xuân Ba - người mà ông Quốc ca ngợi hết lời- đã bị bắt vì tội lừa đảo bởi các chiến sĩ Huyện đội Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Vâng, cũng Quảng Trị. Cảm ơn những anh lính cụ Hồ tỉnh Quảng Trị. Khi bị bắt giữ, khám trong ba lô của "nhà ngoại cảm" Đặng Xuân Ba thấy những chiếc lược, chiếc bi đông... cố tạo dáng xưa cũ. Những chiếc lọ pelixinin bên trong là mảnh giấy ghi tên tuổi quê quán liệt sĩ ...
    Như vậy, ông Bùi Minh Quốc là người cũng bị "nhà ngoại cảm" Đặng Xuân Ba lừa nhưng opong Quốc vẫn ca ngợi, vô tình quảng cáo cho mê tín dị đoan, cho hành vi lừa đảo của các "nhà ngoại cảm":
    ======
    Đi tìm di hài vợ tôi - những chuyện khó tin
    15:08 ngày 02 tháng 05 năm 2007
    TP - "Lạ lắm ông ạ ! Ông cố thu xếp trở lại Quảng Nam đi, về Bình Sa gặp ông Năm Chiến đi!" Nhà văn Nguyên Ngọc bảo tôi thế. Rồi anh kể cho tôi nghe đầu đuôi câu chuyện với rất nhiều tình tiết ly kỳ, huyền bí, mà có thật, diễn ra trước mắt anh.

    Một ông tên là Năm Chiến vừa tìm được hài cốt người bạn anh, sĩ quan Sư đoàn 2 QK5, hy sinh đã lâu trên vùng núi Quế Sơn.

    Chả là tôi cũng đã từng kể với Nguyên Ngọc việc tôi đi tìm không kết quả hài cốt vợ tôi, Dương Thị Xuân Quý, hy sinh tại thôn 2 (thôn Thi Thại) xã Xuyên Tân (nay là Duy Thành) huyện Duy Xuyên, trong một trận quân Nam Triều Tiên càn quét chốt giữ dài ngày, không được chôn cất, đến nay vẫn không biết thân xác bị vùi lấp chốn nào.

    Tháng 4-1983, sau bao nhiêu công việc ngổn ngang của đất nước và gia đình thời hậu chiến, tôi mới thu xếp được chút thời gian và phương tiện để đi tìm Quý lần đầu tiên.

    Cùng đi giúp tôi có các anh Đoàn Xoa, Nguyễn Bá Thâm, Vĩnh Quyền, Vũ Đình Thước trong Hội Văn Nghệ Quảng Nam - Đà Nẵng, nơi tôi vừa chuyển công tác từ tạp chí Văn Nghệ Quân Đội ngoài Hà Nội vào nhận nhiệm vụ Tổng biên tập tạp chí Đất Quảng được mấy tháng.

    Chúng tôi về Thi Thại, một thôn nhỏ nằm trên bờ bắc sông Bà Rén. Phải vạch cỏ dại lút đầu người mới vào được đến cái giếng đất, là vị trí mà anh Hải và anh Mười, hai người cùng rúc hầm bí mật với Quý may mắn chạy thoát đã xác định Quý bị địch bắn, và chắc đã chết tại đây.

    Sau năm 1975, mỗi lần về Thi Thại tôi không dám lần vào tới chỗ này vì khắp thôn chưa gỡ hết mìn, chỉ thắp hương bái vọng ở vành ngoài. Địch đánh phá quá ác liệt, Thi Thại trở thành thôn trắng dân từ giữa năm 1968, người chạy xuống thôn 3, xuống Xuyên Thọ, người chạy ra Hội An, Đà Nẵng hoặc tứ tán đi chẳng biết những đâu.

    Ban Tuyên huấn huyện Duy Xuyên hồi ấy đóng cơ quan tại cái xóm trắng dân um tùm cỏ dại này, và đương nhiên phải gài rất nhiều mìn khắp các ngả để phòng vệ, bình thường thì làm việc trong mấy căn hầm tránh pháo, khi địch lùng sục càn quét thì xuống hầm bí mật.

    Ảnh:
    http://images.tienphong.vn/Uploaded/OldImages/632/99632.jpg
    Các nhà văn Nguyên Ngọc, Nguyễn Chí Trung, Đoàn Xoa cùng các đồng nghiệp văn nghệ Khu 5 và Quảng Nam trong buổi lễ cải táng nhà văn liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Quý từ trên Khu xuống, cùng sống và làm việc với anh chị em tuyên huấn Duy Xuyên, sau chuyến đi Xuyên Hoà trên vùng tây của huyện trở xuống đây đang tranh thủ ngồi viết thì gặp trận càn.

      Đêm 8/3/1969, Quý theo Mười (du kích xã), Hải (đội viên đội vũ trang tuyên truyền huyện) từ dưới hầm bí mật bò lên tìm cách thoát khỏi vòng càn, ra tới góc vườn có cái giếng đất thì Hải đi trước bị vướng mìn sáng, cả ba vội nhảy xuống giếng, địch xộc lại bắn, Quý trúng đạn gục ngã dưới chân Mười, Hải bị thương.

      Thế nhưng Mười và Hải cũng đã kịp ném lựu đạn phản kích rồi Mười cõng Hải chạy thoát. Quý nằm lại dưới giếng. Mười kể với tôi: “Chị Quý đứng phía vách giếng đối diện với luồng đạn, chị bị vào ngực khuỵu xuống ngay dưới chân em, giếng lại có nước đến gần thắt lưng, chắc là chị chết dưới giếng anh ạ”.

      Căn cứ vào đó, tôi đinh ninh nếu đào chỗ giếng đất lên chắc sẽ tìm thấy Quý. Phát hết cỏ, giếng bị lấp đất lâu ngày nhưng vẫn hiện rõ vành miệng và một phần thành giếng thoai thoải. Cả một ngày trời chúng tôi đào xuống tận lớp đất đen, đào thật rộng ra bốn phía mà chẳng thấy gì ngoài một chiếc mâm nhôm.

      Bà Dũng nhà ở liền kề bảo đó là chiếc mâm bà ném xuống để giấu địch trong một trận càn từ đầu năm 1968, nếu Quý nằm dưới giếng, chắc chắn hài cốt phải ở trên lớp đất có cái mâm.

      Cuối cùng, tôi đành hốt một ít đất dưới đáy giếng bỏ vào chiếc tiểu sành đem gửi ở nghĩa trang liệt sĩ xã Hoà Phước ven đường số 1 gần TP Đà Nẵng để có chỗ đi về thắp hương vọng niệm.

      Từ đó lòng dạ hoang mang chẳng biết làm sao tìm được Quý. Những năm ấy chưa thấy xuất hiện những người có khả năng đặc biệt tìm được hài cốt bị thất lạc, thậm chí ý niệm về điều đó cũng chưa có, ít nhất là trong tôi.

      Cho đến khi nghe câu chuyện ly kỳ của Nguyên Ngọc, tôi lại khấp khởi hy vọng. Ai nói thì tôi còn nghi hoặc, chứ Nguyên Ngọc thì tôi không thể không tin. Toàn bộ câu chuyện anh kể cho tôi nghe, sau đó anh đã viết thành bài đăng trên tạp chí Thế giới mới.

      Thế rồi, một sáng sớm đầu tháng 4 năm 1995, tôi có mặt tại sân nhà ông Năm Chiến, ở thôn Bình Sa, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Có được buổi sáng này cũng không dễ.

      Từ một tuần trước, tôi phải nhờ anh Ngọc, Phó Bí thư Huyện ủy Thăng Bình, cũng là người cùng xóm và thân thiết với ông Năm Chiến, đưa về tận nơi giới thiệu để xin chiếu cố tôi ở xa mãi trên Đà lạt, được xếp vào diện ưu tiên, chứ nếu chờ lần lượt theo thứ tự thì chắc chắn phải cả tháng trời.

      Quanh sân nhà ông Năm Chiến và cả bên sân nhà hàng xóm kéo ra tới ngã ba con đường cát, người chờ đợi rất đông. Nhiều người trọ luôn ở đây, trong mấy túp nhà người ta dựng vội cho thuê, không có giường, chỉ mắc võng. Dịch vụ đã kịp mở ra. Kèm theo nhà trọ là mấy cái quán lợp tranh bán bún, mì, cà phê, bia, nước ngọt.

      Với rất nhiều hy vọng ở khả năng đặc biệt của ông Năm Chiến mà báo chí và lời đồn đại đã đưa tên tuổi lan đi khắp nước, một người anh cọc chèo với tôi, anh Nguyễn Dy, liền cất công từ Hà Nội vào, dù lúc này anh đã quá lục tuần, lại chẳng lấy gì làm khoẻ vì một tai nạn giao thông.

      Mấy hôm sau, bé Ly, con của tôi và Quý, đang rất bận vì nhiệm vụ phóng viên ở báo Phụ Nữ TP HCM cũng cố thu xếp công việc để bay ra. Mọi người thì thầm truyền tin cho nhau: Ông Năm Chiến tuần trước được đón bay vào Sài Gòn tìm được nhiều mộ liệt sĩ lắm, vừa mới về hôm kia đã lại có xe đón đi Quảng Ngãi, sáng nay sẽ về.

      Mọi cặp mắt đều chăm chăm ngóng ra con đường cát, nhẫn nại chờ đợi. Cũng như anh em tôi, tất cả những người tới đây đều trĩu nặng trong lòng nỗi day dứt suốt bao năm về một người thân, về nhiều người thân đã mất, phần lớn vì chiến tranh, mà hài cốt còn nằm đâu đó, không biết chốn nào…

      Theo chỉ dẫn của một người đã tới đây nhiều lần, tôi viết sẵn một tờ đơn, nội dung ghi rõ: “… Kính mong Thầy giúp cho tìm hài cốt vợ tôi là liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý, quê quán thôn Mễ Sở, huyện Khoái Châu, tỉnh Hải Hưng, hy sinh đêm 8/3/1969 tại thôn 2 xã Xuyên Tân (nay là Duy Thành) tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng”.

      Xóa
    2. Một chồng đơn khá dày, phải đến hàng trăm tờ, đặt trên chiếc ghế đẩu dưới cái mái tôn vẩy ra che tạm bên hông nhà dùng làm quán cà phê. Trong lúc chờ đợi, tôi nghe hóng những chuyện người ta kể với nhau về các cuộc tìm mộ hết sức ly kỳ của ông Năm Chiến.
      Tình cờ tôi gặp lại ở đây một người quen cũ, anh Lê Tấn Minh, trước kia là Trưởng Ban Tuyên huấn Tỉnh Đoàn Quảng Nam – Đà Nẵng, sau chuyển sang phụ trách lực lượng TNXP.

      Anh Minh kể với tôi, chính mắt anh đã chứng kiến ông Năm Chiến chỉ dẫn tìm thấy một bộ hài cốt dưới nền ngôi nhà trụ sở cơ quan anh đóng tại số 37 Lê Lợi - Đà Nẵng. Tôi càng thêm tin tưởng và hy vọng.

      Khoảng 7h30 ông Năm Chiến về. Đây là giây phút đầu tiên tôi được nhìn thấy con người huyền thoại này. Đó là một người đàn ông khoảng trên dưới bốn mươi, dáng gầy gầy dong dỏng cao, nước da ngăm đen, gương mặt dầu dãi như tất cả những người nông dân vùng cát miền Trung vốn chịu nhiều vất vả.
      Ông mặc bộ đồ âu giản dị, bên thắt lưng có đeo chiếc bóp hoặc bao kính gì đó, trên vai vắt chiếc khăn mặt. Ông thong thả lấy khăn lau mồ hôi, cúi chào mọi người rồi bước vào ngôi nhà ngói nhỏ ba gian, phía trái có thêm hai gian nhà ngang cũng lợp ngói. Gian giữa ngôi nhà chính là nơi đặt bàn thờ. Trên dãy bàn kê dọc trước bàn thờ bày đầy đồ cúng.

      Ông Năm Chiến bước lại bộ phản trải chiếu hoa cạnh bàn thờ ngồi nghỉ, lưng dựa vào cửa sổ. Một bà cụ già khép nép đến bên ông, hai tay trịnh trọng trình một tấm giấy cứng khổ lớn, nài nỉ gì đó. Ông Năm Chiến đọc tấm giấy, giọng khổ sở: Trời, bác đem nguyên cả bản gốc tấm bằng này đến đây làm chi, sao bác không phô-tô ra ?...
      8h30, ông Năm Chiến xếp một chồng đơn lên bàn thờ rồi thắp hương khấn vái rất lâu. Khấn xong ở bàn thờ trong nhà, ông ra thắp hương ở bàn thờ ngoài trời nơi mép sân. Tiếp đó, ông trở vào ngồi trên chiếc ghế cạnh đầu bàn kê dọc trước bàn thờ trong nhà. Ông ngồi cúi đầu, hai khuỷu tay chống lên mặt bàn, trán gục vào đôi bàn tay chắp lại.

      Bắt đầu giờ phút mà tôi cảm thấy là nghiêm trọng. Trong nhà ngoài sân im phăng phắc, không khí linh thiêng bao trùm. Độ hơn mười phút sau, cả người ông Năm Chiến bỗng giật mạnh, giật mạnh. Một âm thanh gì đó như cuộn từ dưới bụng bật lên thành tiếng “ợ”... tựa hồ ông muốn ói mửa.

      Những cái giật và “ợ” theo nhau dồn dập hơn, mạnh hơn. Có cảm giác thân xác ông đang bị hành bởi một sức mạnh bí ẩn nào đó. Rồi ông loạng choạng đứng dậy, cặp mắt trợn trừng chỉ thấy lòng trắng, miệng nhể dãi, ông chậm chạp bước từng bước ra hàng hiên, hai cánh tay đưa về phía trước, đôi bàn tay xòe như cánh ăng-ten đang bắt một làn sóng vô hình.

      Bằng một giọng trọ trẹ như giọng Huế hoặc Nghệ Tĩnh nhưng phát âm hơi khó nghe, chắc chắn là khác hẳn giọng Quảng Nam ông nói lúc bình thường, ông bắt đầu gọi tên một người trong lá đơn đầu tiên trên xấp đơn được đặt lên bàn thờ khi nãy - xấp đơn lúc này vẫn nằm trong bàn thờ. Chính xác ra, không phải ông gọi tên, mà gọi họ.

      - Họ…Nguyện !... Họ…Nguyện !...(họ Nguyễn)

      Nhịp độ tiếng gọi chậm, nhấn từng âm một.

      Theo cảm nhận bấy lâu nay của mọi người và họ nói lại cho tôi hay, thì đó không phải là tiếng gọi của ông Năm Chiến, mà là tiếng gọi của Ông. Ông đây nghĩa là một hồn thiêng nào đó – có lẽ từ thời xa xưa, phút này đã về nhập vào thân xác con người có tên là Năm Chiến.

      Tôi cũng có cảm nhận mang máng thế, nhưng cũng không dám hoàn toàn xác quyết. Thật khó diễn tả trạng thái này. Con người duy lý và con người tâm linh của tôi tranh chấp. Một mặt thực sự tin vào sự linh thiêng và thành tâm chờ đón điều kỳ diệu sắp hiển hiện, một mặt cái quán tính duy lý vẫn hoạt động và tỉnh táo quan sát.

      -Họ…Nguyện !...

      Thân chủ họ Nguyễn đã đứng chực sẵn gần đó, vội bước tới bên ông Năm Chiến, tay cầm giấy bút, ghi vội những lời Ông nói. Một người khác đưa chiếc máy ghi âm sát lại để hỗ trợ cho cây bút khó ghi kịp.

      Xóa
    3. “Nhà ngươi rọ chưa ? Nhà ngươi rọ chưa?” – Ông luôn nhắc lại câu hỏi đó, sau mỗi đoạn ra lời chỉ dẫn. Rồi Ông (trong thân xác ông Năm Chiến) quay vào nhà, đến bên bàn. Thân chủ trải vội tờ giấy trắng và đưa Ông cây bút. Ông vẽ sơ đồ chỉ dẫn tìm hài cốt…

      Hết buổi sáng, xong được mười một trường hợp.Chưa đến lượt tôi.

      Buổi chiều, đơn của tôi nằm ở vị trí đầu tiên. Thật căng thẳng những giây phút chờ đợi ông Năm Chiến thắp hương, khấn, ngồi tĩnh tại bên bàn tựa trán trên hai bàn tay chắp lại để Ông xuất hiện qua những cơn giật, rồi rời chỗ bước loạng choạng ra đứng trước thềm ngửa mặt lên và gọi.

      - Họ…Bùi ! Họ…Bùi !

      Tôi vội bước lại sát bên, giấy bút sẵn sàng, hồi hộp chờ nghe và ghi từng lời ông. Những lời ông nói cho tôi, nghe rất khó, chỉ rõ nhất là hai tiếng “họ Bùi” và mấy tiếng “nhà ngươi rọ chưa?” nhắc đi nhắc lại, cùng mấy tiếng lướt lướt mơ hồ mà tôi đoán là hình như nói về một dòng nước, hoặc nước, hoặc chỗ có nước và một bờ tre nào đó.

      Những tiếng mơ hồ ấy khiến tôi liên tưởng ngay đến dòng sông Bà Rén, cái giếng đất, cái bờ tre, những hình ảnh gắn liền với những giây phút cuối cùng của Quý.

      Ông Năm Chiến loạng choạng bước trở lại chỗ đầu chiếc bàn vừa ngồi khi nãy. Tôi biết đây là lúc vẽ sơ đồ như từ sáng tới giờ tôi thấy ông đã làm cho mọi người, vội tiến đến đặt mấy tờ giấy trắng và cây bút lên mặt bàn. Ông vẫn đứng, cầm lấy bút và vẽ rất nhanh.

      Mấy giây sau tôi đã có một tấm sơ đồ. Ba vệt loằng ngoằng cùng chiều như làn sóng chạy chéo trang giấy. Một vệt nữa cũng cùng chiều nhưng làn sóng nhỏ hơn, mau hơn. Cách ra một chút là một ô hình thang dài, phía cạnh nhỏ không thẳng mà vòng cung, bên trong có một chấm nhấn đậm và một gạch ngắn.

      Kề bên hình này là một khoanh tròn nhấn đi nhấn lại rất đậm, liền kề là một cái gạch một đầu nhấn đậm từ đó toả ra ba nét toé ngắn. Sau cùng là con số 1,2m viết hơi to hơn mấy hình kia. Thú thực là nhìn vào đó rất khó hiểu, tôi chỉ suy đoán bằng sự liên kết với những ấn tượng đã có.

      Tôi chỉ hình dung thấy dòng sông Bà Rén, bờ tre và cái giếng đất. Nhưng đối chiếu với thực địa thì lơ mơ lắm. Con số 1,2m thì chắc là chỉ khoảng cách, nhưng chịu không thể xác định đó là khoảng cách giữa vật chuẩn nào với chỗ cần phải đào, hay là phải đào sâu 1,2m?

      Tôi muốn hỏi lại để có được một lời giải thích rõ hơn, nhưng dường như bị “ám” bởi cái chất huyền bí của dạng ngôn ngữ âm âm dương dương lúc ấy nên tự nhiên tôi ngại ngùng.

      Trên đường trở lại Thi Thại, tôi và anh Dy cùng xem xét phân tích bản sơ đồ rồi cùng xác định: chỗ được khoanh tròn đậm là cái giếng đất, cứ đào sâu 1,2m và sâu hơn nữa, rộng ra bốn phía 1,2m và rộng hơn nữa. Cả một ngày đào không thấy gì.

      Thực ra chúng tôi đã lặp lại việc đào tìm của năm 1983. Hôm sau, tôi và anh Dy lại vào Bình Sa, lại đặt đơn xếp hàng chờ đến lượt. Khi đến lượt tôi, được nghe chỉ dẫn như sau, tôi ghi lại mấy câu đáng chú ý nhất : “... từ dưới hầm... mái tóc quá dài vướng cành cây...… trúng chất sáng...…giặc bắn chết trong hầm...…nằm ven sông, hướng đông bắc...…Đại Hàn chôn...…khai quật chưa đến...…trên 1,2m...”.

      Lời chỉ dẫn này khiến tôi bán tín bán nghi, bởi Mười và Hải đều khẳng định họ đã ra khỏi hầm cùng nhảy xuống giếng, Quý bị địch bắn hạ dưới giếng, các chi tiết này cùng chi tiết trúng chất sáng (tức là vướng mìn sáng) thì tôi đã viết bài đăng báo in sách nhiều lần nhiều người đã biết, không phải là một thông tin mới.

      Cái thông tin mới mà ông đưa ra thì lại sai, bởi mái tóc của Quý là mái tóc ngắn. Một thông tin mới nữa là Đại Hàn chôn khiến tôi không thể không nghĩ đến tình huống: sáng hôm sau cái đêm định mệnh ấy, địch kéo xác Quý từ dưới giếng lên và vùi lấp ở đâu đó. Nhưng ông Năm Chiến (tức Ông) lại nói: Nằm ven sông, hướng đông bắc...

      Quả là cái giếng đất nằm ở hướng đông bắc con sông Bà Rén vốn chảy từ tây xuống đông, tại quãng này có một khúc quanh hơi chếch về phía nam, nhưng từ giếng đất tới bờ sông khoảng cách khá xa, dễ đến 300m, vậy nằm ven sông là ven như thế nào và lấy vật chuẩn nào để xác định được nơi cần đào tìm?

      Xóa
    4. Chờ lúc ông Năm Chiến ở trạng thái bình thường, tôi đề nghị được đón ông ra Thi Thại để trực tiếp chỉ dẫn tìm kiếm trên thực địa nhưng ông bảo thời gian này đang có quá nhiều người sốt ruột đợi được phục vụ ngay, phải chừng tháng rưỡi hai tháng nữa mới đi được.
      Về lại Thi Thại giữa lúc buồn phiền bối rối thì mấy anh em trong xóm đang giúp tôi đào tìm, mách: ở xã Bình Tú (cũng thuộc huyện Thăng Bình) có ông thầy Tám hay lắm, không thua gì ông Năm Chiến nhưng ổng mới xuất hiện nên ít người biết, cứ vào mời ổng ra tìm trực tiếp tại đây thế nào cũng thấy. Tôi vội phóng vào Bình Tú.

      Hỏi thăm mãi mới tới nơi. Thầy Tám có lẽ chỉ khoảng 35-36 tuổi gì đó chứ không già như tôi hình dung qua cái tiếng thầy mà người ta tôn xưng. Ông sống trong một ngôi nhà cổ lợp ngói âm dương tàn tạ giữa khu vườn rộng đầy lá rụng.Vắng vẻ, quạnh hiu. Gọi mãi mới thấy ông từ vườn sau bước ra, đoạn đi rửa chân tay rồi tiếp tôi.
      Nghe tôi trình bày hoàn cảnh và nguyện vọng, ông trịnh trọng mặc áo lễ nhận lễ vật đặt lên bàn thờ thắp hương và cúng. Ông bảo tôi ngồi bên cạnh ông, hơi lui lại đằng sau một chút, trong lúc ông đọc một bài niệm gì đó. Xong, ông bảo:

      - Chỗ này, đông bắc có dòng thủy, nam có dòng thủy, bắc có dòng thủy, có bờ tre, đào sâu 9 tấc là thấy.

      Tôi ngẫm nghĩ: Đông bắc và bắc có dòng thủy thì quan sát trên thực địa chưa thấy, trừ phi đó là mạch nước ngầm, còn nam có dòng thủy thì đó chính là dòng sông Bà Rén ở cách những 300m, bắc có bờ tre thì quả thật phía bắc của giếng đất cách một quãng ngắn là cái bờ tre còn lại từ thời Quý hy sinh, hiện anh em đã đào tới gần sát chân tre.

      Tôi mời ông ra thực địa để chỉ dẫn trực tiếp, ông nhận lời và bảo lúc này đã chiều muộn, về sắm lễ, gồm vàng mã, hoa quả và rượu, ngày mai 1h30 chiều đón ông, 3h làm lễ. Ông dặn thêm: Ngày mai khi vào đón nhớ đem theo một nắm đất chỗ đang đào.

      Hôm sau, tôi vào đón ông lúc 11 giờ, sớm hơn dự định, để mời ông ăn trưa ở thị trấn Hà Lam (trên đường đi) cho tiện. Ông thấy vậy cũng được. Trước khi đi, ông đặt nắm đất tôi đem đến lên bàn thờ thắp hương cúng.

      Ăn trưa xong, trên đường ra Thi Thại, ngồi sau xe máy tôi chở, có lúc ông Tám ghé tai tôi bảo: Kỳ này tôi tìm được chị cho anh, anh viết bài đăng báo nghen ! Nghe ông nói thế, tôi không khỏi gợn lên một chút rầu lòng nghi hoặc nên chỉ ừ ào cho qua chuyện.

      Tuy vậy, tôi lại tự trấn an: Lúc này là lúc ông Tám đang trong trạng thái bình thường với những ham muốn bình thường, còn cái khả năng đặc biệt thì đang chìm sâu và chỉ xuất hiện vào một khoảnh khắc nào đó, nhờ vào một cơ duyên nào đó, phụ thuộc vào những yếu tố nào đó mà mọi người, kể cả ông Tám chưa thể biết được.

      Xóa
    5. 3 giờ chiều, ông Tám thực hiện các nghi lễ cúng cầu bên miệng cái hố anh em đang đào. Nghi lễ này lúc đầu cũng giống như chiều hôm trước ở nhà ông. Nhưng tiếp theo phải làm một công đoạn khác hẳn.

      Sau khi ông buông một lời phán: “Chỗ này có người chết treo!” liền bảo tôi đến ngồi vào chỗ ông đang cúng. Ông tháo chiếc khăn sa tanh vàng đang quàng trên cổ quàng sang cổ tôi và bảo hai người ngồi hai bên từ từ siết lại như động tác thắt cổ. Một trong hai người ấy là anh Nguyễn Bá Thâm sau này kể lại rằng tôi bị thắt đến tím cả mặt mày.

      Tôi thì lúc ấy tất nhiên chẳng thể biết mặt mũi mình ra sao, chỉ cố chịu đựng cái cảm giác ngộp thở để mong sẽ có một sự xuất thần kỳ diệu nào đó ở ông Tám.

      Còn ông Tám cầm bó nhang nghi ngút khói lầm rầm khấn khứa rồi đột ngột hô “thôi!” đồng thời vừa ném mạnh bó nhang vừa hô tiếp “đào chỗ đó!”, tay chỉ về phía bó nhang vừa rơi.

      Chỗ bó nhang rơi là góc miệng cái hố đã được đào đến gần sát chân tre. Mọi người lập tức thay nhau vào việc. Trước hết phải bươi hết chỗ đất đã tấp thành vồng lớn bên miệng hố, chặt tre, đánh hết gộc tre để mở thêm mặt bằng. Đào rộng ra, đào sâu xuống.

      Tôi nhớ lại lời ông Tám nói chiều qua: Đào sâu 9 tấc là thấy và hồi hộp theo dõi từng nhát cuốc, từng nhát xẻng. Nhưng đã quá 9 tấc, quá 1m cũng chưa thấy gì. Cứ đào tiếp, sâu đến chạm cả mạch nước. Tôi mừng thầm: Bắc có dòng thủy, hoá ra là có thật.

      Nước dềnh lên rất nhanh. Phải đi thuê gấp một chiếc máy bơm hút cạn nước rồi lại đào tiếp. Bùn lệt sệt. Phải múc từng xô bùn dòng dây kéo lên. Bỗng tôi nghe tiếng reo khẽ từ dưới hố sâu :

      - Có xương nè ! Tôi nhoài người nhìn xuống hố. Rồi lại nghe tiếng nói: Mà tuồng như…như… Sao bự quá vậy hè? Nguyễn Bá Thâm ngồi cạnh tôi đón lấy coi, xì một tiếng thất vọng: È, xương bò!

      Một lát sau, nghe ở dưới đáy hố tiếng cuốc chạm kịch kịch. Cuốc, xúc, moi, hối hả. Rồi thì anh em lôi ra một tấm ván ngấm bùn thâm đen. A, thôi rồi, chắc đây là ván lót hầm bí mật, hình như cái hầm này là của cánh Hội An.

      Một người lớn tuổi, hẳn thuộc thế hệ đã tham gia kháng chiến và hiểu biết tình hình địa phương thời ấy, nhận xét. Tôi cũng đã được biết trên địa bàn thôn Thi Thại này thời ấy có nhiều đơn vị đứng chân, nào Tuyên huấn Duy Xuyên, dân y Duy Xuyên, thị đội Hội An… Hầm bí mật thường đào ngầm chân tre và hầm của đơn vị nào đơn vị nấy biết. Liệu còn gì trong hầm không? Biết đâu…

      Anh em moi tiếp và đào rộng ra nữa. Nhưng không tìm được gì ngoài tấm ván đã được lấy lên.Trời đã xẩm tối.Tôi và anh Dy quyết định kết thúc công việc trong nỗi thất vọng. Tôi đưa ông Tám trở về Bình Tú. Dọc đường, tôi an ủi ông: Ngay như ông Năm Chiến thì hiệu suất tìm được cũng chỉ 70 – 80%.

      Còn tiếp
      http://www.tienphong.vn/van-nghe/di-tim-di-hai-vo-toi-nhung-chuyen-kho-tin-82663.tpo

      Xóa
  4. Đi tìm di hài vợ tôi - những chuyện khó tin - Kỳ II
    10:51 ngày 05 tháng 05 năm 2007

    TP - Không còn hy vọng gì tìm được Quý, tôi quyết định dựng ở chỗ cái giếng đất cũ đó một tấm bia tưởng niệm...

    Ông Đặng Xuân Ba bên hố tìm thấy hài cốt nhà văn liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý

    Kỳ II: Ông Đặng Xuân Ba, người chỉ đúng nơi Quý nằm

    >> Kỳ I: 17 năm và những cuộc tìm kiếm vô vọng

    Ra tới Đà Nẵng, việc đầu tiên là tôi gặp nhà điêu khắc Phạm Hồng, người bạn thời kháng chiến, nhờ anh phác sơ trên giấy một tấm bia tưởng niệm dự định sẽ dựng bằng đá Ngũ Hành Sơn cỡ nho nhỏ phù hợp với số tiền mà bố con tôi có.

    - Phác thảo thì dễ thôi, để làm sau, mà có lẽ cũng chả cần, bây giờ đi tìm đá trước đã.

    Phạm Hồng lấy xe máy chở tôi qua bên kia sông Hàn vào Hoà Hải, nơi có làng đá Non Nước nổi tiếng. Vòng đi vòng lại vài lần, bỗng Phạm Hồng ghé vào dừng xe trước một cửa hàng lớn có cái bảng hiệu rất độc đáo NGUYỄN VIỆT MINH, quay lại vỗ vai tôi:

    - Chu cha, nhìn này, cái khối đá …

    Chếch bên mép cửa hàng, trên nền cát lề đường, một khối đá trắng đặt nằm có dáng tự nhiên rất đẹp, hình trụ, một đầu to thon dần về phía đầu nhỏ, vừa nhìn đã thấy mê. Mê, nhưng ngại. Vì nó quá lớn, đường kính đáy phải đến trên nửa mét, dựng lên thì cao phải đến trên 2 mét. Tôi thì thầm:

    - Thích quá, nhưng làm sao mình mua nổi.

    - Thì cứ hỏi giá thử coi.

    Chúng tôi bước vào cửa hàng, gặp ngay ông chủ ra tiếp. Ông có gương mặt phúc hậu, đượm chút phong trần, trạc tuổi ang áng cũng ngang tôi với Phạm Hồng. Ông cho biết khối đá ấy giá 2 triệu rưởi. Tôi và Phạm Hồng im lặng nhìn nhau.

    Phạm Hồng thăm dò: Có bớt được không? Ông chủ bảo không bớt được và giải thích rằng toàn bộ khu vực Ngũ Hành Sơn đã bị cấm khai thác đá, khối đá kia là ông mua từ Thanh Hoá chở vào định sẽ xẻ ra làm tượng nhỏ.

    Tôi ghé tai Hồng bảo khẽ: Ông ấy có bớt chắc cùng lắm cũng chỉ vài trăm ngàn, mà chừng đó thì mình cũng chẳng mua nổi.

    Hồng bảo, ừ, nhưng mà nó đẹp quá, đúng với mong muốn của mình quá, chỉ cần để nguyên thế thuê thợ khắc văn bia vào, đích thân Hồng sẽ chạm phù điêu chân dung Quý bên trên văn bia rồi dựng lên là được một bia tưởng niệm đẹp và độc đáo hết ý.

    Quả thật sau cái phút nhìn thấy khối đá kia hai chúng tôi như bị hớp hồn, không còn thấy một khối đá nào hấp dẫn nổi mình. Hồng lại gạ bớt. Ông chủ bảo bớt cho hai trăm ngàn, và hỏi mua để làm gì?

    Trong lúc tôi đang thầm tính đến việc sẽ đề nghị Nhà xuất bản Đà Nẵng tái bản tác phẩm của Quý và ứng trước nhuận bút để bù đắp vào khoản thiếu hụt thì Hồng giới thiệu về tôi với ông chủ, về sự hy sinh của Quý và hoàn cảnh của tôi hiện nay. Nghe xong ông chủ bảo bớt hẳn 5 trăm ngàn, chỉ lấy tròn 2 triệu…

    Từ đấy hàng năm tôi đều cố thu xếp mọi việc ở Đà Lạt để về đây một hai lần. Lòng tôi vẫn mơ màng Quý cũng nằm quanh quất đâu đây thôi. Tôi gặp làm việc với UBND xã Hoà Phước xin dỡ bỏ ngôi mộ tượng trưng tại NTLS đằng ấy.

    Nhân tiện xin kể thêm, suốt thời gian dựng bia, hễ cứ nghe anh em mách bảo ở đâu có “thầy” là tôi lại tranh thủ tìm đến. Chẳng hạn một buổi tối tôi được dẫn sang Duy Vinh, xã liền kề Duy Thành. Trong ngôi nhà tôn nền đất trống trải, lạnh lẽo và tối om, thấy một ông “thầy” còn trẻ cùng người “phụ tá” ngồi cạnh chiếc bàn gỗ mộc có chiếc đèn dầu liu hiu.

    Sau mấy thủ tục đầu tiên (đặt một món tiền nhỏ vào cái đĩa và thắp nhang), thì ông “thầy” duỗi chân vặn mình ợ oẹ, liếc qua cũng thấy ngay là động tác giả, miệng xổ một tràng âm thanh quái dị ra điều là “hồn” đang “phán” đấy, vụng về đến mức tôi cố nén để khỏi phì cười.

    .....
    Dài quá, xin đọc tiếp:
    http://www.tienphong.vn/van-nghe/di-tim-di-hai-vo-toi-nhung-chuyen-kho-tin-ky-ii-83143.tpo

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. "Nhà ngoại cảm" rởm ngụy tạo hài cốt liệt sĩ
      07:33 ngày 16 tháng 10 năm 2006

      TP - Chiến tranh đã lùi xa sau hơn 30 năm, song biết bao nhiêu gia đình vẫn còn mang nặng trong lòng nỗi đau mất mát. Đặc biệt với những trường hợp chưa tìm được hài cốt của người thân thì nỗi đau dường như nhân lên và họ lại càng nóng lòng tìm kiếm hơn ai hết.

      Chính ông Nguyễn Đình Nhu một cán bộ về hưu ở phường Bắc Hà (thị xã Hà Tĩnh) và gia đình ông nằm trong trường hợp đó.

      Theo lời ông Nhu kể, ông có người em trai là liệt sỹ Nguyễn Hữu Điền – quê ở Kỳ Tây, Kỳ Anh, Hà Tĩnh, đi bộ đội và hy sinh năm 1968 tại chiến trường Quảng Trị. Từ đó đến nay, qua nhiều lần tìm kiếm, ông vẫn chưa tìm thấy mộ phần của em trai mình.

      May sao, qua bạn bè đang làm việc ở tỉnh giới thiệu, ông Nhu gặp hai “nhà ngoại cảm” là ông Đặng Xuân Ba, quê ở Xuân Trường, Nam Định, nghỉ hưu tại TP Đà Lạt và ông Nguyễn Đình Mai, cán bộ Hội CCB tỉnh Lâm Đồng, nhận lời tìm giúp mộ em trai ông.

      Vốn đã từng biết tiếng “hai nhà ngoại cảm” này qua dư luận và qua loạt bài phản ánh họ thành công trong việc tìm mộ anh hùng liệt sỹ Lê Xuân Phôi đăng trên một tờ báo lớn ở Trung ương, các gia đình bèn mời hai ông giúp đỡ và tổ chức thuê xe ô tô về huyện Hướng Hóa (Quảng Trị ) bắt đầu cuộc tìm kiếm.

      Cùng đi còn có ông Nguyễn Văn Tuệ (công tác ở Cty CP mía Lam Sơn - Thanh Hóa) thân nhân của liệt sỹ Nguyễn Văn Tám và các ông Nguyễn Đình Thạch (cán bộ đội CSĐT Công an Kỳ Anh), Nguyễn Đình Lộc (cán bộ sở Thương mại – Du lịch Hà Tĩnh).
      Đến cơ quan quân sự huyện Hương Hóa ngày 17/9/2006, đoàn được các đồng chí trong ban chỉ huy sốt sắng giúp đỡ. Đơn vị cử cả thiếu tá Biền Văn Sự đi theo dẫn đường.

      Theo lời kể của ông Tuệ, ngày thứ nhất diễn ra khá suôn sẻ. Nhờ sự chỉ dẫn của “hai nhà ngoại cảm” đoàn đã tìm thấy “hai mộ” liệt sỹ qua hai lọ pê-ni-si-lin trong đó có các mảnh giấy viết họ tên, quê quán liệt sĩ, kèm theo một ít xương.

      Sự việc diễn ra quá nhanh chóng và đơn giản khiến thân nhân hai gia đình liệt sĩ đều tỏ ý nghi ngờ. Về phần mình, thiếu tá Biền Văn Sự cũng nhận thấy sự khác thường trong quá trình tìm kiếm và phát hiện ra hài cốt liệt sĩ của “hai nhà ngoại cảm” nên đề nghị ngừng đào và mời tất cả về cơ quan quân sự huyện để làm việc.

      Tại khách sạn Khe Sanh – nơi cả đoàn thuê nghỉ, Ban chỉ huy quân sự huyện Hương Hóa phối hợp cùng Công an huyện lập biên bản kiểm tra hành lý của hai ông Đặng Xuân Ba và Nguyễn Đình Mai.

      Qua kiểm tra, phát hiện ra họ cất dấu 6 lọ pê-ni-ci-lin, mỗi lọ có bọc ni-lông màu xanh, còn bên trong lọ đều có các mảnh giấy ghi tên người: Diễn, Hội Tước, Trung...

      Hành lý của hai “nhà ngoại cảm” chẳng có gì ngoài các thứ nói trên và 14 túi ni-lông màu trắng đựng những mẩu xương vụn màu đen và màu trắng bạc.

      Có 13 mẫu giấy trắng cỡ 2x4cm, trong đó có 3 mẫu ghi sẵn tên: Ninh Văn Quang, Nguyễn Hữu Điền, Lê Viết C. Theo ông Nhu, ông Tuệ, các lọ đựng giấy, túi đựng xương này rất giống với những thứ mà hai “nhà ngoại cảm” nhặt ra từ các hố mà họ bảo thân nhân liệt sĩ đào bới.

      Vụ việc đang được các cơ quan có trách nhiệm xem xét, làm sáng tỏ. Song căn cứ vào thực tế kiểm tra và các bản tường trình của các ông Nguyễn Văn Tuệ và Nguyễn Đình Nhu – nhân thân của hai liệt sĩ – cung cấp cho huyện đội và công an Hướng Hóa, có thể khẳng định đây là một vụ lừa đảo.
      http://www.tienphong.vn/xa-hoi/nha-ngoai-cam-rom-nguy-tao-hai-cot-liet-si-63525.tpo

      Xóa
    2. Khởi tố, bắt tạm giam “nhà ngoại cảm” lừa đảo Đặng Xuân Ba

      11 giờ 30 trưa ngày 15/10, chúng tôi tìm đến 6 Hàm Nghi, thị xã Đông Hà (Quảng Trị) gặp Thượng tá Đỗ Xuân Hồng - Chính trị viên Ban Chỉ huy quân sự huyện Hướng Hoá đang nghỉ ngày Chủ nhật cùng gia đình.

      Thượng tá Hồng kể vắn tắt: “ Việc tìm thấy các hài cốt liệt sĩ ở xã Húc ngày 18/9/2006 quá dễ dàng, đơn giản khiến lãnh đạo và Ban CHQS huyện Hướng Hoá nghi ngờ 2 “nhà ngoại cảm” Đặng Xuân Ba và Nguyễn Đình Mai.

      Tôi, với tư cách Chính trị viên đã chỉ đạo Thiếu tá Biền Văn Sự, cán bộ Ban CHQS huyện là người tham gia cùng đoàn phải cảnh giác, khôn khéo kịp thời phát hiện hành vi lừa đảo nếu có (...).

      Tại Nhà khách UBND huyện Hướng Hoá- nơi cả đoàn tìm hài cốt trú chân, Ban CHQS phối hợp với Công an huyện lập biên bản kiểm tra hành lý của 2 “nhà ngoại cảm” Ba và Mai thì phát hiện dấu hiệu lừa đảo khá rõ.

      Sau đó, 2 ông Ba và Mai bị Công an huyện ĐaKrông bắt tại xã Pa Nang (giáp với xã Húc của huyện Hướng Hoá).

      Chiều 15/10, trao đổi qua điện thoại với Tiền phong, Thượng tá Hồ Quang Thân - Trưởng Công an huyện và Trung tá Nguyễn Thành Đặng - Phó trưởng Công an huyện ĐaKrông cho biết: “ Ngày 26/9/2006, Công an huyện ĐaKrông đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Đặng Xuân Ba với tội danh “lừa đảo”.

      Hiện bị can Ba đang bị giam tại Trại tạm giam CA huyện. Đây là 1 vụ án phức tạp, các nạn nhân bị “ nhà ngoại cảm” lừa với số lượng khá nhiều và “rải” khắp cả nước.

      Còn ông Nguyễn Đình Mai đã được trả tự do về Lâm Đồng vì ông chỉ là người được ông Ba... rủ đi chơi”.
      http://www.tienphong.vn/xa-hoi/nha-ngoai-cam-rom-nguy-tao-hai-cot-liet-si-63525.tpo

      Xóa
    3. Đọc bài do bạn Hoàng Minh Đức dẫn về cho ta thấy sự lừa đảo trắng trợn của "Nhà Ngoại cảm" Đặng Xuân Ba với liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý. Đặng Xuân Ba đã bị bắt từ năm 2006. Thế nhưng mãi đến nay, "Nhà nghiên cứu về ngoại cảm" là ông Nguyễn Phúc Giác Hải vẫn ca ngợi chiến công của Nhà Ngoại cảm Đặng Xuân Ba
      ........
      - Câu chuyện hài cốt liệt sỹ Phùng Chí Kiên được nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng tìm ra được cho rằng là sai, đó chỉ là mảnh sành vụn và một chiếc răng động vật. Theo ông, tỷ lệ phần trăm tính chính xác của các nhà ngoại cảm là khoảng bao nhiêu?

      Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải: Hiện tượng tìm mộ bằng phương pháp ngoại cảm không phải đúng 100%, họ đúng 30, 40, 50, 70% tùy theo tài năng và từng giai đoạn khác nhau của các nhà ngoại cảm. Nếu như Bích Hằng đă có thành tích tìm mộ trước đây, mà nay có sai thì chỉ là trường hợp rơi vào tỷ lệ không thành công.

      Các nhà ngoại cảm không phải cái máy, mà cái máy cũng có lúc sai. Trong nhiều trường hợp việc dẫn đường rất chính xác nhưng tìm lại không chính xác, bản thân nhà ngoại cảm không tự giải thích được.

      - Tại sao các chỉ dẫn lại chính xác, đến khi tìm lại không chính xác thưa ông?

      Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải: Trường hợp nhà văn Bùi Minh Quốc (Đà Lạt) có vợ là nữ nhà văn Xuân Quý bị chết trên chiến trường.

      Khi đi tìm, các nhà ngoại cảm chỉ vào vị trí A, nhưng đào mãi không thấy họ nản. Có một nhà ngoại cảm thứ 2 chỉ dẫn đào dịch sang 1 mét thì thấy một bộ xương có mái tóc dài. Trên mái tóc đó có kẹp tóc bằng inox lau đi có hàng chữ: “Tặng chị Xuân Qúy”. Trong trường hợp này thông tin chính xác hơn cả ADN.

      Như vậy để thấy rằng, hài cốt chỉ cách vị trí đã tìm có 1 mét. Trường hợp Bích Hằng có thể thông tin chỉ dẫn đến nơi tìm mộ là đúng như gia đình đã xác nhận các cảnh quan phù hợp với chỉ dẫn, nhưng khi đào có thể là sai trong phạm vi sai số dẫn đến kết quả sai (Bích Hằng không phải là người có khả năng thấu thị giỏi như chị Vũ Thị Hòa và hiện cũng bị phê phán).


      - Như vậy không phải nhà ngoại cảm nào cũng tìm đúng?

      Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải: Đối với những nhà nghiên cứu chúng tôi gặp khá nhiều trường hợp như thế. Trong cuốn “Sự thật tưởng như huyền thoại” của nhóm Bộ môn Cận tâm lý của Thiếu tướng Nguyễn Chu Phác làm chủ biên có ghi lại trường hợp liệt sĩ là một phó giám đốc công an tỉnh Lào Cai.

      Người nhà đã tìm rất nhiều nhà ngoại cảm nhưng không được. Sau đó, ông mời nhà ngoại cảm Hoàng Thị Thiêm dùng phương pháp áp vong. Vong của liệt sỹ nhập vào đứa cháu gái nội 16 tuổi. Cô bé miêu tả trận đánh rất chi tiết và được ghi hình đầy đủ. Băng hình này được báo cáo với công an tỉnh Lào Cai. Công an Lào Cai tin tưởng vào thông tin này đã giúp đỡ gia đình đi tìm hài cốt ở nơi chỉ dẫn. Đến gần nơi vong lại nhập vào cô bé, nó nhắm mắt chạy và dẫn đường đến chỗ hài cốt.

      Khi người nhà định lấy xương để xét nghiệm ADN thì cô cháu gái của liệt sĩ bị nhập quát lên: “Tao đây chứ không phải là ai, không phải thử cái gì”. Sau đó người nhà không thử nữa và tất cả thông tin đều chính xác.

      Tôi là người trực tiếp đi dự lễ truy điệu liệt sỹ này ở Lào Cai và phỏng vấn cháu bé mà vong liệt sỹ nhập vào. Cháu bé nói rằng khi đó cháu không biết cái gì cả, nói vô thức.
      .....
      http://vietnamnet.vn/vn/xa-hoi/146712/-noi-nha-ngoai-cam-phan-thi-bich-hang-lua-bip-la-mot-su-xuc-pham-.html

      Xóa
    4. Fan Đông La và Đỗ Văn Thọlúc 23:40 29 tháng 11, 2014

      He he...
      Giác Hải cũng cỡ anh Đông La- thần tượng của tớ.
      Anh Giác Hải chém gió phần phật vụ bé gái tự phát cháy nhưng sau đó công an phường vào cuộc thì ... hết cháy.
      Gần đây anh GH lại chém gió về vụ Máy bay MH17 Mã Lai rơi... Anh Hải lại bị chính anh "Tiến sĩ Ngoại cảm"

      Mời các bác đọc những bài báo này để giải trí:
      - Cô bé phát cháy, gia đình tiết lộ điều bất ngờ

      Bố của bé T. khẳng định gia đình anh không hề đề nghị đơn vị PCCC giữ kín nguyên nhân cháy mà đơn giản không thể ghi nguyên nhân cháy là do con gái anh “phát hỏa”.

      Cô bé tự "phát cháy" muốn…làm siêu nhân ?
      Chuyện cô bé tự "phát cháy" là có thật!
      Nhà khoa học đến, cô bé kỳ lạ 'phát cháy'
      Xáo trộn cuộc sống gia đình cô bé "phát cháy"
      Cô bé 'phát cháy', còn những nghi ngờ
      Những kỳ lạ xung quanh cô bé ‘phát cháy’

      http://vietnamnet.vn/vn/xa-hoi/73468/co-be-phat-chay--gia-dinh-tiet-lo-dieu-bat-ngo.html

      -Sự thật sau các vụ tự bốc cháy bí ẩn ở Việt Nam
      http://vtc.vn/su-that-sau-cac-vu-tu-boc-chay-bi-an-o-viet-nam.2.372543.htm

      Xóa
    5. Fan Đông La và Đỗ Văn Thọlúc 23:48 29 tháng 11, 2014

      Xin lỗi, trong đoạn trên có một câu tôi chưa nói hết. Đó là câu:
      "Gần đây anh GH lại chém gió về vụ Máy bay MH17 Mã Lai rơi... Anh Hải lại bị chính anh "Tiến sĩ Ngoại cảm" "
      Nay xin nói hết:
      " Gần đây anh GH lại chém gió về vụ Máy bay MH17 Mã Lai rơi... Anh Hải lại bị chính anh "Tiến sĩ Ngoại cảm" Vũ Thế Khanh vả cho rụng răng."

      Xóa
  5. Nhà thơ Bùi Minh Quốc sinh ngày 3/10/1940, quê ở Mỹ Ðức, tỉnh Hà Tây. Ngay từ khi còn là học sinh trung học, ông đã sớm nổi tiếng ở miền Bắc với bài thơ Lên miền Tây. Bài thơ này đã được phổ biến rộng rãi và đưa vào chương trình giáo khoa phổ thông thời bấy giờ. Ông còn có bút danh là Dương Hương Ly.

    Cuộc đời của ông đã từng gắn liền với huyền thoại về sự hy sinh của văn nghệ sĩ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. Thời ấy, ông đã cùng với vợ là nhà văn Dương Thị Xuân Quý gửi con gái đầu lòng mới 16 tháng để vào Nam chiến đấu và vợ ông đã hy sinh tại chiến trường miền Nam.

    Sau năm 1975, ông từng giữ các trách nhiệm Phó Chủ Tịch hội Văn Nghệ và Tông Biên Tập Tạp Chí Ðất Quảng tại Quảng Nam - Ðà Nẵng, rồi Chủ Tịch hội Văn Nghệ tỉnh Lâm Ðồng (1987)...

    Bài thơ Đất quê ta mênh mông với bút dang Dương Hương Ly Bùi Minh Quốc viết 1967 tai chiến trường Duy Xuyên, Quảng Nam. Được Ns Hoàng Hiệp phổ nhạc hồi đó. Nó vẫn còn được hát lên trong nhiều chương trình về Người Mẹ VN.

    Trả lờiXóa
  6. Lời dẫn trên kia của chủ nhà là chính xác.
    Quy định của Nhà nước hiện nay là không cho phép nhà ngoại cảm tự tung tự tác như trước.

    Công tác quy tập hài cốt liệt sĩ là việc làm đền ơn đáp nghĩa đối với những người đã ngã xuống vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Tuy nhiên, thời gian qua đã có không ít trường hợp lợi dụng nghĩa cử trên để trục lợi. Chấn chỉnh tình trạng này, Bộ Quốc phòng đã ban hành Thông tư số 214 hướng dẫn về công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.

    Cung cấp thông tin về liệt sĩ là trách nhiệm của mỗi tổ chức, công dân
    Bất kể cá nhân hay tổ chức nào khi có thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ, không đơn giản là việc họ thích thì cung cấp thông tin và không thích thì thôi mà đây là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Khẳng định lại vấn đề này, tại Thông tư 214, Bộ Quốc phòng quy định rõ: tổ chức, cá nhân có thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ có trách nhiệm cung cấp cho các cơ quan, đơn vị, địa phương, các lực lượng chuyên trách tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ và các cơ quan thông tấn, báo chí phục vụ công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Nội dung cung cấp, tiếp nhận, xử lý thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ bao gồm: Cơ sở nguồn tin; vị trí, số lượng mộ, danh sách liệt sĩ, sơ đồ mộ chí và các đặc điểm liên quan khác (nếu có).
    Các cơ quan, đơn vị, địa phương tiếp nhận có trách nhiệm kiểm tra, đối chiếu, xử lý thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ do các tổ chức, cá nhân cung cấp. Khi xác định được yếu tố cần thiết, có tính xác thực, cung cấp cho lực lượng tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.
    Ngoài lực lượng chuyên trách, Bộ Quốc phòng cũng cho phép thành lập lực lượng lâm thời và trưng dụng lực lượng phối hợp để tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Thành phần của lực lượng trưng dụng gồm có lực lượng dẫn đường, lực lượng bảo vệ, lực lượng giúp việc đào bới, khai quật. Trong đó, lực lượng dẫn đường là những người biết thông tin chính xác mộ liệt sĩ, có sức khỏe, trực tiếp chỉ dẫn cho lực lượng tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; lực lượng giúp việc đào bới, khai quật là dân quân, tự vệ và nhân dân trên địa bàn, được huy động tham gia quy tập và dưới sự chỉ huy của đơn vị tổ chức tìm kiếm, quy tập.

    Chỉ lực lượng chuyên trách hoặc lực lượng lâm thời mới được cất bốc
    Lâu nay, vì nóng lòng muốn tìm được mộ của người thân nên nhiều thân nhân liệt sỹ đã tự đứng ra nhờ nhà ngoại cảm hoặc theo sự chỉ dẫn của đồng đội cũ của liệt sĩ để tìm kiếm và cất bốc hài cốt liệt sĩ về quê. Hậu quả là có nhiều trường hợp đã bốc nhầm mộ của liệt sĩ khác, thậm chí có không ít vụ bốc lẫn cả xương động vật.
    Chấn chỉnh tình trạng này, Thông tư 214 quy định trước khi cất bốc mộ liệt sĩ, phải xác định rõ nguồn thông tin có căn cứ; tổ chức khảo sát, xác minh, đối chiếu, so sánh giữa danh sách liệt sĩ, sơ đồ mộ chí của đơn vị (nếu có) với vị trí của từng ngôi mộ để xác định họ tên, quê quán của liệt sĩ; khi cất bốc hài cốt liệt sĩ theo kế hoạch đã được phê duyệt thì chỉ có lực lượng chuyên trách hoặc lực lượng lâm thời do các đơn vị quân đội chỉ huy, quản lý thực hiện nhiệm vụ cất bốc, quy tập; các lực lượng khác tham gia phối hợp không được tự tổ chức lực lượng cất bốc. Mộ liệt sĩ sau khi cất bốc đều phải lập hồ sơ bao gồm: Đơn vị làm nhiệm vụ cất bốc; nguồn thông tin về vị trí mộ; thời gian cất bốc; tọa độ, sơ đồ, vị trí nơi phát hiện ra mộ; họ tên, quê quán liệt sĩ (nếu có); biên bản kiểm kê hài cốt, di vật (nếu có). Hài cốt liệt sĩ chưa có thông tin về danh tính, sau khi quy tập lấy mẫu sinh phẩm để lưu giữ xét nghiệm ADN.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Người cung cấp thông tin về liệt sĩ được bồi dưỡng 02 triệu đồng
      Cũng liên quan đến nội dung quy tập hài cốt liệt sĩ, Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 75/2013/QĐ-TTg quy định về chế độ, chính sách và công tác bảo đảm đối với tổ chức, cá nhân làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.
      Theo quy định này, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ, công nhân viên chức quốc phòng thuộc biên chế của các đội chuyên trách trực tiếp làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ ở trong nước, ngoài chế độ tiền lương, phụ cấp còn được hưởng phụ cấp trách nhiệm với mức 0,5 so với mức lương cơ sở; được bồi dưỡng trực tiếp khi làm nhiệm vụ khảo sát, cất bốc, quy tập hài cốt liệt sĩ 100.000 đồng/người/ngày; được bồi dưỡng sức khỏe với mức 280.000 đồng/người (không quá 02 lần/năm)….
      Khi làm nhiệm vụ ở ngoài nước, các đối tượng trên được bồi dưỡng trực tiếp làm nhiệm vụ khảo sát, cất bốc, quy tập hài cốt liệt sĩ mức 220.000 đồng/người/ngày thực tế làm nhiệm vụ; được bồi dưỡng sức khỏe mức 280.000 đồng/người (không quá 02 lần/năm); được hỗ trợ học tiếng Lào, tiếng Campuchia mức 500.000 đồng/người/năm (thời gian không quá 03 năm)…
      Ngoài ra, người được cấp có thẩm quyền huy động trực tiếp tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ (người dẫn đường, bảo vệ; tham gia trực tiếp các hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ) được hưởng mức bồi dưỡng 220.000 đồng/người/ngày thực tế được huy động khi làm nhiệm vụ ở ngoài nước và 100.000 đồng/người/ngày khi làm nhiệm vụ ở trong nước; được đảm bảo tiền ăn bằng 02 lần mức tiền ăn cơ bản của hạ sĩ quan, binh sĩ bộ binh; được cấp tiền mua trang phục chuyên dùng nếu có thời gian trực tiếp tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ từ 03 tháng trở lên; được bố trí phương tiện đi lại hoặc thanh toán tiền đi lại như đối với cán bộ, công chức đi công tác; được thanh toán viện phí, chi phí chuyển thương nếu bị thương, bị bệnh phải điều trị tại các cơ sở y tế.
      Đáng chú ý, Quyết định cũng chỉ rõ, người cung cấp thông tin về liệt sĩ sẽ được bồi dưỡng 02 triệu đồng đối với thông tin chính xác, tìm kiếm, quy tập được ít nhất là một hài cốt liệt sĩ.

      Xóa
  7. Hỗ trợ thân nhân đi quy tập hài cốt liệt sĩ
    QĐND - Thứ năm, 31/07/2014 | 22:20 GMT+7

    QĐND - Ông Nguyễn Đức Doanh ở huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội, hỏi: Gia đình tôi sau quá trình tìm kiếm đã có thông tin về mộ anh trai là liệt sĩ và được chính quyền cử cùng tham gia tìm kiếm cũng như quy tập mộ liệt sĩ về nghĩa trang địa phương. Xin hỏi trường hợp của gia đình tôi cùng tham gia tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ có được hưởng chế độ không và thủ tục như thế nào?

    Ảnh minh họa.

    Trả lời: Theo Pháp lệnh Người có công với cách mạng và Thông tư số 66/2014 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 75/2013/QĐ-TTg ngày 6-12-2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định về chế độ, chính sách và công tác bảo đảm đối với tổ chức, cá nhân làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ thì việc hỗ trợ thân nhân hoặc người thờ cúng liệt sĩ đi tìm mộ liệt sĩ như sau: Thân nhân hoặc người thờ cúng liệt sĩ đi tìm mộ liệt sĩ theo hướng dẫn tại Khoản 3 Điều 2 Thông tư số 66/2014 (người được cấp có thẩm quyền huy động trực tiếp tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; người dẫn đường, bảo vệ, tham gia trực tiếp các hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ); người cung cấp thông tin về liệt sĩ. Thân nhân hoặc người thờ cúng liệt sĩ đi tìm mộ liệt sĩ được hỗ trợ tiền đi lại và tiền ăn khi đến các đơn vị nơi liệt sĩ đã tham gia công tác, tham gia chiến đấu theo quy định với số lượng không quá ba người, mỗi năm một lần.

    Về thủ tục, hồ sơ:

    - Thân nhân hoặc người thờ cúng liệt sĩ trước khi đi tìm mộ liệt sĩ, đề nghị UBND cấp xã nơi cư trú cấp Giấy giới thiệu (theo mẫu) và có trách nhiệm khai báo chính xác những thông tin để ghi trong Giấy giới thiệu; UBND cấp xã, trong thời hạn 1 ngày làm việc có trách nhiệm ghi đầy đủ thông tin và cấp Giấy giới thiệu cho đối tượng.

    - Thân nhân hoặc người thờ cúng liệt sĩ khi đến đơn vị nơi liệt sĩ đã tham gia công tác, tham gia chiến đấu nộp 1 bộ hồ sơ, gồm: Giấy giới thiệu (bản chính, 1 bản); Giấy báo tử liệt sĩ hoặc Bằng Tổ quốc ghi công (bản sao có chứng thực, 1 bản).

    - Bộ CHQS tỉnh (thành phố) hoặc đơn vị cấp sư đoàn và tương đương trở lên, căn cứ vào các giấy tờ của thân nhân; trong thời hạn không quá 3 ngày làm việc, xem xét, quyết định hỗ trợ; lập phiếu chi trả; sao, lưu các giấy tờ trên làm chứng từ thanh quyết toán.

    Như vậy, căn cứ vào quy định trên, người trong gia đình ông thuộc đối tượng được hưởng chế độ chính sách theo thông tư này. Ông liên hệ với các cơ quan chức năng để làm những thủ tục hưởng các chế độ hỗ trợ của Nhà nước.

    QĐND

    Trả lờiXóa