Ảnh chụp màn hình tiêu đề bài trên báo Mỹ:Why the Ukraine Crisis Is the West’s Fault- Tại sao khủng hoảng Ukraine là lỗi của phương Tây
Lời dẫn: Quan điểm của Google.tienlang đồng tình với bạn đọc Trần Văn Thắng- Hà Nội là MUỐN BÀN VỀ CUỘC CHIẾN Ở UKRAINA, TRƯỚC TIÊN PHẢI TÌM HIỂU XEM BÊN NÀO CÓ CHÍNH NGHĨA!
Khi bàn về cuộc chiến ở Ukraina hay bất kỳ cuộc chiến tranh nào, người nghiêm túc trước hết phải tìm hiểu xem: Lẽ phải thuộc về bên nào? Bên nào chính nghĩa, bên nào phi nghĩa?...
Tức là phải đi tìm nguồn cơn của cuộc chiến chứ không phải chỉ biết một điều quân đội của bên nào mạnh hơn, có vũ khí tối tân hiện đại hơn...
Tôi biết, xưa nay các bạn chủ nhà Google.tienlang thường ngưỡng mộ ông Lê Ngọc Thống. Nhưng cá nhân tôi thì đã thất vọng với ông này bởi ông ta dường như cuồng Nga. Mà cuồng Mỹ, cuồng Nga, cuồng Tàu đều là không tốt. Bởi khi đã "cuồng" thì không còn sự tỉnh táo để tư duy, đưa ra những nhận định sáng suốt. Ông Lê Ngọc Thống chỉ biết say sưa chứng minh rằng Nga có vũ khí tối tân hơn, đánh đấm có bài bản hơn... nhưng ông Lê Ngọc Thống chưa có bài nào chỉ ra nguồn cơn cuộc chiến, và vì vậy, ông này cũng không biết bên nào có chính nghĩa.
TÌM "CHÍNH NGHĨA" Ở ĐÂU?
1. Vào hiện tượng trước mắt?
- Nếu chỉ nhìn vào hiện tượng đang xảy ra trước mắt thì rõ ràng là Ukraina không mang quân sang đánh Nga; vậy cớ sao Nga mang quân sang đánh Ukraina? Vậy là Nga không chính nghĩa?
Ông Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đã có sai lầm khi phát biểu trên báo Tuổi trẻ cho rằng Nga đã sai mà Google.tienlang đã chỉ ra ở bài vào Thứ Ba, 15 tháng 3, 2022 với tiêu đề GOOGLE.TIENLANG KHÔNG ĐỒNG TÌNH VỚI QUAN ĐIỂM VỀ CUỘC CHIẾN Ở UKRAINA CỦA THƯỢNG TƯỚNG NGUYỄN CHÍ VỊNH TRÊN BÁO TUỔI TRẺ!
https://googletienlang2014.blogspot.com/2022/03/googletienlang-khong-ong-tinh-voi-quan.html
- Tương tự, nếu chỉ nhìn vào thời khắc tháng 1/1979 khi quân đội Việt Nam ào ạt tiến vào tận Phnongpenh thì rõ ràng là Việt Nam sai, VN không có chính nghĩa...
2. Vào việc bên nào có đa số quốc gia ủng hộ? Bên nào có Liên hợp quốc ủng hộ?
Cũng không ổn. Vì trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, rõ ràng là Mỹ có nhiều quốc gia ủng hộ hơn phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Liên hợp quốc cũng ra khá nhiều nghị quyết lên án Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngay cuộc chiến Cam Pu Chia, Liên hợp quốc cũng ra không ít nghị quyết lên án Việt Nam.
Vì vậy, để tìm "CHÍNH NGHĨA" Ở ĐÂU? bắt buộc phải tìm hiểu Lịch sử của quá trình hình thành sự kiện.
- Với cuộc chiến ở Ukraina, bài viết Báo Ý: "UKRAINA- NATO ĐÃ PHÁT ĐỘNG CUỘC TẤN CÔNG 8 NĂM TRƯỚC" - (Ucraina: l’attacco lo lanciò la Nato otto anni fa) đã cho chúng ta thấy Lịch sử của quá trình hình thành sự kiện. Đoạn trích dưới đây là vô cùng quan trọng:
----
"Vào tháng 2 năm 2014, NATO, vốn đã chiếm giữ các chức vụ chủ chốt ở Ukraine từ năm 1991, đã tiến hành cuộc đảo chính lật đổ tổng thống được bầu hợp lệ của Ukraine thông qua các đội hình tân Quốc xã được huấn luyện và vũ trang đặc biệt. Nó được sắp xếp theo một chiến lược chính xác: tấn công người Nga ở Ukraine để kích động phản ứng từ Nga và do đó mở ra một rạn nứt sâu sắc ở châu Âu. Khi người Nga ở Crimea quyết định quay trở lại nước Nga mà trước đây họ là một phần, và người Nga ở Donbass (bị ném bom bởi Kiev bằng bom phốt pho trắng- nguyên văn tiếng Ý: "bombardati da Kiev anche col fosforo bianco") cố thủ tại hai nước cộng hòa, cuộc chiến leo thang của NATO bắt đầu chống lại Nga. Nó được hỗ trợ bởi EU, trong đó có 21/27 quốc gia thành viên thuộc NATO dưới sự chỉ huy của Mỹ."
----
Nếu ai bỏ quên đoạn trích trên đây thì không thể biết chính nghĩa thuộc về ai! (Hết trích ý kiến bạn đọc Trần Văn Thắng- Hà Nội)
Về chuyện chính nghĩa hay phi chính nghĩa cuộc chiến Ukraina, ở ý kiến trên, bạn đọc Trần Văn Thắng- Hà Nội dẫn chứng từ bài báo Ý Báo Ý: "UKRAINA- NATO ĐÃ PHÁT ĐỘNG CUỘC TẤN CÔNG 8 NĂM TRƯỚC" - (Ucraina: l’attacco lo lanciò la Nato otto anni fa).
Hôm nay, Google.tienlang xin bạn đọc tham khảo thêm dẫn chứng từ bài báo Mỹ, đặc biệt, bài báo Mỹ này đã đăng từ năm 2014, ngay sau khi sự kiện Cách mạng màu sắc EuroMaidan2014 nổ ra.
Mời những ai biết tiếng Anh xin đọc bản gốc bài báo Mỹ với tiêu đề Why the Ukraine Crisis Is the West’s Fault?- Dịch: Tại sao
khủng hoảng Ukraine là lỗi của phương Tây?
https://www.foreignaffairs.com/articles/russia-fsu/2014-08-18/why-ukraine-crisis-west-s-fault
Dưới đây, Google.tienlang đăng bản dịch bài báo này. Bản dịch này chép từ trang Nghiên cứu Quốc tế.
*****
Why the Ukraine Crisis Is the West’s Fault?- Dịch: Tại sao khủng hoảng Ukraine là lỗi của phương Tây?
Biên dịch và Hiệu đính: Lương Khánh Ninh
Theo lối tư duy hiện đang thịnh hành ở phương Tây,
cuộc khủng hoảng tại Ukraine có thể gần như được đổ lỗi hoàn toàn cho cuộc tấn
công của Nga. Theo như mạch lập luận này, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã sáp
nhập Crimea để hiện thực hóa khát khao khôi phục lại đế chế Xô Viết đã tồn tại
từ lâu, và ông ta rốt cuộc có thể làm điều tương tự với phần còn lại của
Ukraine cũng như những quốc gia Đông Âu khác. Cũng theo quan điểm đó, việc Tổng
thống Ukraine Viktor Yanukovych bị lật đổ vào tháng 2/2014 chỉ mang lại một cái
cớ cho Putin quyết định đưa lực lượng quân đội Nga chiếm giữ một phần lãnh thổ
Ukraine.
Tuy nhiên cách lý giải trên là không đúng: Mỹ và
các đồng minh phương Tây phải chịu hầu hết trách nhiệm trong cuộc khủng hoảng
này. Gốc rễ của vấn đề nằm ở sự mở rộng của NATO, nhân tố trung tâm của một chiến
lược bao trùm hơn nhằm đưa Ukraine ra khỏi quỹ đạo kiểm soát của Nga và đưa quốc
gia này gia nhập phương Tây. Trong khi đó, sự mở rộng của EU về hướng đông và
việc phương Tây chống lưng cho phong trào ủng hộ dân chủ ở Ukraine – bắt đầu với
cuộc Cách mạng Cam năm 2004 – cũng là những nhân tố then chốt. Kể từ giữa thập
niên 1990, giới lãnh đạo Nga đã phản đối mạnh mẽ sự mở rộng của NATO, và trong
những năm gần đây họ cũng nêu rõ quan điểm rằng Nga sẽ không đứng nhìn quốc gia
láng giềng có tầm quan trọng chiến lược bị biến thành thành trì của phương Tây.
Đối với Putin, cuộc lật đổ bất hợp pháp vị Tổng thống đắc cử một cách dân chủ
và thân Nga của Ukraine – cái mà ông gọi một cách chính xác là cuộc “đảo chính”
– là giọt nước làm tràn ly. Putin đáp lại bằng cách chiếm Crimea, một bán đảo
mà ông e rằng sẽ là nơi đặt căn cứ hải quân của NATO, và bằng cách làm bất ổn
tình hình ở Ukraine cho tới khi quốc gia này từ bỏ nỗ lực gia nhập phương Tây.
Đòn đáp trả của Putin lẽ ra không có gì đáng ngạc
nhiên. Rốt cuộc thì phương Tây đã xâm phạm đến sân sau của Nga và đe dọa đến lợi
ích chiến lược cốt lõi của nước này, một điều mà Putin đã nhấn mạnh và lặp lại
nhiều lần. Giới tinh hoa của Mỹ và Châu Âu bị các sự kiện giáng cho những đòn bất
ngờ chỉ bởi vì họ tin vào một quan điểm sai lầm về chính trị quốc tế. Họ có xu
hướng tin rằng logic của chủ nghĩa hiện thực không còn phù hợp trong thế kỷ 21
và châu Âu có thể được duy trì một cách toàn vẹn và tự do dựa trên nền tảng các
nguyên lí của chủ nghĩa tự do như pháp quyền, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế
và nền dân chủ.
Dẫu vậy, đại kế hoạch này đã thất bại ở Ukraine. Cuộc
khủng hoảng tại đây cho thấy rằng chính trị hiện thực vẫn còn thích hợp ở thời
đại này – và những quốc gia nào chối bỏ nó sẽ phải chấp nhận đối mặt với những
nguy hiểm và rủi ro. Các nhà lãnh đạo của Hoa Kỳ và châu Âu đã phạm phải sai lầm
ngớ ngẩn khi nỗ lực biến Ukraine thành một thành trì của phương Tây ngay trên
biên giới nước Nga. Giờ đây, khi mà hậu quả của hành động này đã hiện ra rõ
ràng, việc tiếp tục theo đuổi chính sách nhiều sai sót này sẽ là một sai lầm
còn trầm trọng hơn nữa.
Sự sỉ nhục từ
phương Tây
Khi Chiến tranh Lạnh tiến đến hồi kết, các nhà lãnh
đạo của Liên Xô muốn rằng lực lượng của Mỹ ở lại châu Âu và khối NATO giữ
nguyên hiện trạng, đó là một thỏa thuận mà họ cho rằng sẽ giữ cho một nước Đức
vừa tái thống nhất trong tình trạng hòa bình. Tuy nhiên, họ và những lãnh đạo kế
tục của Nga không muốn NATO mở rộng hơn nữa và cho rằng các nhà ngoại giao
phương Tây hiểu được mối lo ngại này của họ. Chính quyền Clinton rõ ràng đã
nghĩ khác, và đến giữa thập niên 90, chính quyền này bắt đầu thúc giục NATO tiến
hành mở rộng.
Đợt mở rộng đầu diễn ra vào năm 1999 và kết nạp Cộng
hòa Séc, Hungary và Ba Lan, và lần thứ hai vào năm 2004, thu nạp thêm Bulgaria,
Estonia, Latvia, Litva, Romania, Slovakia và Slovenia. Moscow đã lên tiếng phàn
nàn về hành động này ngay từ những ngày đầu tiên. Ví dụ, trong suốt chiến dịch
đánh bom của NATO nhắm vào người Serbia ở Bosnia, Tổng thống Nga Boris Yeltsin
đã nói: “Đây là dấu hiệu đầu tiên về điều có thể xảy ra khi NATO tiến gần đến
biên giới của Liên bang Nga. … Ngọn lửa chiến tranh có thể bùng cháy và trải khắp
châu Âu.” Nhưng người Nga tại thời điểm đó quá yếu ớt để làm trật bánh quá
trình đông tiến của NATO –quá trình mà dù sao lúc đó cũng không có vẻ là mối đe
dọa nghiêm trọng bởi không một quốc gia thành viên mới nào của NATO có chung đường
biên giới với Nga, ngoại trừ các quốc gia vùng Baltic bé nhỏ.
Sau đó, NATO bắt đầu tìm cách tiến xa hơn nữa. Tại
hội nghị thượng đỉnh diễn ra vào tháng 4/2008 tại Bucharest, liên minh này đã
cân nhắc đến việc kết nạp Gruzia và Ukraine. Chính quyền G.W. Bush ủng hộ hành
động này, nhưng Pháp và Đức thì phản đối bởi họ sợ rằng điều này sẽ làm Nga tức
giận quá mức. Cuối cùng, các nước thành viên NATO đã đạt được một thỏa hiệp:
liên minh không bắt đầu tiến hành quy trình kết nạp chính thức mà thay vào đó
ban hành một tuyên bố ủng hộ nguyện vọng của Gruzia và Ukraine, đồng thời mạnh
bạo tuyên bố rằng “Những quốc gia này sẽ trở thành thành viên của NATO.”
Tuy nhiên, Moscow không nhìn nhận kết quả này như một
sự thỏa hiệp. Alexander Grushko, khi đó là Thứ trưởng Ngoại giao Nga, đã lên tiếng
cho rằng, “Việc Gruzia và Ukraine trở thành thành viên NATO là một sai lầm chiến
lược, sai lầm này sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng nhất tới an ninh toàn châu
Âu.” Putin giữ vững lập trường cho rằng việc NATO kết nạp 2 quốc gia kể trên sẽ
là một “mối đe dọa trực tiếp” đối với Nga. Một tờ báo Nga đưa tin, trong khi hội
đàm với Bush, Putin “đưa ra tín hiệu rõ ràng rằng nếu Ukraine được nhận vào khối
NATO, sự tồn tại của quốc gia này sẽ chấm dứt.”
Cuộc xâm lược của Nga vào Gruzia vào tháng 8/2008
đáng lẽ nên xua tan mọi mối ngờ vực còn sót lại về quyết tâm của Putin nhằm
ngăn chặn Gruzia và Ukraine gia nhập NATO. Tổng thống Gruzia Mikheil
Saakashvili, người quyết tâm cam kết đưa Gruzia vào NATO, trước đó đã quyết định
tái sáp nhập hai vùng ly khai Abkhazia và Nam Ossetia trong mùa hè 2008. Vậy
nhưng Putin tìm cách giữ cho Gruzia yếu ớt và chia rẽ – cũng như ngoài tầm với
của NATO. Sau khi cuộc chiến nổ ra giữa chính quyền Gruzia và lực lượng ly khai
Nam Ossetia, lực lượng quân đội Nga đã nắm quyền kiểm soát Abkhazia và Nam
Ossetia. Moscow đã làm rõ quan điểm của họ. Vậy mà, bất chấp lời cảnh báo rõ
ràng đó, NATO chưa bao giờ công khai tuyên bố từ bỏ mục tiêu đưa Gruzia và
Ukraine vào khối này. Công cuộc mở rộng của NATO cứ tiếp tục diễn ra, với việc
Anbani và Croatia trở thành thành viên vào năm 2009.
Giống như NATO, EU cũng đã và đang đông tiến. Tháng
5/2008, liên minh này hé lộ sáng kiến “Đối tác phương Đông”, một chương trình
nhằm thúc đẩy sự thịnh vượng ở những quốc gia như Ukraine và đưa những quốc gia
này hội nhập vào nền kinh tế EU. Không có gì đáng ngạc nhiên khi các nhà lãnh đạo
Nga nhìn nhận kế hoạch này như một hành động thù địch chống lại lợi ích quốc gia
của họ. Tháng Hai vừa qua, trước khi Yanukovych bị buộc rời nhiệm sở, Ngoại trưởng
Nga Sergey Lavrov đã buộc tội EU nỗ lực tạo ra “phạm vi ảnh hưởng” ở Đông Âu.
Trong con mắt các nhà lãnh đạo Nga, sự mở rộng của EU là bình phong cho sự bành
trướng của NATO.
Công cụ cuối cùng của phương Tây để chia cắt Kiev
khỏi Moscow là nỗ lực phổ biến các giá trị phương Tây và thúc đẩy dân chủ ở
Ukraine và những quốc gia hậu Xô Viết khác – một kế hoạch bao gồm việc tài trợ
cho các cá nhân và tổ chức ủng hộ phương Tây. Victoria Nuland, trợ lý Ngoại trưởng
Mỹ về các vấn đề châu Âu và khu vực Á-Âu, đưa ra ước tính trong tháng 12/2013 rằng
nước Mỹ đã đầu tư hơn 5 tỉ đô la kể từ năm 1991 để giúp Ukraine đạt được “tương
lai mà quốc gia này xứng đáng được hưởng”. Như một phần của nỗ lực kể trên,
chính phủ Hoa Kỳ cung cấp tài chính cho Quỹ Quốc gia vì Dân chủ (NED). Quỹ phi
lợi nhuận này đã tài trợ cho hơn 60 dự án nhằm thúc đẩy xã hội dân sự ở
Ukraine, và chủ tịch NED, Carl Gershman, gọi quốc gia này là “mục tiêu giá trị
nhất”. Sau khi Yanukovych đắc cử tổng thống vào tháng 2/2010, NED quyết định rằng
ông này đã phá hỏng các mục tiêu của họ, và do đó tổ chức này tăng cường nỗ lực
để hỗ trợ phe đối lập và củng cố các thể chế dân chủ ở Ukraine.
Khi các lãnh đạo của Nga nhìn vào công cuộc thiết kế
xã hội của phương Tây ở Ukraine, họ lo ngại rằng đất nước của họ sẽ là nạn nhân
kế tiếp. Những lo ngại này không phải là hoàn toàn không có cơ sở. Vào tháng
9/2013, Gershman viết trên tờ Washington Post, “Sự lựa chọn gia nhập vào châu
Âu của Ukraine sẽ thúc đẩy sự suy tàn của tư tưởng đế quốc Nga mà Putin đang thể
hiện.” Tác giả cũng thêm vào: “Nước Nga cũng đang đối mặt với một sự lựa chọn,
và Putin có lẽ đang thấy mình ở thế thua cuộc, không chỉ ở bên ngoài mà còn ở
bên trong nước Nga.”
Tạo ra một
cuộc khủng hoảng
Ba gói chính sách của phương Tây – tăng cường NATO,
mở rộng EU và thúc đẩy dân chủ – đã đổ thêm dầu vào ngọn lửa đang chực chờ bùng
phát. Tia lửa lóe lên vào tháng 11/2013, khi Yanukovych hủy bỏ một thỏa thuận
kinh tế lớn mà ông ta đã đàm phán với EU và thay vào đó quyết định chấp nhận lời
đề nghị trị giá 15 tỉ đôla từ phía Nga. Quyết định này đã dẫn đến các cuộc biểu
tình chống chính phủ leo thang trong suốt ba tháng sau đó, một số cuộc biểu
tình vào giữa tháng Hai đã gây ra cái chết của hàng trăm người biểu tình. Các
phái viên của phương Tây nhanh chóng bay đến Kiev để giải quyết cuộc khủng hoảng
này. Ngày 21/2, chính phủ và phe đối lập thỏa thuận cho phép Yanukovych tại vị
cho đến khi các cuộc bầu cử mới được tổ chức. Tuy nhiên, thỏa thuận này ngay lập
tức thất bại, và Yanukovych chạy trốn sang Nga ngay ngày sau đó. Chính phủ mới ở
Kiev là một chính phủ thân phương Tây và chống Nga đến tận gốc rễ, nó cũng có bốn
thành viên cấp cao mà có thể được gắn mác là những người theo chủ nghĩa tân
phát xít.
Mặc dù phạm vi dính líu của Hoa Kỳ vẫn chưa được
phơi bày đầy đủ, nước Mỹ rõ ràng đã chống lưng cho vụ đảo chính này. Nuland và
Thượng nghị sĩ John McCain tham dự cuộc biểu tình chống chính phủ, và Geoffrey
Pyatt, đại sứ Mỹ tại Ukraine, tuyên bố sau khi Yanukovych bị lật đổ rằng đó là
“một ngày đáng nhớ trong lịch sử.” Sau khi một đoạn ghi âm điện thoại được hé lộ,
người ta biết được rằng Nuland đã chủ trương tán thành thay đổi chế độ và mong
muốn chính trị gia người Ukraine Arseniy Yatsenyuk sẽ trở thành thủ tướng trong
chính quyền mới, và sau đó đúng là ông ta đã đạt được vị trí này. Chẳng lấy gì
làm ngạc nhiên khi những nhà lãnh đạo Nga cho rằng phương Tây đã đóng vai trò
nào đó trong vụ Yanukovych bị hất cẳng.
Đối với Putin, thời điểm để hành động chống lại
Ukraine và phương Tây đã tới. Ngay sau ngày 22/2, ông ra lệnh cho lực lượng
quân đội Nga chiếm lấy Crimea từ Ukraine, và không lâu sau đó, ông sáp nhập tỉnh
này vào nước Nga. Nhiệm vụ này tỏ ra tương đối dễ dàng nhờ vào việc hàng ngàn
lính Nga đã đóng quân trước đó tại một căn cứ hải quân ở cảng Sevastopol thuộc
Crimea. Crimea cũng là một mục tiêu dễ đạt được bởi người dân tộc Nga chiếm đến
khoảng 60% dân số ở khu vực này. Đa số họ mong muốn thoát khỏi Ukraine.
Kế tiếp, Putin gây sức ép rất lớn lên chính quyền mới
thành lập ở Kiev để khuyến khích họ không liên minh với phương Tây chống lại
Moscow, tỏ rõ quan điểm rằng ông sẽ làm tan vỡ Ukraine và biến nó thành một nhà
nước không hoạt động được trước khi cho phép quốc gia này trở thành một thành
trì của phương Tây ngay trước ngưỡng cửa của Nga. Để thực hiện mục tiêu trên,
Putin cung cấp cố vấn, vũ khí và hỗ trợ ngoại giao cho những phần tử ly khai
người Nga ở miền đông Ukraine, những người hiện đang đẩy quốc gia này đến một
cuộc nội chiến. Ông ta cũng đưa một đội quân lớn đến biên giới Ukraine, đe dọa
xâm lược nếu như chính phủ Ukraine đàn áp những người nổi dậy. Và ông cũng tăng
mạnh giá khí đốt mà Nga bán cho Ukraine cũng như yêu cầu Ukraine thanh toán cho
những đợt xuất khẩu khí đốt trước đó. Putin đang chơi lá bài cứng rắn với đối
thủ của mình.
Chẩn đoán
nguyên nhân
Những hành động của Putin là dễ hiểu. Là một khu vực
đất bằng rộng lớn mà nước Pháp thời Napoleon, Đế quốc Đức và Đức Quốc xã trước
đây đã từng vượt qua để tấn công Nga, Ukraine có vai trò như một quốc gia vùng
đệm có tầm quan trọng vô cùng lớn đối với Nga. Không một nhà lãnh đạo nào của
Nga có thể chấp nhận một liên minh quân sự mà cho đến gần đây vẫn là kẻ tử thù
của Moscow lại được phép tiến vào Ukraine. Cũng như không có một nhà lãnh đạo
Nga nào khoanh tay đứng nhìn phương Tây xây dựng một chính quyền ở Ukraine mà
chính quyền này được xác định nhằm đưa Ukraine sáp nhập vào thế giới phương
Tây.
Washington có thể không thích thú gì với lập trường
của Moscow, nhưng họ nên hiểu logic đứng sau lập trường này. Đây là bài học nhập
môn Địa chính trị: các cường quốc luôn nhạy cảm với những hiểm họa tiềm tàng gần
lãnh thổ của họ. Rốt cuộc, Hoa Kỳ cũng không thể chấp nhận việc các cường quốc ở
xa triển khai các lực lượng quân sự tại bất kỳ đâu ở Tây Bán cầu, chứ chưa nói
đến tại biên giới nước này. Cứ thử tưởng tượng cơn thịnh nộ của Washington nếu
như Trung Quốc xây dựng một liên minh quân sự đầy hùng mạnh và cố gắng lôi kéo
Canada và Mexico vào liên minh ấy thì biết. Tạm bỏ logic sang một bên, các nhà
lãnh đạo phía Nga đã từng nhiều lần nói với những người đồng cấp phương Tây rằng
họ coi sự mở rộng của NATO sang Gruzia và Ukraine là không thể chấp nhận được,
tương tự với bất kỳ nỗ lực nào nhằm biến những quốc gia này chống lại Nga. Cuộc
chiến Nga-Gruzia năm 2008 đã nêu lên thông điệp này một cách hết sức rõ ràng.
Giới chức Mỹ và các đồng minh châu Âu tranh luận rằng
họ đã cố gắng hết sức để xoa dịu nỗi sợ hãi của người Nga và rằng Moscow nên hiểu
một điều là NATO không có mưu đồ gì đối với họ cả. Bên cạnh việc liên tục phủ
nhận sự mở rộng của của họ không nhằm mục đích kiềm chế Nga, liên minh quân sự
này cũng chưa bao giờ triển khai lực lượng quân sự vĩnh viễn tại các nước thành
viên mới. Năm 2002, tổ chức này thậm chí còn lập ra một cơ quan có tên gọi Hội
đồng NATO-Nga trong một nỗ lực nhằm thúc đẩy hợp tác. Để xoa dịu Nga hơn nữa,
Hoa Kỳ tuyên bố trong năm 2009 rằng quốc gia này sẽ lắp đặt hệ thống phòng thủ
tên lửa mới trên các chiến hạm tại các vùng biển châu Âu, ít nhất là vào thời điểm
ban đầu, thay vì tại Cộng hòa Séc hoặc Ba Lan. Tuy nhiên không biện pháp nào
trong số kể trên đã thành công; người Nga vẫn trước sau như một phản đối sự
bành trướng của NATO, đặc biệt đối với sự mở rộng ra Gruzia và Ukraine. Và
chính người Nga, chứ không phải phương Tây, mới là những người sau cùng đưa ra
quyết định điều gì được coi là mối hiểm họa đối với họ.
Để hiểu tại sao phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ, đã
không hiểu được rằng chính sách Ukraine của họ đã tạo nền tảng cho cuộc xung đột
lớn với nước Nga, ta cần phải quay trở lại thời điểm giữa thập niên 1990, khi
chính quyền Bill Clinton bắt đầu chủ trương ủng hộ mở rộng NATO. Các chuyên gia
tại thời điểm đó đưa ra nhiều loại lập luận cả ủng hộ lẫn bác bỏ sự bành trướng
này, nhưng lại không nhất trí về những việc cần làm. Ví dụ, hầu hết những người
di dân Mỹ gốc Đông Âu và những người thân của họ ủng hộ mạnh mẽ việc mở rộng, bởi
họ muốn NATO bảo vệ những quốc gia như Hungary hoặc Ba Lan. Một vài người theo
chủ nghĩa hiện thực cũng thiên về chính sách này vì họ cho rằng nước Nga vẫn cần
phải bị kiềm chế.
Tuy vậy, hầu hết những người theo thuyết hiện thực
phản đối sự bành trướng này, bởi họ tin rằng một cường quốc đang đi xuống với
dân số đang ngày càng già cỗi và một nền kinh tế một chiều không cần thiết phải
bị đặt trong vòng kiềm tỏa. Họ cũng sợ rằng việc mở rộng này sẽ chỉ khiến Nga
có động cơ để gây rắc rối cho khu vực Đông Âu. Nhà ngoại giao Mỹ George Kennan
nêu rõ quan điểm này trong một cuộc phỏng vấn năm 1998, không lâu sau khi Thượng
viện Mỹ phê chuẩn đợt mở rộng NATO lần đầu tiên. Ông nói: “Tôi cho rằng người
Nga sẽ dần có phản ứng tiêu cực hơn và điều này sẽ gây tác động xấu đến chính
sách của họ. Tôi nghĩ đây là một sai lầm khủng khiếp. Dù gì đi chăng nữa, không
có bất kỳ lí do gì có thể biện hộ cho chuyện này. Không ai đang đe dọa ai ở đây
cả.”
Mặt khác, đại đa số những người ủng hộ quan điểm tự
do lại ủng hộ việc mở rộng của NATO, trong số đó có nhiều nhân vật chủ chốt
trong chính quyền Clinton. Họ tin rằng sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh đã làm
chuyển đổi một cách cơ bản nền chính trị quốc tế và rằng một trật tự hậu quốc
gia mới đã thay thế logic của chủ nghĩa hiện thực thống trị châu Âu trước đây.
Nước Mỹ không chỉ là “một quốc gia không thể thiếu được”, như Ngoại trưởng
Madeleine Albright tuyên bố, mà còn là một quốc gia bá quyền nhân từ, và do đó
khó có thể bị coi là một mối hiểm họa đối với Moscow. Về bản chất, mục tiêu ở
đây là biến cả lục địa châu Âu trông giống như Tây Âu vậy.
Do đó, Mỹ và đồng minh tìm cách thúc đẩy dân chủ ở
các nước Đông Âu, tăng cường sự phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế giữa các nước
này, và gắn họ vào các tổ chức quốc tế. Sau khi giành chiến thắng trong cuộc thảo
luận trong nước Mỹ, những người theo thuyết tự do chẳng gặp khó khăn trong việc
thuyết phục các đồng minh của họ ở châu Âu ủng hộ sự mở rộng của NATO. Sau
cùng, vin vào những thành tựu của EU trong quá khứ, những người châu Âu thậm
chí còn trung thành hơn cả người Mỹ với ý tưởng rằng địa chính trị không còn
đóng vai trò quan trọng và rằng một trật tự tự do bao gồm tất cả các quốc gia sẽ
có thể duy trì hòa bình ở châu Âu.
Vậy là những người chủ trương đường lối tự do đã lấn
áp hoàn toàn trong cuộc tranh luận về vấn đề an ninh của châu Âu trong suốt thập
kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 đến mức mà, trong khi liên minh theo đuổi chính sách
tăng trưởng dựa trên mở cửa thì sự mở rộng của NATO cũng hầu như không gặp phải
phản đối gì từ những người theo chủ nghĩa hiện thực. Thế giới quan của học thuyết
tự do được chấp nhận như một thứ giáo điều trong nội bộ giới chức Mỹ. Điển hình
như trong tháng 3 vừa qua, trong bài phát biểu của Tổng thống Obama về vấn đề
Ukraine, ông thường xuyên nói về “những lý tưởng” tạo động lực cho chính sách của
phương Tây và cái cách mà những lý tưởng này “thường bị đe dọa bởi quan điểm cũ
kỹ, mang tính truyền thống hơn về quyền lực.” Phản ứng của Ngoại trưởng John
Kerry về vấn đề khủng hoảng tại Crimea cũng phản ánh góc nhìn tương tự: “Trong
thế kỷ 21 bạn không thể hành xử giống như cách của thế kỷ 19 bằng việc xâm lược
quốc gia khác dựa trên cái cớ tự tạo.”
Về bản chất, hai bên hoạt động với hai chiến lược
khác nhau: Putin và những đồng chí của ông tư duy và hành động theo tiếng gọi của
chủ nghĩa hiện thực, trong khi những người đồng cấp phương Tây của ông thì tuân
theo những ý tưởng của chủ nghĩa tự do về chính trị quốc tế. Kết quả là nước Mỹ
và đồng minh đã vô tình gây ra một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng ở Ukraine.
Tác giả: John J. Mearsheimer
Biên dịch và Hiệu đính: Lương Khánh Ninh
Hoàng Ngân Thương Giới thiệu
======
Từ ngày 27/4/2021, Google.tienlang nhắc anh em báo chí VN: