Hình bìa cuốn sách "Những bí mật về chiến tranh Việt Nam - Hồi ức về Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc" (Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers)
Tiến sĩ Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc và là cố vấn Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ
Lời dẫn của Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn: Tiến sĩ Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc và là cố vấn Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ trong buổi phỏng vấn với CNN và trong sách "Những bí mật về chiến tranh Việt Nam - Hồi ức về Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc" (Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers) đã viết: "Không hề có chiến tranh Đông Dương thứ nhất và thứ nhì, chỉ có một cuộc xung đột nối tiếp trong một phần tư thế kỷ. Dùng ngôn từ thực tế, đứng về một phía (Mỹ), ngay từ đầu nó đã là một cuộc chiến của Mỹ: mới đầu là Pháp - Mỹ, sau đến toàn là Mỹ. Trong cả hai trường hợp, nó là một cuộc đấu tranh của người Việt Nam – không phải là tất cả người Việt Nam nhưng cũng đủ để duy trì cuộc đấu tranh – chống chính sách của Mỹ và những kinh viện, ủy nhiệm, kỹ thuật gia, hỏa lực, và cuối cùng, quân đội và phi công, của Mỹ... Cuộc chiến đó không có gì là "nội chiến", như nó đã không là nội chiến trong cuộc tái chiếm thuộc địa của Pháp được Mỹ ủng hộ. Một cuộc chiến mà trong đó một phía hoàn toàn được trang bị và trả lương bởi một quyền lực ngoại quốc – một quyền lực nắm quyền quyết định về bản chất của chế độ địa phương vì những quyền lợi của mình – thì không phải là một cuộc nội chiến... Theo tinh thần Hiến chương Liên Hiệp Quốc và theo những lý tưởng mà chúng ta (nước Mỹ) công khai thừa nhận, đó là một cuộc ngoại xâm, sự xâm lược của Mỹ".
Mời xem video clip mới nhất của Kênh QPVN- Chuyên mục Nhận diện sự thật số 120 ngày 27/4/2018:
Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn và Trung tướng Nguyễn Quốc Thước trả lời trên Kênh QPVN: VÌ SAO LỊCH SỬ CHIẾN THẮNG 30-4 VẪN BỊ XUYÊN TẠC?
Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn và Trung tướng Nguyễn Quốc Thước trả lời trên Kênh QPVN: VÌ SAO LỊCH SỬ CHIẾN THẮNG 30-4 VẪN BỊ XUYÊN TẠC?
Theo yêu cầu của Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn, Google.tienlang xin đăng trọn bộ cuốn sách "Những bí mật về chiến tranh Việt Nam - Hồi ức về Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc" (Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers) của Tiến sĩ Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc và là cố vấn Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ.
Chương
26. Quốc
hội
Cuối
tháng 12-1970, tôi có lần gặp áp chót với Thượng nghị sỹ Fulbright ở văn phòng
của ông để thảo luận xem nên làm gì với tậpHồ sơ Lầu Năm Góc. Ông đã có gần đủ
những gì tôi có, kể cả NSSM-l và những ghi chú của tôi về bản nghiên cứu
Pontoro vềSự kiện Vịnh Bắc Bộ. Norvil đã nói rõ rằng sẽ không có những phiên điều
trần công khai về chiến tranh theo kiểu mà anh đã dự tính vào tháng năm, khi
chiến dịch xâm lược Campuchia đang diễn ra. Công chúng không giành sự quan tâm
cho vấn đề này nữa, mà chính Uỷ ban đối ngoại cũng chẳng ủng hộ những phiên điều
trần như thế. Chiến tranh không hẳn là vấn đề được quan tâm trong kỳ bầu cử Quốc
hội tháng mười một. Chính Fulbright không phải không đồng ý với bức xúc của tôi
khi tôi cho rằng sau vụ tấn công Sơn Tây để giải cứu tù binh Mỹ bị thất bại và
việc ném bom trở lại miền Bắc Việt Nam thì chiến tranh sẽ lan rộng, nhưng ông
thấy rằng khó có khả năng huy động được sự ủng hộ ở Quốc hội cho đến khi điều
đó thực sự diễn ra.
VềHồ
sơ Lầu Năm Góc, Fulbright có vẻ thông cảm vói việc tôi mong muốn bên cạnh việc
nhanh chóng điều trần thì tìm cách nào đó để đưa ra công khai tài liệu này để gắn
với cuộc chiến đang diễn ra. Ông nêu ra một loạt biện pháp có thể đưa ra tài liệu
mà ít gây nguy hiểm cho tôi, dù tôi không quan tâm lắm tới vấn đề này. Ông gợi
ý việc đưa ra một lệnh triệu tập Bộ trưởng Quốc phòng Melvin Laird báo cáo về
tài liệu này. Ông nói ông có quyền yêu cầu Laird cung cấp tài liệu này, điều
ông đã từng làm vài lần. Đến đây Norvil mới tiết lộ điều mà tôi hiểu là lo lắng
bấy lâu của anh, từ lúc mọi chuyện bắt đầu. Anh nghĩ rằng kể cả khi có được tập
tài liệu từ Laird thì Uỷ ban cũng sẽ không thể tự mình đưa công khai nếu không
có sự đồng ý của Nhà Trắng. Hơn thế nữa, Chủ tịch Uỷ ban không thể tự mình làm
vậy bởi Uỷ ban có trách nhiệm giúp Thượng viện bảo vệ tài liệu mật này, tài liệu
họ đã luôn có thể có được và có những địa điểm và thiết bị để lưu trữ nó. Nếu
Fulbright tiết lộ tài liệu hoặc phân phối hay xuất bản chúng thì ông có thể bị
buộc tội gây nguy hại tới khả năng có được các tài liệu bảo mật từ nhánh hành
pháp, không chỉ cho bản thân ông hay cho Uỷ ban mà là cho cả Thượng viện. Jones
cũng nói rằng các thành viên Uỷ ban và đặc biệt là các nhân viên của Uỷ ban thường
bị buộc tội tiết lộ thông tin. Không khó để đoán ra là bản thân Jones cũng chẳng
muốn mình bị buộc tội này. Anh vẫn thường lưu ý tôi đừng cho ai biết mình đã
chuyển những tài liệu này cho Fulbright.
Fulbright
nói với tôi rằng ông đã vài lần đề nghị Laird đưaHồ sơ Lầu Năm Góc, nhưng chẳng
có gì cho thấy là ông sẽ có nó. Càng lúc càng rõ là Jones sẽ không khuyên
Fulbright thách thức tất cả bằng việc đưa ra hoặc sử dụng những gì tôi đã chuyển
cho ông. Chính Fulbright đã nói với tôi: "Chẳng phải rốt cục đó chỉ là lịch
sử thôi sao?". Tôi nói rằng phải, nhưng với tôi đó là một lịch sử hết sức
quan trọng. Đó còn là một lịch sử dang dở.
"Nhưng
điều đó có thực sự quan trọng không? Có nhiều thứ trong đó mà chúng ta không biết
không?". Ông đề nghị tôi chỉ ra một tiết lộ mới trong tập tài liệu mà có
thể thu hút sự quan tâm của dư luận.
Tôi
nói không phải là từng trang hay từng chi tiết, hay thậm chí là một phần nhỏ
trong tài liệu là quan trọng. Điều quan trọng là toàn bộ tập tài liệu đã mô tả
chi tiết về sự can dự của chúng ta vào Việt Nam) về sự bi quan trong nước và liều
lĩnh leo thang chiến tranh, lừa bịp công luận về một thực tế bế tắc và vô vọng
theo một cách giống hệt nhau qua nhiều đời Tổng thống. Sẽ chẳng thể nào tìm thấy
một cái gì đó đáng chú ý nếu chỉ chú ý tới từng chi tiết. Ông cần phải đọc nhiều
phần trong đó, có thể là một nghìn trang, xem xét thông tin về một số giai đoạn
để nắm được vấn đề chung. Hơn thế nữa, quá trình tiếp theo vẫn đang còn diễn
ra. Đó mới là mấu chốt. Thật khó có thể tin rằng tài liệu này có độ xác tín nếu
như không đọc được phần lớn tài liệu.
Sau
khi nói chuyện với Fulbright, Jones và tôi sang phòng của anh ở ngay bên cạnh
và tiếp tục thảo luận. Lúc này anh mới gợi ý rằng tôi có thể chỉ cần gửi tài liệu
này cho tờThời báo New York. Tôi nói mình đã tính tới khả năng này. Về mặt pháp
lý thì làm như vậy có thể tương đối nguy hiểm cho tôi, nhưng tôi sẵn sàng làm
những gì cần thiết. Tôi hỏi Jones anh có thể nghĩ ra thượng nghĩ sỹ nào đó sẵn
lòng công bố nghiên cứu này. Anh lôi ra danh sách các thượng nghị sỹ, đầy đủ cả
địa chỉ văn phòng và điện thoại liên lạc. Anh dùng ngón tay lần từng cái tên từ
trên xuống dưới một cách tương đối nhanh để tìm ra một người khả dĩ. Nhưng chẳng
chỉ ra được ai. Tôi thử nêu thượng nghị sỹ McGovern. Jones nghĩ không thể, dù
anh đồng ý với tôi rằng McGovern là người khả dĩ nhất có thể làm chuyện đó. Tôi
nêu tiếp Thượng nghị sỹ Mathias và một số người khác. Jones thực sự nghĩ rằng
chẳng có thượng nghị sỹ nào có vẻ sẽ làm vậy, nhưng một hạ nghị sỹ thì khả dĩ
hơn vì xét trên khía cạnh nào đó thì ít nguy cơ đối với họ hơn. Vấn đề là hạ
nghị sỹ không có quyền ngăn cản một dự luật. Ông ta hoặc bà ta không thể là người
khởi xướng việc đưa tài liệu này vào sử dụng tại quốc hội hoặc thậm chí là
không thể đưa nó vào Hồ sơ Quốc hội. Tài liệu này quá dài. Hơn thế nữa, một hạ
nghị sỹ không thể bảo vệ tôi tương tự như một thượng nghị sỹ do thượng nghị sỹ
có thẩm quyền trong lĩnh vực đối ngoại. Tuy nhiên, Jones cho rằng tốt nhất là
nhờ được hạ nghĩ sỹ bang California Pete McCloskey, người được trao danh hiệu
anh hùng trong chiến tranh Triều Tiên. Sau đó tôi đã đến thử gặp McGovern và
McCloskey.
Ngày
1-1-1971 ở Cambridge tôi tình cờ nói chuyện với Sandy Gottlich, Chủ tịch của
SANE (Committee for a Sane Nuclear Policy - Uỷ ban vì chính sách hạt nhân sáng
suốt). Chúng tôi đã trao đổi về các vụ ngăn cản thông qua dự luật tại quốc hội
và các hoạt động phá lệ khác. Gottlich cho rằng Gaylord Nelson là Thượng nghị sỹ
có khả năng làm những điều tương tự nhất. Vào thời điểm thông qua Nghị quyết Vịnh
Bắc Bộ, khi tranh luận ở quốc hội, ông đã đưa ra những câu hỏi sắc bén nhất về
sự nguy hiểm khi trao quyền cho Tổng thống được phép tự do hành động và đã đề
xuất sửa đổi nghị quyết theo dự thảo do trợ lý của ông là Gar Alperovitz thảo
ra. Anh này đã hối thúc ông đưa ra vấn đề này nhằm ngăn chặn bất kỳ hành động mở
rộng chiến tranh nào mà không có sự chấp thuận của Quốc hội. Nhưng Fulbright đã
thuyết phục Nelson rằng nếu cả hai viện của quốc hội cùng nhau đưa ra một nghị
quyết chung để giải quyết vấn đề câu chữ thì khó có thể đưa ra một thông điệp về
sự thống nhất và quyết tâm của Mỹ cho phía Bắc Việt Nam sau vụ (được cho là) tấn
công của Hà Nội ở Vịnh Bắc Bộ và "phản ứng" sau đó của Tổng thống. Cuối
buổi thảo luận đó, Nelson đã không cùng hai Thượng nghị sỹ Morse và Gruening bỏ
phiếu chống nghị quyết này. Trong một hành động phản đối sau đó, gần như chỉ có
mình ông bỏ phiếu chống Dự luật phân bổ ngân sách Quốc phòng cho chiến tranh.
Cảm
tính đã mách bảo tôi có thể trông đợi ở Nelson.
McGovern
có vẻ là người khả dĩ nhất, do đó vào cuối tháng 1-1971, tôi đã gọi cho Arthur
Schlesinger (con) để nhờ anh sắp xếp cho tôi gặp Thượng nghị sỹ. Lúc tôi đến
thì McGovern đang làm quá giờ và sau đó gần một giờ sẽ nghỉ ăn trưa. Trong khoảng
thời gian đó, tôi đã nói với ông những thứ chung nhất về chính sách Việt Nam và
những thủ thuật chính trị của Nixon. Ông có vẻ quan tâm khi tôi nói tới những mục
đích của Nixon. Ông đã gây ấn tượng tốt với tôi bởi cách nhìn nhận của ông về
những điều cần phải làm và tầm quan trọng của việc cần phải làm cái gì đó khác
đi. Ông tin tưởng ở những vụ ngăn cản thông qua dự luật và hoàn toàn sẵn sàng để
làm một hành động như vậy về vấn đề chiến tranh Việt Nam (dù ông đã không bao
giờ làm thế). Ông nói muốn nói chuyện thêm với tôi, nên chúng tôi đã hẹn sẽ gặp
lại vào cuối giờ chiều.
Tôi
tới quầy cà phê của Quốc hội và tình cờ nhận ra I. F. Stone đang ngồi ăn một
mình. Tôi chưa bao giờ gặp ông, nhưng tôi đã nhớ ra ông qua những bức ảnh. Từ
lâu tôi đã muốn nói với ông rằng ngay từ đầu, trong bản tin chiến tranh của
mình, ông đã thể hiện một quan điểm thật đúng đắn đối với cuộc chiến tranh Việt
Nam. Tôi tự giới thiệu và đề nghị được nói chuyện. Ông kéo tôi ngồi xuống, săm
soi nhìn tôi qua cặp kính dày cộp, rồi chúng tôi đã vừa ăn vừa nói chuyện với
nhau suốt gần một giờ.
Ông
rất buồn trước tình cảnh đang diễn ra ở Việt Nam. Đã có lúc tôi thấy mắt ông ngấn
lệ. Ông kể rằng lúc nói chuyện với sinh viên, thậm chí ông đã không biết phải
nói với sinh viên có thể làm những gì. Mọi thứ thật vô vọng.
Tôi
kể cho ông về những gì tôi đang cố gắng làm, một phần là để ông vui lên chút ít
và cũng là để hỏi xin ý kiến của ông. Tôi đã nói tớiHồ sơ Lầu Năm Gócmột cách bộp
chộp chẳng suy nghĩ gì. Tôi muốn được nghe lời khuyên của ông, nhưng đó không
phải lý do duy nhất khi tôi được có dịp nói chuyện với ông. Tôi nói với ông vì
ông là vị anh hùng trong trái tim tôi, ông đã lên tiếng với một tinh thần mà
tôi kiếm tìm bấy lâu, giờ mới thoả, như khi tôi nói với Janaki và Randy Kehler
về những gì tôi đang làm, để họ biết rằng họ đã truyền cảm hứng cho tôi đến thế
nào và tôi đang nỗ lực cùng họ để được họ tôn trọng.
Ông
thấy rằng McGovern đúng là nơi duy nhất có thể đặt cược hy vọng, nhưng cũng nên
thử cả Nelson. Stone nói ông sẽ giúp đỡ hết mức có thể. Ông hỏi liệu tôi có dám
trả giá không. Tôi trả lời sẵn sàng. Khi tôi đứng lên, ông nắm tay tôi thật chặt
và nói: "Chúa phù hộ anh vì những gì anh đang làm. Tôi ngưỡng mộ
anh".
Đằng
sau cặp kính dày cộp (không lâu sau ông đã bị mù) mắt ông lại ngấn lệ. Với tôi
những lời ông nói thật ý nghĩa biết bao.
Còn
hơn một tiếng mới tới giờ gặp McGovern, nên tôi đã gọi tới văn phòng của Nelson
và nói rằng Stone đã giới thiệu.
Tình
cờ là Nelson đang rỗi và có thể gặp tôi ngay. Chúng tôi nói chuyện rất thoải
mái trong gần một giờ.
Tôi
có mang theo một chồngHồ sơ Lầu Năm Gócđể trong cặp và sẵn sàng cho ông biết về
tài liệu này cũng như sẽ gửi ông xem, nhưng tôi muốn biết trước là liệu ông có
thực sự sẵn sàng làm điều gì đó bất thường và liều lĩnh. Việc hàng năm ông đều
bỏ phiếu chống dự luật phân bổ ngân sách quốc phòng là một ví dụ như vậy. Tôi
chúc mừng ông về điều này, nhưng ông có vẻ không mặn mà lắm. Do không có mấy
người cùng làm vậy với ông nên ông chỉ coi đó là một hành động mang tính tượng
trưng mà thôi. Nhưng thật thất vọng là, sau khi đã nghe những gì Sandy Gottlich
nói với tôi, dường như là ông chẳng muốn bổ sung cho những gì chúng tôi đã nói
với nhau về ông. Khi tôi đề cập tới khả năng một hành động ngăn cản thông qua một
dự luật (tôi coi đó là một phép thử xem Thượng nghị sỹ có sẵn lòng làm việc gì
đó kiểu như tiết lộ một tài liệu bảo mật) thì ông nhún vai gạt đi. Ông cũng đã
nêu ra những phản bác đối với vài ý kiến khác của tôi, ví dụ như bỏ phiếu chống
dự luật phân bổ ngân sách nào đó (ngoài ngân sách quốc phòng), về việc luận tội,
ngăn cản các điều khoản của dự luật hay những bổ nhiệm dơ chính quyền đề nghị,
cam kết trước sẽ bỏ phiếu chống việc phân bổ ngân sách… tất cả những việc mà
người ta chưa thử làm. Ông đã bác bỏ tất cả với lập luận chủ yếu là những thứ
này không mấy khả thi.
Cuối
cùng tôi đã hỏi về đề xuất của chính ông nhằm kết thúc chiến tranh. Ông nói:
"À, đi vận động từng người một ủng hộ cho dự luật McGovern-Hatfield".
Tôi hỏi ông có tin rằng dự luật này có thể được Hạ viện thông qua hay không, và
câu trả lời là: "Không, không hẳn". Tôi nói rằng tiếp cận theo kiểu
này cũng tốt nếu như nó có thể chấm dứt chiến tranh trước khi chúng ta phá huỷ
cả Việt Nam. Ông ta không có vẻ gì là bất đồng với quan điểm của tôi về sự bức
thiết của tình hình, nhưng điều đó cũng không khiến ông cảm thấy phải liều mình
hành động. Ông ta có vẻ bị động đến kỳ quặc, thậm chí là cam chịu trước khả
năng không thể làm gì ở Thượng viện để ngăn chặn việc leo thang chiến tranh hơn
nữa. Dĩ nhiên là chính những gì Ông đã trải qua về vấn đề này đã khiến ông trở
nên nghi ngờ các thượng nghị sỹ khác, nhưng tôi bắt đầu băn khoăn là đến nước
này thì liệu ông có khác gì so với họ hay không đây.
Ông
không có vẻ muốn sớm kết thúc buổi nói chuyện, nhưng việc ông thờ ơ bỏ qua từng
biện pháp một vì cho rằng như thế là phi thực tế hoặc là quá ngây thơ đã đột ngột
khiến tôi thấy khó chịu. Tôi đã đùng đùng đứng dậy đi ra. Ông ta tỏ ra ngạc
nhiên. Tôi nói: "Thượng nghị sỹ, ông biết đấy, vài năm trước khi còn làm ở
Lầu Năm Góc tôi đã có thể làm điều gì đó để ngăn chặn cuộc chiến, nhưng tôi thấy
tiếc là lúc đó tôi đã không làm. Tôi hy vọng ngày này một năm sau ông sẽ không
phải thấy tiếc vì đã không thử làm bất kỳ điều gì".
Đó
chẳng phải là một câu tốt đẹp gì để kết thúc câu chuyện và tôi cũng không cố tỏ
ra như vậy. Tôi cảm ơn ông ta vì đã giành thời gian tiếp tôi rồi đi ra. Tôi tới
văn phòng của McGovern và ngồi đợi ông. Khi ông quay trở lại, chúng tôi lại tiếp
chuyện lúc sáng đang nói dở. Khi nghe ông nói về nỗi khổ tâm của ông vì cuộc
chiến, tôi càng lúc càng thấy tin tưởng rằng "lời mách bảo" văng vẳng
trong tai tôi lúc sáng hoàn toàn đúng đắn: ông chính là người tôi cần. Ông sẵn
sàng liều mình để góp phần kết thúc cuộc chiến. Ông muốn góp phần kết thúc nó.
Và tôi muốn giúp ông.
Tôi
quyết định đưa cho ông tập tài liệu. Trong phát biểu đầu tiên tuyên bố tranh cử
Tổng thống, ông đã nói rằng ông muốn nói sự thật với nhân dân Mỹ. Tôi nói với
ông, nếu như đó đúng là điều ông thực sự muốn làm, tôi có thể đem đến cho ông
nhiều sự thật đến mức ông không thể nói ra hết được trong khoảng thời gian từ
nay tới tháng mười một năm 1972 (thời điểm diễn ra cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ -
ND). Tôi nói qua một vài chi tiết vềNghiên cứu McNamara, về việc tôi đã sao chụp
nó, về Fulbright và hiện có mang vài phần của tài liệu và đề nghị được gửi cho
ông đọc.
Ông
đã đồng ý một cách hết sức phấn khởi. Ông muốn có nó, muốn đưa nó vào hồ sơ của
Thượng viện. Ông sẽ dùng nó để ngăn cản việc thông qua dự luật nào đó. Tài liệu
này chính là cái mà ông đang cần. Ông cũng nói rằng không có bất kỳ một nguy cơ
nào về mặt pháp lý nếu ông tiết lộ thông tin này khi tranh luận tại Thượng viện.
Ông cũng sẽ không bao giờ nói nhờ đâu ông có được tài liệu này.
Tôi
nói với ông điều đã nói với Fulbright rằng chẳng thích thú gì nếu phải vào tù,
nhưng tôi sẵn sàng chấp nhận bất kỳ nguy cơ nào nếu cần thiết. Ông nói theo
cách dứt khoát hơn Fulbright rằng không cần phải như thế. Không ai có thể buộc
ông tiết lộ nguồn thông tin được. Ông đứng dậy, đi tới một giá sách cao trong
góc phòng, lấy một tập sách giầy cộp có in bản Hiến pháp.
Ông
tìm một điều luật rồi đọc cho tôi nghe. Với tư cách là Thượng nghị sỹ, ông
"không thể bị chất vấn" về bất kỳ điều gì. Ông nói ra khi tranh luận
tại Thượng viện. "Không thể bị chất vấn" - ông nhấn mạnh, "kể cả
bởi FBI, Bộ Tư pháp, nhánh hành pháp, thẩm phán, bồi thẩm đoàn cũng như các thượng
nghị sỹ khác".
Tôi
chủ yếu coi sự đảm bảo mạnh mẽ đó là sự biểu hiện cam kết của ông đối với việc
này. Như thế sẽ không thực sự bảo vệ được tôi, bởi vì tôi sẽ là nghi phạm rõ
ràng nhất và bất kỳ ai cũng có thể chất vấn tôi. Được thôi. Tôi không định sẽ
nói dối một khi được yêu cầu tuyên thệ trước toà hoặc do chính quyền yêu cầu.
Sau
những bài học thời kỳ McCarthy, tôi cũng sẽ không vin vào Điều bổ sung thứ năm.
Trên thực tế, nếu như trong trường hợp bị điều tra, tôi cung cấp tài liệu này
cho ông thì tôi muốn ông sẽ khẳng định rằng tôi đã nói sự thật. Nhưng tôi thích
giọng quả quyết của ông và sự mạnh mẽ của nó. Điều đó cho thấy chúng tôi đã gặp
nhau ở điểm này và ông sẽ làm tất cả những gì có thể để bảo vệ tôi.
Tôi
đã nghĩ rằng nếu như đưa tài liệu cho một thượng nghị sỹ (hoặc một hạ nghị sỹ,
nếu như phải làm vậy) thì tôi sẽ được bảo vệ an toàn hơn là đưa cho một tờ báo
nào đó, thậm chí cả khi luật liên quan không công nhận có sự khác biệt. Dù thế
nào chăng nữa ít nhất thì tôi cũng sẽ không còn có quyền tiếp cận các tài liệu
mật để rồi tiêu tan sự nghiệp, nhưng hẳn người ta sẽ phải lưỡng lự khi truy tố
tôi nếu như có một thượng nghị sỹ có uy tín nào đó bảo vệ sự đúng đắn của tôi
khi cung cấp thông tin cho ông ta và cho công chúng. Thậm chí nếu tôi có bị
truy tố thì điều đó cũng sẽ tác động tới phán quyết hay bản án đối với tôi.
Nhưng
điều quan trọng đối với tôi là làm sao những tài liệu này được đưa ra phòng họp
thượng viện và sẽ được nói tới trong các buổi điều trần. McGovern là thành viên
Uỷ ban đối ngoại và có thể yêu cầu điều trần cứ cho là Fulbright lo ngại rằng
bên hành pháp sẽ trả đũa nếu như tài liệu mật này bị tiết lộ, do McGovern có thể
tự chịu trách nhiệm vì hành động này nên không gì có thể ngăn cản ông đưa các
buổi điều trần và triệu tập nhân chứng vào chương trình công tác của Thượng viện.
Trước phản ứng ban đầu của McGovern, tôi có cảm tưởng cuối cùng thì mình đã đi
đúng hướng để đưa tài liệu này ra trước công luận.
Thực
sự là McGovern có vẻ hăng hái tới mức không gì có thể ngăn cản, khiến tôi cũng
không chắc ông có thể đương đầu với những nguy cơ đối với sự nghiệp chính trị của
ông hay không. Tôi không muốn nghĩ rằng mình đang lợi dụng ông, khiến ông vấp
phải điều gì đó mà chưa tính toán hết được. Do đó, tôi đã thử đóng vai phản bác
để nêu ra những thách thức mà ông có thể phải đối mặt. Ví dụ, ông có thể bị cáo
buộc đã sử dụng thủ đoạn bầu cử nếu dùng tới tài liệu này. Ông nói ông không
nghĩ đó là vấn đề nghiêm trọng. Lập trường của ông đối với chiến tranh đã được
khẳng định từ lâu và mọi người đều biết rõ cho nên có tiết lộ tài liệu này thì
cũng là rất nhất quán và ông sẽ không bị cáo buộc gian lận trong vận động bầu cử.
Tôi hỏi: "Thế còn khả năng là những tiết lộ này sẽ gây rối các cựu quan chức
Dân chủ?" Điều đó chẳng khiến người ta cho rằng ông làm hại đảng mình và ảnh
hưởng tiêu cực đến quá trình gây quỹ bầu cử của ông hay sao? Ông nói: "Nguồn
gây quỹ bầu cử của tôi là khác với những người như Muskie (Muskie Edmund Sixtus
(1914 -1996), Thượng nghị sỹ Dânchủ bang Maine (1958 -1980), ngoại trưởng Mỹ
(1980- 1981) - ND).Những người ủng hộ tôi muốn tôi làm như vậy. Làm thế sẽ
không ảnh hưởng gì đâu".
"Thế
còn việc người ta có thể cho rằng ông đang tranh cử Tổng thống, một vị trí là
người chịu trách nhiệm đối với cả một hệ thống hoạt động bí mật, thế mà ông lại
cư xử thiếu trách nhiệm khi tự ý tiết lộ những tài liệu mật?". Ông nói đó
sẽ là cáo buộc nghiêm trọng nhất. Ông sẽ chỉ đơn giản nói đó là một trường hợp
đặc biệt. Chúng ta đang ở trong một cuộc chiến tồi tệ mà không có cách nào khác
để chấm dứt nó, do đó trong những tình huống nhất định thì phải tiết lộ những
thông tin này cho cơng chúng. Những gì tôi nói về nội dung của tài liệu này chủ
yếu là khẳng định thêm những cáo buộc và đánh giá lâu nay ông vẫn thường đưa
ra. Rõ ràng đó là thông tin công chúng có quyền được biết và Quốc hội cần phải
có nhưng từ trước đến giờ lại bị ỉm đi. Đây là một sự lạm dụng hệ thống bảo mật
tài liệu nhằm che giấu những thông tin này.
Ông
đã có những thông tin cần thiết về tài liệu nên có lẽ tôi không cần nói thêm.
Trông ông có vẻ tỉnh táo và tự tin: "Tôi muốn làm việc này. Tôi sẽ
làm". Ông nói tôi đưa tài liệu mang theo cho trợ lý của ông là John Holum.
Rồi ông đã thận trọng và trách nhiệm lưu ý tôi: "Lúc này tôi thấy đây là
cách làm đúng. Nhưng hôm nay tôi không muốn đưa ra kết luận cuối cùng. Tôi nghĩ
tôi cần suy nghĩ trong vài ngày. Tôi sẽ không nói với ai hết. Trong vòng một tuần
tôi sẽ gọi lại cho anh". Tôi thấy như vậy còn trên cả hợp lý. Dù thế nào
thì như vậy đã đảm bảo rằng ông sẽ thực sự nghiêm túc đúng mức đối với vấn đề
này. Chúng tôi bắt tay và ông giới thiệu tôi với Holum. Tôi đã đưa tập tài liệu
trong cặp cho anh này.
Tôi
bay về Cambridge và khoe với Patricia thông tin này. Dĩ nhiên là tôi đã một lần
được nghe những lời như thế, khi Fulbright ban đầu cũng hăng hái và bảo đảm với
tôi hệt như vậy.
Nhưng
tôi thực sự thấy hy vọng. Thậm chí tôi có thể nói rằng mình thấy tự tin rằng
sau buổi nói chuyện này McGovern sẽ không thay đổi quyết định. Nhưng khi chỉ một
tuần sau khi ông gọi cho tôi và nói: "Tôi xin lỗi. Tôi không thể làm được",
thì tôi lại phản ứng bình tĩnh đến mức mà đến giờ tôi vẫn thấy ngạc nhiên. Tôi
chỉ nói, "Tôi hiểu", và tôi tin rằng tôi thực sự hiểu.
Tôi
thực sự thông cảm với ông khi đang phải tranh cử Tổng thống. Tôi muốn ông có một
chiến dịch tranh cử mạnh mẽ. Phản ứng của tôi trước quyết định đầy thất vọng của
ông cho thấy rằng chính tôi đã âu lo, băn khoăn liệu những gì tôi đề nghị có thực
sự đúng đắn đối với ông ấy không. Nhưng tôi vẫn hy vọng rằng ông vẫn có thể là
một đồng minh, một cố vấn, vì dù sao tôi cũng đã chia sẻ câu chuyện này với
ông. Tôi không muốn nói chuyện này qua điện thoại nên đã hỏi xem khi tôi tới
Washington liệu chúng tôi có thể nói thêm một chút cụ thể hơn được không, tất
nhiên là không phải để cân nhắc lại quyết định của ông.
"Chắc
chắn rồi".
Chúng
tôi hẹn gặp vào tuần sau đó.
Sau
khi thượng nghị sỹ Fulbright nói với tôi vào tháng 12-1970 rằng "chẳng phải
rốt cục đó chỉ là lịch sử thôi sao?" và Thượng nghị sỹ McGovern cũng rút
lui, Patricia đã hỏi liệu tài liệu này có đáng đưa ra công khai hay không, có
đáng để tôi có nguy cơ phải vào tù hay không: "Có vẻ những ông thượng nghị
sỹ này nghĩ nó chẳng đáng để họ phải mạo hiểm. Tại sao anh lại chắc chắn là họ
đã sai và anh thì đúng thế""
"À,
anh không thể chắc về điều này. Họ có thể đúng. Không ai có thể biết được hậu
quả sẽ đi đến đâu, kể cả anh. Vấn đề là anh là người duy nhất đã đọc những tài
liệu này. Họ không như vậy. Anh không thể dựa vào những xét đoán của họ được.
Anh phải tin ở chính mình chứ".
Nhưng
lúc này chúng tôi đã là gia đình. Việc tôi có khả năng phải vào tù không chỉ ảnh
hưởng tới mỗi mình tôi. Patricia có quyền tham gia quyết định, và cô ấy không
thể thực sự quyết định được khi mà không biết gì về tài liệu đó. Cho tới lúc
này tôi vẫn cố ý không để cô ấy đọc chúng. Tôi muốn cô ấy có thể nói rằng mình
đã không biết có cái gì trong những thứ đó. Nhưng nếu cô ấy muốn đồng cam cộng
khổ với tôi trong chuyện này thì cần phải hiểu hơn về những thứ tôi đang làm.
Cách duy nhất để hiểu được hơn là phải đọc một vài tài liệu, dù điều đó có thể
khiến cô ấy phải chịu những nguy cơ lớn hơn. Tôi nghĩ đã đến lúc Patricia cần
phải đọc một phần. Cô ấy đã đồng ý.
Tôi
chọn ra một vài hồ sơ mà tôi đã nhớ từ thời còn làm ở Lầu Năm Góc từ năm 1964 đến
1965. Nó nói về những quan điểm đồng và nghịch về các chiến dịch ném bom miền Bắc.
Tôi nghĩ nó sẽ giúp cô ấy biết được công chúng đã bị làm lạc hướng như thế nào
trong chiến dịch ném bom năm 1964 và sau đó mà không hay biết rằng những quan
chức trong chính quyền Johnson đã mặc nhiên ủng hộ chiến lược kiểu Goldwater
này. (Thượng nghị sỹ bảo thủbang Arizona ( từ 1953- 1965 và 1969 -1987), thất bại
trong cuộctranh cử Tổng thống năm1964 - ND).Những người đã viết các hồ sơ này
là các đồng nghiệp của tôi như John McNaughton và Bill Bundy, cấp trên trực tiếp
của tôi. Tôi đã cùng làm việc với những người này nên hiểu rõ họ.
Căn
hộ của chúng tôi nằm ở tầng ba, vốn là một gác xép được sửa sang lại, có một
căn phòng rộng, gồm một bếp, phòng khách và phòng ngủ nhỏ chỉ vừa đủ kê một cái
giường. Patricia đem hồ sơ vào phòng ngủ, đóng cửa lại và đọc, phòng khi tôi phải
nói chuyện điện thoại. Tôi thì ngồi ở phòng ngoài, trên bàn ngổn ngang hàng đống
tài liệu, lật tìm xem có thể đưa cô ấy xem thêm cái gì. Khoảng một giờ sau,
Patricia bước ra, tay cầm tập hồ sơ tôi đã đưa. Cô ấy đã thấy cái gì đó mà tôi
không biết khi lần đầu đọc vào năm 1964- 1965 cũng như khi đọc lại trong nghiên
cứu McNamara. Patricia chỉ cho tôi những đoạn về các giải pháp ném bom khác
nhau, trong đó đầy những câu nói về việc "khiến chúng đau đớn đến cùng cực";
"chúng ta sẽ huỷ diệt ý chí của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà";
"theo những kinh nghiệm của lần chiến tranh trước, việc ném bom trở lại miền
Bắc Việt Nam sẽ khiến dân Bắc Việt đau đớn hơn là nếu chúng ta tiếp tục ném bom
với cường độ thấp"; "chiến thuật mưa dầm thấm lâu"; "nỗi
đau đớn của Việt Nam Dân chủ cộng hoà ở miền Bắc"; "nỗi đau đớn của
Việt Cộng ở miền Nam"; "Điều quan trọng là không "giết con tin"
khi phá huỷ các cơ sở vật chất của Bắc Việt ở trong "cái bánh rán Hà Nội";
"đánh nhanh diệt gọn" và "vừa đánh vừa đàm"; "chiến
thuật "nóng lạnh kết hợp"… mục tiêu "thuyết phục" Hà Nội,
điều sẽ chi phối một kế hoạch các đợt tấn công tiêu diệt đầy đau đớn cách nhau
tương đối lâu ; "kế hoạch ném bom "miếng xúc xích Ý"; "bánh
cóc"; "vặt vít thêm một vòng nữa"…
"Đây
là ngôn ngữ của bọn đồ tể", mắt ngấn lệ, Patricia nói, "Những thứ này
cần phải được công bố. Anh cần phải làm điều đó".
Chương 27. Tới
Thời báo New York
Ngày
28-2-1971, tối chủ nhật, tôi tới Washington để tham gia một hội thảo diễn ra
vào ngày hôm sau ở Đại học chiến tranh quốc gia. Tôi ăn tối cùng Dick Bamet,
Mark Raskin và Ralph Stavins - ba học giả của Viện nghiên cứu chính sách, một
trung tâm nghiên cứu cánh tả. Họ đang viết một cuốn sách phân tích sự dính líu
của Mỹ vào Việt Nam dưới góc độ tội ác chiến tranh. Để làm phong phú thêm nguồn
tài liệu tôi đã gửi cho họ một số phần củaHồ sơ Lầu Năm Góc, bao gồm cả bản thảo
của tôi về những quyết định năm 1961, và họ đã cùng tôi tìm cách đưa tài liệu
ra trước Quốc hội.
Khi
họ hỏi tôi làm tới đâu rồi, tôi đã kể việc không nhờ cậy được Fulbright và
McGovern. Họ cho rằng điều quan trọng là tôi đưa được tài liệu này ra công
khai. Họ muốn xuất bản cuốn sách này vào tháng sáu, và đang dự tính nói tới tên
tài liệu này trong phần tài liệu tham khảo trong sách.
Họ
nói tôi nên đưa tài liệu tới tờThời báo New York, điều mà Fulbright và McGovern
cũng đã nói tới. Tôi đã luôn nghĩ tới việc này như là một phương án dự phòng,
dù có khả năng là một tờ báo như vậy chỉ có thể cho đăng vài trích đoạn. Nhưng
đến lúc này thì có lẽ cánh cửa Quốc hội đã khép lại. Trong làng báo thì tờThời
báo New Yorklà sự lựa chọn khá rõ ràng. Đó là tờ duy nhất có đăng toàn phần các
hồ sơ, các bài báo dài, ví dụ như các bài phát biểu hoặc các buổi họp báo.
Không tờ báo nào khác làm như vậy. Chỉ có tờ này xuất bản trọn vẹn các bài viết
vì họ có uy thế để làm việc này.
Mấy
anh bạn này hỏi tôi có biết ai đó ở tờThời báo New Yorkkhông.
Tôi
có nói từ hồi ở Việt Nam tôi đã biết Neil Sheehan. Tôi không nhắc tới việc vào
năm 1968 tôi cung cấp cho anh này một vài tài liệu tối mật. Chính vì việc này
nên tôi đã cố tình tránh gặp anh trong vài năm gần đây. Nhưng giờ đây thì mọi
thứ đều khiến tôi nghĩ tới việc gặp lại Sheehan.
Thứ
ba ngày 2-3-1971, tôi trở lại văn phòng McGovern.
Ông
thông báo cho tôi một việc là dù ông đã hứa sẽ không nói với bất kỳ ai về việc
tôi nói với ông, nhưng ông đã quyết định cần phải nghe những cố vấn về mặt pháp
lý nên đã tới gặp người bạn đồng thời là luật sư Gaylord Nelson. Mặt tôi tỉnh
bơ khi nghe vậy, nhưng tôi có thể biết được tiếp theo sẽ là gì.
"Ông
có nhắc tới tên tôi không đấy?"
"Tôi
không định nói, ai đã đưa tài liệu cho tôi. Nhưng kỳ lạ là khi tôi nói đó là một
cựu công chức, Gaylord đã hỏi "có phải Dan Ellsberg không?", nên tôi
gật đầu".
Vậy
đấy vừa mới tuần trước ông ta mới thề sẽ im lặng. Tôi hỏi thì ông nói rằng
Nelson không đề cập đến việc trước đây anh ta đã gặp tôi. Gaylord chỉ nói rằng
ông (McGovern) đang tranh cử Tổng thống và không thể làm một việc như vậy được.
"Anh
ta rất chắc chắn về điều này và đã thuyết phục được tôi".
Tôi
không nói lại nữa. Tôi chúc ông may mắn với chiến dịch tranh cử của mình rồi đi
ra mà chẳng thấy khó chịu gì. Tôi thực sự hiểu được. Thật buồn cười khi nghe
ông nói rằng ông đã nghe lời khuyên từ Nelson. Tôi không nghĩ lời khuyên đó là
sự trả miếng đối với những nhận xét không hay của tôi đối với Nelson. Điều đó
là nhất quán với những gì tôi nghe ông nói từ đầu câu chuyện. Tôi nghĩ rằng sự
thật là cuối cùng thì McGovern sẽ có được lời khuyên tương tự từ bất kỳ ai mà
ông hỏi ý kiến. Thậm chí tôi không thể nói như thế là sai. Tôi không muốn gây
trục trặc cho chiến dịch tranh cử của ông bởi chính chiến dịch này rõ ràng là một
phương tiện quan trọng để phản đối cuộc chiến tranh. Một ngày nào đó McGovern
có thể trở thành nghị sỹ đầy hứa hẹn đối với mục tiêu của tôi như những phản ứng
ban đầu của ông đã cho thấy. Nhưng cũng có thể là nếu như trong năm đó cần một
thượng nghị sỹ để giải quyết việc này thì đó không thể là một người đang tranh
cử lổng thống. Tôi nghĩ tới Thượng nghị sỹ Mathias, và cả Thượng nghị sỹ Mike
Gravel, người đã thay thế Thượng nghị sỹ Gruening khi viết một lá thư chúc mừng
tôi về bài báo đăng trên tờĐiểm sách New York. Ngày hôm đó tôi cũng đã tới văn
phòng của Thượng nghị sỹ Mathias.
Chúng
tôi đã không nói chuyện với nhau gần một năm nay, kể từ chuyến bay từ St. Louis
về thủ đô đang chìm trong hơi cay khi cuộc xâm lược Campuchia diễn ra. Nhưng cả
hai đã kịp có ấn tượng tốt về nhau khi nói chuyện với nhau trên chuyến bay đó.
Thế nên chiều hôm đó, chúng tôi đã nói chuyện thoải mái và tin tưởng lẫn nhau.
Rất nhanh chóng ông đã tự tin nói với tôi rằng với tư cách một thượng nghị sỹ,
ông sẵn sàng đứng đầu một phong trào phản chiến.
"Đó
cũng là cách khiến McCarthy bị hạ bệ. Cần phải có tiếng nói từ phía cánh hữu,
hoặc hơn nữa là cánh trung dung, từ một thượng nghị sỹ khác, và đó phải là một
thượng nghị sỹ cùng Đảng với ông ta - Thượng nghị sỹ Flanders. Đó là cách cần
phải làm. Đó là cái chúng ta đang cần trong bối cảnh có cuộc chiến tranh này.
Và tôi sẵn sàng làm điều đó".
Tôi
thấy rất ấn tượng và đã chúc mừng Mathias vì sự quyết tâm của ông. Để ai đó
cùng Đảng với một Tổng thống đương nhiệm chống lại ông ta về vấn đề nào đó -
như cuộc chiến tranh đang diễn ra chẳng hạn - thì cần phải có dũng khí. Thượng
nghị sỹ Goodell đã phải rời khỏi Đảng mình và trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ
mùa thu vừa rồi đã mất ghế trong quốc hội vì đã thách thức Nhà Trắng về vấn đề
chiến tranh Việt Nam. Mathias lại đang có ý muốn đi theo con đường này.
Vậy
thì tôi có vài thứ có thể giúp ông ấy. Sau khi tôi nói vềHồ sơ Lầu Năm Gócvà việc
có thể làm gì với nó, ông đã nói rằng nghiên cứu về lịch sử này không đủ tính
thách thức để có thể lên tiếng. (Dĩ nhiên là năm 1971 tôi cũng đã lo ngại điều
này).
"Đó
chỉ là lịch sử. Nó chỉ nói về những người Dân chủ. Tôi muốn tiết lộ nào đó về
chính sách của Nixon. Anh có cái gì đó liên quan trực tiếp đến Nixon
không?"
Tôi
có, đó chính là thực tế đang diễn ra. Dù không nhiều như tôi mong đợi, nhưng có
vẫn hơn không. Tôi nói về các văn kiện lựa chọn chính sách và NSSM-1. Tôi giải
thích rằng những tài liệu của NSC mà tôi không chứng minh được trường hợp của
Nixon, nhưng chúng cũng báo trước chiến lược bí mật của ông ta khi cho thấy rằng
ngay từ ngày đầu của chính quyền Nixon người ta đã quan tâm tới việc xâm lược
Campuchia. Tài liệu đó cũng cho thấy ngay từ đầu Nhà Trắng đã được cảnh báo về
những hạn chế của Chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh và về nhu cầu cần phải có
sự có mặt lâu dài của bộ binh Mỹ và sự hỗ trợ vô thời hạn của không quân Mỹ.
Mathias
rất phấn khởi. Ông muốn ngay lập tức có được những tài liệu mà tôi nói tới. Thậm
chí là nếu những tài liệu đó không chứng minh hẳn hoi được điều gì thì chỉ việc
tiết lộ chúng thôi cũng đã đủ gây ra một thách thức to lớn đối với Nhà Trắng và
mở ra một cuộc tranh luận về vấn đề này. Tôi lại nói về những hệ quả pháp lý mà
tôi có thể phải gánh chịu và việc tôi sẵn sàng vào tù vì điều này. Dù gì thì
NSSM-l ít nhiều cũng là tài liệu của chính quyền đương nhiệm chứ không phải là
"lịch sử" cho nên nếu bị tiết lộ chắc sẽ dẫn tới việc truy tố tôi.
Khi
tôi nói đến đây, Mathias, hệt như McGovern, đã mang ra bản Hiến pháp và đọc cho
tôi cũng điều khoản đó: ông không thể bị chất vấn. Vì thế chính quyền sẽ không
thể biết được nguồn tài liệu thông qua ông.
Tôi
không mang theo bản sao của cả văn kiện lựa chọn chính sách và NSSM-1, nhưng
tôi nhớ rằng đã gửi một bản cho Norvil Jones để chuyển tới Fulbright. Sau khi
nói chuyện xong, tôi tới Uỷ ban đối ngoại và nói với Jones rằng tôi cần lấy lại
tài liệu đó. Jones lấy ra từ một phong bì to làm bằng giấy sản xuất từ sợi cây
chuối ở Philippines đặt trong một két sắt và đưa cho tôi. Tôi mang ngay lại văn
phòng của Mathias và đưa cho ông và trợ lý. Đó là một tập khá cồng kềnh khoảng
năm trăm trang. Mathias xem qua, rất thích thú và tán thưởng.
Ông
nói ông và trợ lý sẽ đọc và quyết định xem tiếp theo sẽ làm gì. Tôi cũng nhắc lại
đề nghị của tôi vềHồ sơ Lầu Năm Góc, nhưng thậm chí ông còn không buồn nhắc đến
chúng.
"Chúng
có vẻ không liên quan và những gì tôi vừa đưa là đủ những gì ông cần rồi".
Tuy
nhiên, trong hai tháng sau đó tôi đã hai lần gọi cho trợ lý của Mathias để hỏi
xem đến đâu rồi. Anh ta nói họ vẫn đang vạch kế hoạch và chuẩn bị cơ sở cho chiến
dịch. Điều này nghe có vẻ thú vị đấy Nhưng sau những gì gặp phải với Fulbright
và McGovern, tôi chẳng thấy hy vọng lắm.
Tối
muộn ngày thứ ba, mồng 2-3-1971, sau buổi chiều nói chuyện với Mathias, tôi gọi
điện đến nhà Neil Sheehan ở Washington và xin ngủ nhờ lại một đêm. Anh nói ở tầng
hầm dưới nhà có một phòng làm việc riêng với ghế dài.
Khi
tôi tới, anh đưa tôi đi xuống và tôi giúp anh chuẩn bị chăn và khăn trải giường.
Nhưng tôi không phải dùng đến những thứ này. Chúng tôi đã nói chuyện cả đêm.
Chúng
tôi bắt đầu câu chuyện về bài báo anh mới viết về tội ác chiến tranh trên chuyện
sauĐiểm sách của Thời báoNew York. Nhưng điều đọng lại là sự quan tâm thực lòng
của anh đối với cuộc chiến, là việc anh cảm thấy đó là một sai lầm khủng khiếp
và là sự phí phạm sinh mạng của cả hai bên, và hơn hết là khát vọng của anh được
nhìn thấy cuộc chiến này kết thúc. Trước đây tôi chưa bao giờ thấy được một
tình cảm tương tự ở các nhà báo cũng như ở những người không tham gia phong
trào phản chiến, ngoại trừ David Halberstam. Việc anh ủng hộ quan điểm rằng người
Mỹ có thể đã phạm tội ác chiến tranh và bản thân cuộc chiến cũng là một tội ác
đã khiến anh coi như có một chân trong phong trào phản chiến rồi.
Trước
khi trời sáng, tôi đã nói với anh vềNghiên cứu McNamaravà rằng tôi có đầy đủ
nghiên cứu này. Tôi kể về chuyện đưa nó cho Fulbright, rồi McGovern để rồi cuối
cũng họ đều cho qua. (Tôi đã không nói đến việc ngay chiều hôm đó Mathias đã
không cần đến nó mà chỉ lấy NSSM-l). Anh rất muốn được xem nghiên cứu này. Anh
không thể hứa trước được làThời báo New Yorksẽ sử dụng nó, nhưng nếu những gì
tôi nói là chính xác thì anh tin rằng họ sẽ cần đến nó. Tôi sẽ cho anh xem tài
liệu này ở Cambridge và chúng tôi hẹn ngày anh sẽ tới đó gặp tôi.
Một
tuần trước đó, khi ở Cambridge, một phóng viên của tờ Boston Globe (Địa cầu Boston)
là Tom Oliphant đã gọi cho tôi. Bài báo của tôi trên tờĐiểm sách New Yorkđã khiến
anh ta quan tâm và đề nghị đến phỏng vấn tôi. Tôi nhắc lại những phân tích của
tôi về chính sách của Nixon và mối quan ngại của mình về chiều hướng của chính
sách. Tôi đã chỉ ra những đe doạ bí mật của Nixon thật trùng hợp với kiểu những
đe doạ và leo thang thất bại đã kéo dài suốt hai mươi năm trước. Tôi cũng nói với
Oliphant điều mà tôi đã không nói trong bài báo, đó là nghiên cứu bí mật về
toàn bộ giai đoạn nói trên mà tôi đã tham gia và sau đó được đọc toàn bộ văn bản.
Trước đây tôi đã không đề cập tới điều này khi nói với một phóng viên, và lần
này tôi không định nói nhiều. Đương nhiên là tôi không nói rằng mình đã sao chụp
hay tiếp cận tài liệu này. Tôi chỉ muốn nói rằng những cảnh báo của tôi về chiến
tranh là không chỉ dựa trên trực giác. Oliphant có vẻ kinh ngạc khi tôi bình luận
rằng hai người khác sau khi đọc toàn bộ nghiên cứu này cũng đã đưa ra kết luận
giống hệt về chính sách của Nixon. Anh ta hỏi đó là ai, tôi đáp là Gelb và
Halperin (do lúc này cả hai người đều đã rời chính quyền). Chúng tôi chỉ nói
khoảng năm mười phút về chuyện này trong hơn một giờ trao đổi với nhau.
Tôi
cũng không nghĩ nhiều về lần gặp đó cho đến khi tôi thấy bài báo của anh ta vào
chủ nhật, năm ngày sau khi tôi nói chuyện với Sheehan.
Tiêu
đề của bài báo đăng ngày 7-3-1971 này là:"Chỉ ba người đọc báocáo bí mật về
ĐôngDương, tất cả đều kêugọi nhanh chóng rút quân". Trong tiêu đề phụ, anh
đã nói về việc McNamara yêu cầu bí mật xem xét lại lịch sử của cuộc chiến:
"Vào thời điểm đó cóvài người trong chính quyềnđã đọc vài phần nghiêncứu
này, nhưng theo thôngtin được biết thì chỉcó ba người đã đọctoàn bộ, từng chữ một.Đáng
chú ý là cảba người đều cho rằngMỹ nên nhanh chóng đơnphương rút khỏi Việt
Nam.Hơn nữa, trước khi rờikhỏi chính quyền, cả bangười đều nắm giữ nhữngchức vụ
nhạy cảm trongnhững tháng đầu hình thànhchính quyền Nixon".
Sau
khi nói chuyện với tôi ở Cambridge, Oliphant đã bay tới Washington để phỏng vấn
Halperin và Gelb. Trong bài báo anh ta đã kể về công tác của họ trong năm 1969
dưới chính quyền Nixon; và năm sau đó, sau vụ tấn công Campuchia, họ đã cùng viết
"một bài báo được trích dẫn rộng rãi đăng trên tờBưu điện Washingtoncó tên
là "Chỉ có một lịch trình mới có thể gỡ rối cho Nixon". Anh ta viết
tiếp: "Tháng trước… (Halperin) bắt đầu điều hành "văn phòng hoà
bình" của tổ chức Sự nghiệp chung, một tổ chức vận động hành lang cho công
dân do John Gardner thành lập. Hai tuần trước, tổ chức này đã tuyên bố dự định
tham gia đấu tranh đòi đơn phương rút quân khỏi Đông Dương". Anh ta trích
lời Halperin nói với mình: "Tôi nghĩ không phải là Tổng thống đang rút
quân. Tôi nghĩ có nguy cơ nghiêm trọng là chính sách hiện thời nhằm tiếp tục
leo thang chiến tranh và đang chia rẽ đất nước này (Mỹ). Hãy đọc những thông điệp
thế giới gần đây. Tất cả nằm ở đó. Tôi tin ngài Tổng thống. Ông ta nói đúng như
ông ta nghĩ, đó là: chúng ta đang không rút quân".
Oliphant
trích lời tôi nói rằng nghiên cứu này đã có "ảnh hưởng lớn lao" đối với
quan điểm của tôi. Khi tôi bắt tay vào làm nghiên cứu này, "Tôi coi chiến
tranh là một nỗ lực đầy thiện ý và hợp lý, dù khi nghĩ lại thì thấy nó thật sai
lầm. Nhưng rồi mọi thứ sớm trở nên rõ ràng là quyết định của người Mỹ thực sự
là một chuỗi trò cờ bạc liều lĩnh của những kẻ đã làm nên chính sách này vào thời
điểm đó".
"Khi
nhìn lại sự liên quan của mình", Oliphant viết về tôi, "Ông lặng lẽ
nói: "Tôi đã tham gia một âm mưu tội ác nhằm tiến hành một cuộc chiến
tranh xâm lược". Anh ta đã mượn lời tôi nói về chính sách hiện nay của
Nixon để kết luận bài báo: "Theo tôi, đó là một chính sách tội ác".
Khi
tôi đọc bài báo này, tôi đã nghĩ rằng nó có thể sẽ khiến Nhà Trắng để mắt tới.
Đúng như vậy, bởi Oliphant đã nói với tôi rằng vào cái ngày bài này được đăng,
Kissinger đã gọi tới văn phòng của tờ Boston Globe ở Washington để tìm hiểu về
nó. Kỳ quặc là ông ta đã muốn nhấn mạnh Dan Ellsberg chưa bao giờ là nhân viên
của NSC (bài báo không hề nói tôi như vậy). Tôi cũng nhận ra rằng, theo như tôi
biết, đây là lần đầu tiên có một tài liệu nào đó nhắc tớiNghiên cứu
McNamara(hoá ra là trước đó đã có hai tài liệu đề cập tới, một là của Lloyd
Shearer, nhưng đây là bài báo đầu tiên nhắc tới nó). Điều này đặt tôi vào một
tình huống gần như là khủng hoảng.
Tháng
tám năm ngoái, ở San Clemente, tôi đã nói về nghiên cứu này với Kissinger. Thế
nên ông ta có thể nhanh chóng suy ra rằng nếu như tôi đã công khai nói về nó,
cũng như nói về ảnh hưởng của nó đối với chính sách bí mật của Nixon, thì sớm
muộn tôi sẽ tự mình công bố toàn bộ tài liệu, nhất là khi tôi đã có thể có một
bản sao tài liệu này sau khi rời Rand.
Điều
này cũng đúng với FBI, do một năm trước đây vì lý do này khác họ đã tìm cách
nói chuyện với tôi sau khi gặp Carol.
Lúc
đó tôi không biết rằng một năm trước đó FBI đã trao đổi với Rand về việc tôi đã
sao chụp tài liệu và đưa cho Fulbright và Goodell. Tôi vẫn không biết liệu năm
1970 FBI có báo cáo với Kissinger hay không về những trao đổi của họ với Rand
và Harry Rowen. Nhưng kể cả không biết chăng nữa thì tôi vẫn đoán rằng bài báo
này là một cảnh báo nguy hiểm đối với cả Nhà Trắng và FBI. Điều đó có nghĩa là
FBI có thể "ghé thăm" nhà tôi bất kỳ lúc nào cùng với lệnh khám xét.
Suốt hơn một năm rưỡi, điều tôi lo lắng nhất là FBI có thể sẽ ập tới và lấy đi
toàn bộ các bản sao tài liệu trước khi tôi kịp gửi tới Quốc hội hay chỗ nào
khác. Giờ thì với bài báo này, điều đó có thể xảy ra trong hàng ngày hàng giờ.
Tôi
chỉ có nhiều nhất là ba bản chụp những phần chính của nghiên cứu, một số phần
khác chỉ có hai bản. Sau khi đã đưa một bộ hoàn chỉnh cho Fulbright, tôi chỉ
còn lại một hoặc hai bản. Tôi không còn được sử dụng chiếc máy chụp Xerox cá
nhân nữa. Tôi đã trì hoãn hết lần này đến lần khác việc sao chụp thêm tại một cửa
hàng sao chụp vì tôi có cảm tưởng rằng chỉ một hay hai ngày sau khi tôi làm việc
đó thì FBI sẽ xuất hiện. Tôi lo ngại rằng một tài liệu bị thất lạc vẫn còn
nguyên dấu tối mật và ai đó tình cờ đọc thấy sẽ có thể dẫn dến việc cửa hàng
sao chụp gọi điện cho cảnh sát.
Tôi
cho Patricia xem bài báo và cho cô ấy biết điều gì sắp diễn ra. Cô ấy nói một
cách sắc sảo hon so với thường ngày: "Anh đã nói về việc sao chụp thêm những
tài liệu này cả mấy tháng trời rồi; bây giờ anh hãy đứng lên và làm ngay thì
hơn".
Cô
ấy đề nghị giúp tôi. Ngay lập tức chúng tôi đi đến căn hộ của em trai cô ấy là
Spencer để tôi cất hộp đựng tài liệu ở đó.
Chỉ
riêng việc sắp xếp lại tài liệu theo đúng trật tự đã là cả một vấn đề. Tôi rút
ra một phần và đọc lướt qua. Đúng như khi ở New York, ngay trên một trong những
trang đầu, tôi đã nhận ra một dấu tối mật đã thoát khỏi "kĩ thuật phân loại
tức thì" của tôi. Thế là tôi chẳng biết phải làm thế nào ngoài việc xem lại
từng trang một lần nữa, tất cả bảy nghìn trang.
Patricia
đem tài liệu đến một cửa hàng sao chụp trên quảng trường Harvard, còn tôi phải
trông cho đến sáng mới xong. Nếu như cần phải làm việc đó, thì phải làm thật
nhanh, trước khi FBI kịp phản ứng trước bài báo hay theo lệnh của Nhà Trắng,
hay sau khi nhận được một cú điện thoại từ cửa hàng sao chụp.
Những
chiếc máy photo to để kinh doanh thế này thì nhanh hơn rất nhiều so với những
chiếc mà tôi đã sử dụng, nhưng hầu như cũng không thể nhanh được bằng những chiếc
máy ngày nay, và sao nhiều bản của hàng ngàn trang thì rất tốn thời gian. Chúng
tôi cần chia việc này ra để làm cho nhanh. Thật may mắn là gần quảng trường có
nhiều cửa hàng, một vài trong số đó mở cửa suốt đêm. Đó thật là một công việc mệt
mỏi. Chúng tôi đã phải thay phiên nhau mỗi người nằm nghỉ một tiếng trong khi
người kia kiểm tra kĩ lưỡng từng trang và thỉnh thoảng phải dùng kéo cắt. Cứ một
hai tiếng Patricia phải đem chồng tài liệu sang một cửa hàng khác hoặc đi lấy
những bản sao.
Chúng
tôi phải làm gấp gáp thế này là vì FBI. Tôi biết là cả năm nay họ đã biết việc
tôi sao chụp và bài báo của Orliphant có thể sẽ khiến họ giám sát tôi một cách
chặt chẽ. Bắt quả tang chúng tôi ngay trong lúc đang sao chụp sẽ là việc động
trời đối với họ. Khả năng xảy ra điều này khiến cho việc Patricia đi lấy những
tráng tài liệu trở nên kịch tính. Mỗi lần cô ấy quay trở lại một cửa hàng thì
hoàn toàn có thể FBI đã đang ngồi chờ sẵn ở bên trong rồi. Cho đến lúc này,
chúng tôi có lẽ đã "chăm sóc cẩn thận" tất cả hoặc phần lớn những ký
hiệu tối mật, nhưng đa phần nội dung tài liệu cũng đủ bất thường để thu hút sự
chú ý của bất kỳ ai chợt cầm lên và liếc qua. Có rất nhiều ghi chú đề cập tới
những kế hoạch và khuyến cáo của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân hay các bản
Đánh giá tình báo quốc gia đặc biệt của CIA. Điều gì sẽ xảy ra nếu ai đó tình cờ
đọc được một chút của những gì tôi đang sao chụp và nhận ra điều gì đó bất thường?
Đó thực sự là lý do vì sao tôi đã do dự lâu đến thế mà không chụp thêm một số bản.
Chỉ riêng các dấu "tối mật" thì tôi có thể xử lý được, nhưng chẳng có
gì có thể đảm bảo rằng những tài liệu với tiêu đề như thế này sẽ không gây ra
lo lắng đối với người nào đó liếc qua nó. Vì thế nên việc đi lấy bản sao khiến
Patricia rất hồi hộp.
Khi
chúng tôi đã lấy lại hết các bản sao, phân loại, và xếp theo đúng thứ tự trong
các hộp riêng biệt, tôi cần phải tìm ra chỗ để cất giữ. Một hộp gửi tại nhà anh
trai tôi ở New York.
Những
hộp khác gửi ở gác xép hoặc tầng hầm ở nhà bạn bè trong vùng; hầu hết họ không
được biết trong hộp đựng gì, chỉ biết đó là những tài liệu mà tôi cần cất giữ.
Vào
ngày 12-3, khi Neil Sheehan quay trở lại gặp tôi ở Cambridge, tôi mất nhiều đêm
thức trắng để sao chụp thêm các bản tài liệu. Bài báo của Oliphant đã khiến cho
tôi vô cùng lo lắng, không phải vì sợ bị bỏ tù, mà vì sợ sẽ không kiểm soát được
những bản chụp tài liệu của mình trước khi chúng được công bố.
Tôi
đưa Neil đến căn hộ của Spencer, nơi tôi đang cất giấu những bản sao và chỉ cho
anh nghiên cứu đó. Anh đã thuê một phòng tại một nhà nghỉ gần quảng trường
Harvard. Đọc lướt qua, Neil có thể thấy ngay rằng những tài liệu này quả đúng
như những gì tôi đã mô tả. Anh nói để có thể đăng trên tờ Thời báo, anh phải đọc
gần hết số đó, và việc này rõ ràng là sẽ cần thời gian. Anh ta xin chụp một bản,
nhưng tôi không muốn thế. Chưa phải lúc.
Tôi
đang phải cân nhắc hai khả năng. Một mặt, tôi quyết tâm bằng cách nào đó phải
đưa phần lớn số tài liệu đến được với công chúng. Tôi nghi ngờ liệu tờ Thời báo
có sẵn lòng làm việc này hay không. Đồng thời, tôi lo ngại rằng nếu đưa những
tài liệu này cho tờ Thời báo trước khi ban biên tập cam kết xuất bản hay thậm
chí là có ý định xuất bản, thì có thể ai đó trong số họ sẽ báo cho FBI; hoặc là
FBI vì một lý do gì đó nghe phong thanh được về điều này và sẽ truy tìm những bản
sao chụp khác của tôi.
Nếu
tờ báo (1) cam kết xuất bản và (2) có kế hoạch xuất bản phần lớn nghiên cứu này
trên mặt báo thì việc những bản sao còn lại (cũng là "bản cáo trạng"
của tôi) bị mất cũng không phải là vấn đề gì to tát. Nhưng nếu trong trường hợp
không có được cả hai điều kiện trên thì việc mất các bản sao và việc tôi bị cảnh
sát theo dõi cũng sẽ có nghĩa là cuộc chơi chấm dứt nếu như tôi còn tính đến việc
công bố tài liệu này ngoài Quốc hội.
Những
tài liệu này ở đó càng lâu mà chưa có quyết định xuất bản, thì càng có khả năng
nhiều người sẽ biết tới và đọc chúng và một trong số họ sẽ báo cho Chính phủ. Kết
luận cuối cùng của những tính toán này là tôi không muốn gửi phần lớn tài liệu
tới trụ sở tờ Thời báo trừ phi những người đứng đầu của tờ báo đã sẵn sàng xuất
bản và phải là xuất bản phần lớn tài liệu.
Tôi
trông đợi Neil sẽ đại diện của tờ Thời báo trong vấn đề này. Tôi đã sẵn sàng
cho anh xem tất cả những gì anh ta muốn xem và ghi chép lại. Nhưng tôi sẽ không
để anh chụp lại một bản nào để mang về toà báo.
Lẽ
dĩ nhiên là Neil không thể ngay lập tức đưa ra bất kỳ cam kết nào với tôi trong
vấn đề này. Anh cũng đã nói rõ với tôi như vậy. Anh ta sẽ phải làm các biên tập
viên của anh ta có ấn tượng tốt về nội dung của tài liệu này, rồi sau đó sẽ là
những cuộc thảo luận cấp cao hệ quả của việc này đối với tờ Thời báo. Thêm vào
đó, tôi cũng đã nói với anh ấy rằng chẳng bao giờ có một sự đảm bảo tuyệt đối.
Về những việc kiểu như thế này, tôi hiểu rằng dù cho họ có hứa hẹn và thực sự
có ý định sẽ làm thì họ hoàn toàn có thể thay đổi quyết định vào phút chót. Đó
là sự mạo hiểm tôi phải chấp nhận khi đưa cho họ những trang tài liệu.
Tôi
nói với Neil rằng: "Khi tôi để anh sao chụp những tài liệu này và mang đi,
tôi đã sẵn sàng chấp nhận sự thật là tôi đã mất hết quyền kiểm soát đối với
chúng. Bản chụp đó ra khỏi tay tôi. Sau đó thì việc sử dụng ra sao là chuyện của
các anh (tức là tờ Thời báo). Tôi không thể tác động vào việc này và đó là cách
tôi nhìn nhận sự việc. Tôi không thể ngăn anh xuất bản dưới bất kỳ hình thức
nào và tôi cũng không thể bắt anh xuất bản. Vì thế việc tôi đưa bản chụp cho
anh nghĩa là tôi đã đồng ý trao cho tờ Thời báo và để họ tuỳ ý xuất bản những
tài liệu này. Trên thực tế, điều đó sẽ có nghĩa là đưa ra sự chấp thuận trước của
tôi đối với bất kỳ điều gì các anh làm".
Tôi
biết là tôi không thể đặt ra những điều kiện trên giấy tờ những ràng buộc có chế
tài buộc họ phải thực thi. Nhưng trước khi tôi đồng ý đưa bản sao của nghiên cứu
này cho tờ Thời báo, tôi muốn có được sự đảm bảo tối đa có thể được đối với hai
vấn đề sau: thứ nhất, toà báo có ý định xuất bản một phần nào đó; thứ hai, đó sẽ
phải là một "câu chuyện lớn", chiếm một đa số số lượng trang báo và
đó sẽ không chỉ là câu chuyện của một ngày, dù lớn hay nhỏ, mà là một loạt bài
tương xứng với nội dung và dung lượng của tài liệu gốc. Trong lần gặp nhau sau
đó, Neil đảm bảo với tôi rằng nếu tờ Thời báo tiến tới in nghiên cứu này, nó sẽ
"lớn" như là tôi muốn. Anh ta thậm chí còn đi xa hơn khi bảo đảm chắc
chắn với tôi rằng tờ báo sẽ in tài liệu này theo đúng nguyên bản. Tôi đã không
đặt điều kiện đó ngang với những điều kiện khác, nhưng anh biết rằng tôi rất muốn
thế và anh đã đồng ý với tôi. Tôi cũng đề nghị tờ Thời báo có "những cân
nhắc nghiêm túc" về việc cuối cùng sẽ xuất bản toàn bộ công trình nghiên cứu
thành sách.
Chúng
tôi đã không nói về việc bảo vệ tôi với tư cách là nguồn cung cấp tư liệu. Tôi
mặc nhiên cho rằng toà báo, ở một mức độ nào đó, sẽ làm việc này, và tôi đã
không đòi hỏi bất kỳ biện pháp đặc biệt nào nếu như tờ báo phải đối mặt với áp
lực của luật pháp. Tôi không muốn người ta biết tới với tư cách là nguồn cung cấp
thông tin hay một người đã tham gia nghiên cứu này, nhưng tôi đã không đưa ra
yêu cầu nào về cách thức mà tờ Thời báo đã giải quyết việc đó. Tôi cho rằng
chính phủ sẽ biết hoặc sẽ coi tôi chính là nguồn cung cấp thông tin.
Nhưng
tôi nói với Neil điều đã nói với các thượng nghị sỹ: tôi không muốn chọc giận
chính quyền khiến họ truy tố tôi, vì nếu tôi không làm vậy thì dù có vì lý do
chính trị hay lý do pháp lý họ có thể cũng sẽ chẳng truy tố tôi.
Đáp
lại ý nghĩ này của tôi, Neil cam đoan một lần nữa rằng tờ Thời báo là kênh tốt
nhất để đăng tải điều mà anh cho rằng cần phải cho nhân dân Mỹ biết. Anh cũng
nói thêm về khả năng, dù không chắc chắn lắm, rằng anh sẽ thuyết phục được sếp
của mình về việc này. Trong khi đó, anh sẽ phải đọc hết tập tài liệu và ghi
chép lại. Một lúc sau, chúng tôi để anh ở lại một mình với tập tài liệu. Tôi
không thể lúc nào cũng kè kè bên anh ấy được. Tôi nói với anh rằng tôi trông cậy
anh sẽ không đi ngược lại những mong muốn của tôi, sẽ không mang tập tài liệu
đi sao chụp. Tôi nói với Patricia rằng tôi thực sự không nghĩ rằng anh ấy sẽ
làm vậy. Đó đơn giản là cơ hội mà tôi sẽ phải nắm lấy. Chúng tôi ghé thăm anh
thường xuyên, anh luôn luôn trong tình trạng mệt mỏi nhưng ngày càng hăng hái
và phấn khởi Anh tiếp tục đề nghị chụp một bản để còn có cái mà thuyết phục các
biên tập viên toà báo, nhưng anh đành tỏ ra chấp nhận việc tôi giới hạn chỉ cho
anh chụp vài trang làm mẫu. Vài ngày sau, anh rời Cambridge, sau khi thống nhất
với tôi rằng anh sẽ sớm quay lại và ở lâu hơn.
Khi
quay lại, Neil báo với tôi rằng các biên tập viên của toà báo rõ ràng là quan
tâm, nhưng cũng chả có gì đáng ngạc nhiên là có nhiều tranh luận, sự không chắc
chắn và băn khoăn về kế hoạch đó. Họ cần phải biết nhiều hơn về nội dung của
nó.
Điều
đó vẫn không đủ để thuyết phục tôi sẵn lòng đưa lại cả công trình nghiên cứu hoặc
thậm chí là một số phần của nó.
Neil
lại ngồi xuống để đọc thêm, ghi chép thêm, và tự chuẩn bị tốt hơn để thuyết phục
họ về công trình đó. Tôi đã không hề nghi ngờ gì về thái độ của anh. Anh không
bao giờ phàn nàn về độ dài hay những phần khô khan của tài liệu. Chúng tôi cùng
bị ám ảnh về cuộc chiến. Và đối với một người như thế, đặc biệt đối với một nhà
báo, thì tài liệu này là vô cùng hấp dẫn.
Vào
lúc Neil một lần nữa rời Cambridge, anh đã cam kết mạnh mẽ hơn mọi lần trước về
việc làm sếp mình tin rằng câu chuyện này xứng đáng một vị trí độc nhất vô nhị.
Tuy nhiên trong những lần gọi điện cho tôi từ New York vài tuần sau đó, những gì
anh nói với tôi lại không được phấn khởi cho lắm. Họ đang gặp trục trặc trong
việc quyết định và không thể nhanh chóng đạt được một giải pháp. Neil vẫn hy vọng,
và thực ra là trông đợi rằng cuối cùng họ sẽ tiến đến việc xuất bản tài liệu
này, nhưng không rõ là sẽ mất bao lâu để họ có thể thực sự thấy nghiêm túc với
vấn đề này. Neil cũng nói với tôi rằng bản thân anh được giao nhiệm vụ làm những
vấn đề khác. (Tất cả những điều này hoá ra là sai).
Vào
tháng tư, anh gọi cho tôi nói rằng ban biên tập vẫn đang lần lữa chưa đi tới
quyết định và rằng dù đang theo đuổi một kế hoạch khác, anh muốn tiếp tục làm
việc về nghiên cứu này để chuẩn bị cho quyết định cuối cùng về việc sử dụng nó.
Anh
sẽ phải làm việc buổi đêm, thậm chí là cả vào các ngày cuối tuần với nó, và chỉ
có thể làm thế nếu có một bản chụp ở New York. Liệu tôi đã sẵn sàng đưa cho anh
ta một bản? Vào lúc này việc chiến tranh tiếp tục leo thang đã khiến tôi càng
thấy phải gấp rút công bố tài liệu này. Tôi đã trở nên ngày càng hoài nghi việc
có thể nhờ cậy gì đó ở Quốc hội. Sau những trì hoãn như vậy, tôi cũng không
trông mong vào tờ Thời báo, nhưng tôi hầu như không có sự lựa chọn nào khác, và
vào lúc này tôi đã sẵn sàng để gánh chịu một rủi ro lớn hơn. Trên cơ sở đó tôi
đã đồng ý.
Khi
đồng ý đưa một bản sao, thậm chí cả khi không có bất kỳ sự bảo đảm nào rằng tờ
Thời báo sẽ đăng nó, tôi đã ý thức được như Neil có thể đoán, rằng tôi đã đặt
niềm tin của tôi vào đối với việc anh ta sẽ sử dụng tài liệu này theo cách mà
anh ta thấy phù hợp. Đó là sự chấp thuận của tôi cho tờ Thời báo xuất bản nó
theo ý muốn của họ. Nhưng trên thực tế, như sau đó tôi được biết, anh ta đã
không cần sự chấp thuận, hay bản sao của tôi để làm việc đó. Điều mà tôi đã
không biết, và ông ta cũng đã quyết định không nói cho tôi, là tờ Thời báo đã
thuê một vài phòng ở khu New York Hilton, nơi mà một nhóm đang làm việc cấp tốc
với tậpHồ sơ Lầu Năm Góc, viết lời bình và lựa chọn các phần của văn bản và tài
liệu để đưa vào.
Họ
đã có bản sao đầy đủ của những gì tôi đã cho Neil xem cách đó hơn một tháng.
Trong
hai năm sau, các phần của tài liệu này lần lượt được xuất bản (dù các phần
chính cho đến bây giờ đối với tôi vẫn mơ hồ và khó hiểu). Mãi đến khi phiên toà
xét xử tôi gần kết thúc, chúng tôi mới khám phá ra có cái gì trong két sắt của
Howard Hunt ở Nhà Trắng. Trong đó có một biên niên của Hunt cho thấy rằng Neil
và Susan Sheehan đã đăng kí phòng với những cái tên giả tại các khách sạn ở
Cambridge và đã lấy hàng ngàn trang và cuối cùng là toàn bộ công trình nghiên cứu
và đem đến các cơ sở sao chụp tự động ở Melford và Boston.
Vào
một ngày cuối tuần, khi biết tôi sẽ đi khỏi thành phố cùng với Patricia, Neil
đã bí mật đến Cambridge và sử dụng chiếc chìa khoá căn hộ của Spencer mà tôi đã
đưa cho anh ta.
Anh
ta đã lấy tất cả công trình nghiên cứu và cùng vợ mang đến hiệu sao chụp ở
Melford.
Trong
khi đó, không hề biết những diễn biến "hậu trường" này, tôi đã tiếp tục
nỗ lực để có thêm nhiều người biết được chính sách của Nixon, trong khi vẫn cố
gắng tìm ra bất kỳ con đường hứa hẹn nào nhằm công bố những tài liệu này trước
công chúng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét