Thứ Tư, 26 tháng 3, 2025

50 năm giải phóng Huế, Đà Nẵng: CÙNG XEM LẠI "NGƯỜI ANH EM" PHÍA BÊN KIA VIẾT GÌ!

 

Đơn vị giải phóng quân tiểu đoàn 31, trung đoàn 41 tiến công mạnh mẽ theo hướng tại biển Thuận An trong chiến dịch tổng tiến công xuân 1975.

Quân giải phóng tiến vào đại nội Huế theo cửa Ngọ Môn trong chiến dịch tổng tiến công xuân 1975. Ngày 25/3/1975, lá cờ của quân Giải phóng miền Nam đã tung bay trên kỳ đài Huế. Ngày 26/3, Huế hoàn toàn được giải phóng.

Hôm nay, 26/3/2025 - Kỷ niệm tròn 50 năm Tp Huế hoàn toàn giải phóng. Ba hôm nữa, 29/3/1975 - Tp Đà Nẵng giải phóng. 

Tương tự như bài Nhân 50 năm Giải phóng Buôn Mê Thuột: CUỘC CHIẾN TRÊN ĐƯỜNG SỐ 7 CHEO REO – PHÚ BỔN NHÌN TỪ PHÍA BÊN KIA, hôm nay, qua Google.tienlang, tôi muốn cùng các cụ từng ở phía bên kia ôn lại chút kỷ niệm xưa.
Thú thật, ngày ấy, tôi cùng bạn bè - những chàng trai 19 đôi mươi vừa rời mái trường phổ thông ở miền Bắc, vào Tp Huế, vào Đà Nẵng thấy cái gì cũng lạ. Mấy anh em tự sắm cho mình cái đài đĩa khá to. Bài Ai ra xứ Huế do bé Hương Lan ca là một trong các bài hát mà chúng tôi rất thích. Vậy trước hết, chúng ta cùng nghe lại bài này nhé...

Ngày ấy, tất nhiên là chưa có Internet nên chúng tôi không biết những "người anh em" phía bên kia nghĩ gì, viết gì... 
Còn bây giờ thì quá thuận lợi.
Vậy hôm nay, chúng ta cùng đọc ...

Tháng 3-1975 Tuyến đầu thất thủ

https://ongvove.wordpress.com/2009/04/21/thang-3-1975-tuy%E1%BA%BFn-d%E1%BA%A7u-th%E1%BA%A5t-th%E1%BB%A7/

Tối 29-3-1975 đài phát thanh BBC Luân Đôn cho biết Đà Nẵng thất thủ, một trăm ngàn quân bị bắt làm tù binh, đó cũng là ngày sụp đổ của toàn bộ Quân khu 1, hung tin ghê gớm đã khiến cho cả nước kinh hoàng: Quân khu 1 nơi tập trung những lực lượng tinh nhuệ và thiện chiến nhất của ta, bốn sư đoàn chính qui, bốn liên đoàn Biệt Động quân … đã hoàn toàn tan rã sau 9 ngày cầm cự và triệt thoái. Mặc dù nay Bộ Tổng tham mưu, các vị Tướng lãnh, các giới chức quân sự có liên hệ đã bạch hóa diễn tiến của trận chiến bi thảm này, các nhà nghiên cứu quân sự, các nhân chứng, ký giả chiến trường… đã biên soạn, kể lại diễn tiến của mặt trận vùng Hoả tuyến nhưng người ta tưởng như nó vẫn còn nhiều điều bí ẩn và khó hiểu, chưa bao giờ trong cuộc chiến tranh Quốc Cộng giai đoạn 1960-1975 một lực lượng to lớn của ta lại có thể thua nhanh đến thế.

Các tài liệu, sách báo nói về cuộc lui binh tại Quân khu 1 của Bộ Tổng tham mưu Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Ngô quang Trưởng, Thiếu tướng Hoàng Lạc, nhà nghiên cứ quân sự Nguyễn Đức Phương, ký giả chiến trường Phạm Huấn và những lời thuật lại của các nhân chứng … nói chung dồi dào nhưng không hoàn toàn giống nhau có khi còn trái ngược nhau là khác.

Quân khu 1 là một giải đất dài và hẹp hình cán chảo, người Mỹ gọi là pan handle chạy theo hướng tây bắc, đông nam, gồm 5 tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng tín, Quảng Ngãi, dân số vào khoảng ba triệu. So với các Quân khu khác Vùng Một nhỏ hẹp nhất, đây là nơi tiếp giáp với Bắc Việt, chiến tranh có thể bùng nổ bất cứ lúc nào nên cũng gọi là vùng hoả tuyến. Từ sau khi ký hiệp định Paris ta chỉ còn kiểm soát được chưa tới 50% diện tích Quân khu, phần đất của ta nằm phía bên phải của giải đất theo chiều dọc tức là phía đông, còn phía tây đã lọt vào tay quân thù. Dần dần ta chỉ còn những tỉnh lỵ và thị xã và các quận do sự lấn chiếm theo kiểu tầm ăn dâu của địch, kể từ sau ngày 19-3-1975, nếu nhìn trên bản đồ quân sự sẽ thấy ta chỉ còn kiểm soát được vào khoảng một phần ba diện tích Quân khu.

Năm 1972, Quân khu 1 đã là một chiến trường lớn, nơi diễn ra những trận đánh ác liệt đẫm máu giữa các đại đơn vị của hai miền Nam Bắc. Vì tình hình sôi động đặc biệt của vùng hỏa tuyến ngoài ba sư đoàn cơ hữu 1, 2, 3 của Quân đoàn, ta còn cho hai sư đoàn tổng trừ bị Nhẩy Dù và Thủy quân lục chiến ra trấn đóng hầu chống lại cuộc tấn công qui mô có thể xẩy ra của địch. Từ sau ngày ký hiệp định Paris quân viện cho Việt Nam Cộng Hoà bị cắt giảm từ 2 tỷ năm 1973 còn 1 tỷ 4 năm 1974 và 700 triệu năm 1975. Tình hình quân sự, chính trị ngày một đen tối, quân viện bị cắt giảm, ngày 12-3-1975 Hạ nghị viện Mỹ biểu quyết bác bỏ 300 quân viện bổ túc cho Việt Nam Cộng Hoà do Tổng thống Ford đệ trình Quốc Hội, viện trợ quân sự cũng sẽ không được chuẩn chi cho năm tới, đạn dược tiếp liệu ngày càng bi đát, hoả lực giảm 60%, chỉ còn đủ đạn đánh tới tháng 5, tháng 6 1975.

Đồng minh phản bội, trắng trợn hủy bỏ mọi cam kết với miền Nam trước ngày ký Hiệp định Paris , quân thù thừa cơ nước đục thả câu. Tình hình 1975 vô cùng bi đát, ta không được Mỹ yểm trợ B52 oanh tạc trải thảm, thiếu thốn tiếp liệu. đạn dược… trong khi quân thù đã được Cộng sản Quốc tế Nga Tầu viện trợ tối đa. Năm 1975 lực lượng chính qui của Bắc Việt gồm 4 quân đoàn và đoàn 232 (tương đương một quân đoàn), mỗi quân đoàn gồm 3 sư đoàn, tổng cộng 15 sư đoàn, ngoài ra Bắc Việt còn có khoảng 15 trung đoàn độc lập tương đương với 4, hoặc 5 sư đoàn. Toàn bộ lực lượng chính qui địch vào khoảng 20 sư đoàn, ước lượng 300 ngàn người. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1975 có hơn một triệu quân trong đó 40% là chủ lực chính qui. Lính nhà nghề chỉ có 13 sư đoàn bộ binh, hai sư đoàn tổng trừ bị Nhẩy dù và TQLC và 15 liên đoàn Biệt động quân, mỗi liên đoàn khoảng từ 1000 tới 2000 người. Ta tổ chức theo lối Mỹ, một người tác chiến, năm người yểm trợ nên trên thực tế chỉ có khoảng 200 ngàn là lính nhà nghề.nhaydukhanhduong

*****

(Chỗ này Google.tienlang thấy cần mở ngoặc: Các cụ phe bên kia thường đổ lỗi cho việc Mỹ cắt viện trợ. Xưa nay khi thảo luận về nguyên nhân thất bại của VNCH, chúng ta thường thấy các vị phe VNCH lý giải rằng vì Hoa Kỳ bỗng dưng cúp viện trợ trong khi phe cộng sản nhận được viện trợ gấp bội từ Liên Xô và Trung Quốc. Sự thật là từ 1972, sau khi tổng thống Mỹ Nixon thăm Trung Quốc và bắt tay Mao, Trung Quốc đã bắt đầu cắt giảm viện trợ. Trong khi ngụy vẫn nhận đầy đủ cho đến năm 1974 mới bị cắt từ 1,2 tỉ USD xuống còn 700 triệu USD (cho tài khóa 1975).

Và đây, chính báo giới Mỹ “tiết lộ” một sự thật trần trụi…
“Congress did not "cut off all aid to South Vietnam," as Kissinger falsely claims. On the contrary. Congress in August 1974 only reduced military aid to Thieu from $1.2 billion to $700 million.

The $700 million in military aid voted by Congress "is apparently running at twice that of Chinese and Soviet military aid to North Vietnam," according to the New York Times on March 27, 1975. The CIA estimated that U.S. military aid of $1.7 billion to Thieu in 1974 was four times the $400 million it estimated the North Vietnamese received from the Soviet Union and China. All told, official figures show the U.S. spent $141 billion in Vietnam from 1961-‘75, compared with $7.5-$8 billion in Soviet and Chinese aid to North Vietnam during the same period (Congressional Record, May 14, 1975).”


Dịch:
Quốc hội không hề "cắt đứt mọi viện trợ cho miền Nam Việt Nam", như phát biểu sai sự thật của ông Kissinger. Vào tháng 8 năm 1974 Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua ngân sách viện trợ cho tài khóa năm 1975 và chỉ giảm viện trợ quân sự cho ông Thiệu từ $ 1.200.000.000 xuống còn $700.000.000.

Số tiền 700 triệu USD viện trợ quân sự này 'cao gấp hai lần viện trợ của Trung Quốc và Liên Xô cộng lại cho miền Bắc' theo New York Times tháng 3, 1975.  CIA ước tính con số 1,7 tỉ USD viện trợ quân sự Mỹ trong năm 1974 là gấp bốn lần 400 triệu USD mà miền Bắc nhận được từ Liên Xô và Trung Quốc trong cùng năm đó.  Được biết, Mỹ tiêu khoảng 141 tỉ ở Việt Nam từ 1961-1975, trong khi miền Bắc chỉ nhận được khoảng 7,5 đến 8 tỉ USD viện trợ từ phía LX-TQ trong cùng thời gian (theo kỷ lục của Quốc hội Mỹ, 14 tháng 5, 1975, trang 14262).”
*****

Cuối năm 1974 tình hình chiến sự ở Quân khu 1 yên lặng được một thời gian, quân ta đẩy lui cuộc tấn công của địch vào đồng bằng tây nam Đà Nẵng, địch có lợi thế về địa hình, vì gần hậu cần miền Bắc chúng được bổ sung quân số và tiếp liệu thuận lợi. Từ tháng 6 cho tới cuối năm 1974 các lực lượng Quân đoàn 1 của ta bị tổn thất trong các trận giao tranh không được bổ sung nên quân số thiếu hụt. Quân khu 1 được chia làm hai khu Bắc và Nam, Bắc gồm hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên dưới quyền Bộ Tư lệnh tiền phương do Trung tướng Lâm Quang Thi chỉ huy, ba tỉnh còn lại Quảng Nam Quảng Tín, Quảng Ngãi do Tư lệnh Quân đoàn Ngô Quang Trưởng (hình phải) trực tiếp chỉ huy.

Bố trí lực lượng của ta gồm sư đoàn Nhẩy Dù vàTQLC, Lữ đoàn 1 Thiết kỵ từ bắc Thừa Thiên lên tới nam sông Thạch Hãn, lực lượng cơ hữu của Quân khu và các liên đoàn Biệt động quân bảo vệ các tỉnh còn lại: Sư đoàn 1 và liên đoàn 15 Biệt động quân đóng tại Thừa Thiên, sư đoàn 3 và liên đoàn 14 Biệt động quân đóng tại Đà Nẵng, Quảng Nam, sư đoàn 2 và hai liên đoàn Biệt động quân 11, 12 bảo vệ Quảng Tín, Quảng Ngãi. Các đơn vị yểm trợ gồm trên 10 tiểu đoàn pháo binh, một tiểu đoàn phòng không, một lữ đoàn thiết kỵ. Hải quân gồm các giang đoàn xung phong, trục lôi, tuần thám tại Thuận An, các duyên đoàn tại Cửa Việt, tại Thuận An, Tư Hiền… sư đoàn 1 Không quân đóng tại Đà Nẵng. Quân số của Quân đoàn vào khoảng 90 ngàn chủ lực và 75 ngàn địa phương quân, nghĩa quân, trong số này nhiều người thuộc thành phần không tác chiến.

Lực lượng Cộng sản tại Quân khu 1 chia hai địa bàn hoạt động lấy đèo Hải Vân làm ranh giới do các Tướng Lê Tư Đồng, Nguyễn Hữu An, Chu Huy Mân chỉ huy. Theo Nguyễn Đức Phương tại đây Bắc việt có 7 sư đoàn (324B, 325, 320B, 312, 304, 711, 2) và 4 trung đoàn độc lập tổng cộng vào khoảng 8 sư đoàn. Theo Đại Tướng Cao Văn Viên, Cộng sản Bắc Việt tại đây có 5 sư đoàn (341, 325C, 324B, 304, 711), 10 trung đoàn độc lập (52, 4, 5, 6, 27, 31, 48, 51, 270, 271), 3 trung đoàn đặc công (5, 45, 126), toàn bộ vào khoảng 8 hoặc 9 sư đoàn, ngoài ra lực lượng cơ giới yểm trợ gồm 3 trung đoàn xe tăng, 12 trung đoàn phòng không, 8 trung đoàn pháo binh. Tổng cộng vào khoảng 71 ngàn người, đa số là lính tác chiến. Bắc Việt có ưu thế hơn ta về và vũ khí đạn dược, lực lượng coi như gấp hai rưỡi ta.

Trong khi mở chiến dịch Ban Mê Thuột, Việt Cộng tại Quân khu 1 cũng xâm nhập đánh phá các nơi để cầm chân ta như tại Quảng Trị địch chiếm quận Hải Lăng bắc Thừa Thiên, xâm nhập các xã ven biển Thừa Thiên, phía nam đánh các cao điểm của sư đoàn 1, tấn công tuyến sông Bồ nhưng bị đẩy lui bỏ lại 200 xác chết, tại Quảng Tín Việt Cộng chiếm 2 quận Tiên phước, Hậu Đức ngày 10-3 bắn phá tỉnh lỵ Tam Kỳ…

*****

Google.tienlang bình luận: Quân Giải phóng đã có nước đi quá thần kỳ: Xe tăng ầm ầm lao tới, ngay từ 24/3/1975 đã giải phóng thị xã Tam Kỳ, thị xã Quảng Ngãi, cắt đứt đường rút quân của những "người anh em" phía bên kia...

Quân Giải phóng tiến vào huyện lỵ Sơn Tịnh (Quảng Ngãi) và ngày 24/3/1975 giải phóng thị xã Tam Kỳ, thị xã Quảng Ngãi

*****

Ngày 11-3 Tổng thống Thiệu Triệu tập phiên họp tại Dinh Độc Lập cho biết trước tình hình hình khó khăn do quân viện bị cắt giảm, áp lực địch mạnh, ta chỉ có thể giữ được Quân khu 3, Quân 4 và một vài tỉnh duyên hải vùng 2, vùng Một chỉ giữ Huế và Đà Nẵng. Trong lúc tình hình quân sự có vẻ không thuận lợi cho ta thì theo yêu cầu của của Ông Thiệu, Bộ Tổng tham mưu lệnh cho Tướng Trưởng trả sư đoàn Nhẩy Dù về Trung ương. Ngày 13-3 Tổng Thống Thiệu lệnh cho Tướng Trưởng về Sài Gòn họp Hội Đồng an ninh Quốc gia, thành phần gồm Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn. Ông Thiệu cho biết tình hình khó khăn do cắt giảm quân viện, ông không tin Mỹ sẽ can thiệp dù Cộng Sản tấn công miền Nam nên phải tái phối trí lực lượng, rút quân bỏ những miền rừng núi đễ giữ những vùng mầu mỡ còn hơn đứng chung chính phủ Liên Hiệp với Cộng Sản.1_04

Ngày 14-3 Tướng Trưởng về Quân đoàn 1 họp tham mưu, thảo luận kế hoạch tái phối trí, Nhẩy Dù sẽ rút về Sài Gòn, hôm sau liên đoàn 14 Biệt động quân nhận vùng trách nhiệm của Lữ đoàn Thủy quân lục chiến 369 tại Quảng Trị để lữ đoàn này về Phú Lộc thay Lữ đoàn Dù, một lữ đoàn TQLC sẽ chịu trách nhiệm khu vực sông Bồ để bảo vệ Huế.

Ngày 17-3 Lữ đoàn 258 TQLC sẽ rời Quảng Trị để về Đà Nẵng thay lữ đoàn Dù. Dân chúng sợ hãi đã di tản ồ ạt trên quốc lộï Một từ mấy ngày nay làm cản trở việc điều quân tái phối trí.

Ngày 18-3 Thủ tướng Khiêm ra Đà Nẵng để giải quyết vấn đề dân tỵ nạn, ông cho Tướng Trưởng biết sẽ không tăng viện Quân khu 1 vì tình hình Quân khu 3 nghiêm trọng, Việt Cộng đánh Dầu Tiếng, áp lực Tây Ninh, Long Khánh, Bình Tuy..

Ngày 19-3 Tướng Trưởng được triệu về Sài Gòn họp lần thứ hai, thành phần phiên họp cũng như lần trước nhưng có thêm Phó tổng thống Trần Văn Hương. Tướng Trưởng trình bầy hai kế hoạch lui binh:

Kế hoạch Một: các đơn vị sẽ theo Quốc Lộ Một từ Huế Chu lai về Đà Nẵng, trong trường hợp Quốc lộ Một bị cắt thì sẽ theo kế hoạch Hai.

Kế hoạch Hai: Các lực lượng Quân đoàn sẽ tập trung tại ba cứ điểm Huế, Đà Nẵng và Chu Lai, tầu hải quân sẽ chuyên chở lính từ Huế Chu Lai về Đà nẵng. Trong cả hai kế hoạch Đà Nẵng vẫn là điểm tựa cuối cùng, Trưởng đề nghị giữ cả ba cứ điểm để phân tán lực lượng địch và gây tổn thất tối đa cho Việt Cộng, Thiệu cho biết giữ được bao nhiêu hay bấy nhiêu.

Ông Cao Văn Viên cho rằng kế hoạch của Tướng Trưởng là hợp lý.

Kế hoạch lui quân của Quân đoàn 1 soạn thảo rất hợp lý và đầy đủ, gồm kế hoạch dự phòng để đối phó với những bất ngờ do địch gây ra. Khi trận chiến khai diễn như Kế Hoạch Hai dự trù và các đơn vị của Quân đoàn 1 rút hết về Đà Nẵng, chúng ta chỉ còn hai hành động phải làm: Cố thủ tại chỗ hoặc rút bằng đường biển nếu tình thế bắt buộc. Như vậy vào thời điểm trên, đâu còn cần đến kế hoạch dự phòng nào khác”

Thật ra kế hoạch nghe thì hay nhưng thực hiện được không phải là chuyện dễ. Tướng Thiệu lệnh cho Trưởng cố gắng giữ được tất cả những phần đất có trong tay sau đó ông lệnh cho Tướng Quang soạn bài hiệu triệu trên đài phát thanh Huế để trấn an dân chúng, quyết bảo vệ Huế đến cùng. Buổi họp này không thấy nói đến triệt thoái mà chỉ là kế hoạch co cụm để giữ đất.

Ngày 19-3 Quảng Trị bỏ ngỏ, chi đoàn Thiết giáp, liên đoàn 14 Biệt động quân rút về bên này Mỹ chánh lập phòng tuyến mới. Cộng quân bắt đầu tấn công mạnh vào Quân khu. Theo Tướng Hoàng Lạc, Giám mục Phạm Ngọc Chi địa phận Đà Nẵng và Giám mục Nguyễn Kim Điền khuyên không nên đổ máu vô ích vì các siêu cường đã sắp đặt cả rồi.

Sáng 20-3 Tướng Trưởng bay ra bộ chỉ huy tiền phương họp các cấp chỉ huy bàn kế hoạch phòng thủ Huế như Tổng thống ra lệnh phải giữ bằng mọi giá. Tình hình mặt trận tương đối chưa đến nỗi tệ, các đơn vị còn hoàn hảo, tinh thần cao duy trì được kỷ luật, ai nấy đồng lòng tử thủ, dân chúng di tản nhiều. Tưởng Trưởng lạc quan khi thấy Huế phòng thủ tốt. Trưa hôm đó Thiệu đọc hiệu triệu dân trên đài phát thanh Huế. Đến chiều khi về tới Đà Nẵng Tướng Trưởng nhận được lệnh của của dinh Độc Lập chỉ giữ Đà Nẵng thôi nếu tình hình bó buộc, Tướng Thiệu lý luận Quân đoàn không đủ lính để bảo vệ cả ba cứ điểm Chu lai, Huế và Đà Nẵng. Tướng Trưởng được quyền tuỳ cơ ứng biến.

Quân khu 1 ngày một nguy ngập, Cộng quân đã bắt đấu tấn công mạnh, chúng đánh theo thế gọng kìm từ trên Quảng Trị đánh xuống và từ dưới Quảng Ngãi đánh lên, dân chúng chạy loạn ồ ạt từ Huế kéo về Đà Nẵng, từ Quảng Nam Quảng Ngãi kéo lên. Ngày 21-3 Việt cộng tấn công Phú Lộc, áp lực mạnh trên Quốc lộ Một, dân tản cư đông như kiến từ Huế về Đà nẵng. Sư đoàn 1 VNCH có pháo binh và không quân yểm trợ đẩy lui cuộc tấn công của Việt Cộng nhưng địch có ưu thế về lực lượng nên sư đoàn 1 cầm cự đến trưa ngày 22 thì thất thủ, trung đoàn 1, liên đoàn 15 Biệt động quân bị đẩy lui, một khúc đường Quốc lộ Một bị cô lập, trung đoàn 1 thuộc sư đoàn 1 bị thiệt hại nặng, Tướng Trưởng ra lệnh thu gọn tuyến phòng thủ Huế.

Dân chúng và quân cụ bắt đầu được chở bằng tầu ra khỏi Đà Nẵng, ngày 23 -3 Việt Cộng pháo kích Huế rời rạc không gây thiệt hại gì nhiều nhưng khiến dân chúng hốt hoảng náo động như hỗn loạn. Tại phía nam vùng Một quận Hậu Đức, Tiên Phước thuộc Quảng Tín bị Việt cộng chiếm, sư đoàn 2 và liên đoàn 12 Biệt động quân chặn được áp lực địch tấn công về Tam Kỳ và các vùng duyên hải. Trước áp lực dồn dập của Việt Cộng Tướng Trưởng ra lệnh di tản 2 quận Sơn Trà, Trà Bồng Quảng Ngãi, những tiền đồn xa tiếp tế cũng được di tản, Tướng Trưởng cho gom các lực lượïng rời rạc lại để bảo vệ những điểm trọng yếu vào trận cuối cùng. Sự chỉnh đốn của Tướng Trưởng đem lại chút yên gượng gạo cho 2 tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Tín trong 2 ngày.crasha-1e-danangabrvn-19661

Lực lượng phòng thủ của ta ngày một yếu trước áp lực địch., ngày 24-3 tại phía nam Quân khu 1, Việt Cộng tấn công mạnh tại Quảng Tín , sư đoàn 711, trung đoàn 52 và xe tăng đánh Tam kỳ, đặc công đột nhập tỉnh lỵ thả tù gây rối loạn đến trưa thì Tam Kỳ thất thủ. Trung đoàn 2 thuộc sư đoàn 3 từ Quảng Nam được lệnh tiến về Quảng Tín để giúp địa phương quân chạy về từ Tam Kỳ về… Tam Kỳ mất, dân ùn ùn chạy về Đà Nẵng. Tại Quảng Ngãi Cộng quân tấn công gấp rút dữ dội, đặc công và địa phương quân Việt Cộng tại Quảng Ngãi tấn công phi trường, các cơ sở hành chánh quân sự Quảng Ngãi, đường Quốc lộ Một từ Quảng Ngãi tới Chu lai bị cắt đứt, đường ra biển bị cô lập, chỉ trong một ngày tình hình Quân khu 1 rối loạn đến mức không còn kiểm soát được nữa. Quân đoàn chấp thuận cho tiểu khu Quảng Ngãi mở đường máu về Chu Lai nhưng chỉ có vài đơn vị về được.

Ngày 25-3 tất cả các đơn vị quân đoàn 1 tụ lại 3 phòng tuyến chính: Nam Chu Lai, Đà Nẵng và Bắc Huế, các lực lượng của Quân đoàn bị thiệt hại nhiều khi di tản về các phòng tuyến này, tinh thần binh sĩ xuống thấp, ai nấy chán nản chưa bao giờ trong đời chinh chiến họ thấy tuyệt vọng như hiện nay. Trong tình thế khó khăn Trưởng lại nhận thêm một lệnh nữa từ dinh Độc Lập, Tướng Thiệu lệnh cho Trưởng dùng ba sư đoàn cơ hữu của Quân đoàn 1, 2, 3 để phòng thủ Đà Nẵng, sư đoàn TQLC đóng vai trừ bị. Đêm đó Tướng Trưởng cho sư đoàn 1 và các đơn vị quanh Huế rút về Đà Nẵng, ông lệnh cho sư đoàn 2 chi khu Quảng Ngãi và thân nhân của họ ra Cù Lao Ré, một đảo ngoài khơi Chu lai. Hai tầu dương vận hạm đón sư đoàn 2 tại Chu lai đưa về Cù Lao Ré, cuộc vận chuyển thành công hơn mặc dù có hỗn loạn nhưng một nửa quân số của sư đoàn 2 đã lên tầu đưa về Bình Tuy, chính phủ tuyên bố Huế và Chu lai thất thủ ngày 25-3.

Các lực lượng Huế bắt đầu di tản, sư đoàn 1 và các đơn vị cơ hữu rút ra cửa Tư Hiền. Hải quân và công binh sẽ bắc cầu để quân di tản đi ngược vào đất liền rồi dùng đường bộ về Đà Nẵng, Chu Lai. Sáng ngày 26-3 biển sóng to làm đình trệ cuộc vận chuyển, cầu chưa hoàn tất đến trưa thủy triều dâng cao không thể vượt biển được trong khi ấy Việt Cộng đuổi theo nã pháo vào cửa Tư Hiền và các địa điểm tập trung quân của ta, hỗn loạn diễn ra không còn quân kỷ, sư đoàn 1 tan rã tại đây chỉ có một phần ba về được đến Đà nẵng, tới nơi họ rã ngũ đi tìm thân nhân.89-image_large1

Trong khi đó thì lữ đoàn kỵ binh với hơn 100 thiết giáp các loại từ mặt trận Bắc Huế tiến về cửa Thuận An, theo sau là các đơn vị pháo binh với hằng trăm khẩu pháo, TQLC, BĐQ, ĐPQ từ tuyến sông Bồ đang lũ lượt kéo về, hỗn loạn diễn ra dữ dội. Hai tầu dương vận hạm đến cửa Thuận An để chở TQLC, tầu hải vận đĩnh và quân vận đĩnh chở người từ bờ ra dương vận hạm, hỗn loạn ngày càng dữ hơn, giết chóc nhau dã man để giành chỗ trên tầu. Cộng quân pháo kích vào địa điểm tập trung quân gây thiệt hại nặng nề cho ta, nhiều lính TQLC tự tử tập thể vì cùng đường tuyệt vọng, cuộc tập trung quân tại cửa Tư Hiền và Thuận An đã làm mồi cho pháo binh địch.

Sư đoàn 324 CS càn quét tàn quân VNCH tại Thừa Thiên, sư đoàn 325 CS chuyển vào Quảng Nam phối hợp với sư đoàn 304 CS tấn công Đà Nẵng sư đoàn 2 VC cũng tiến về thành phố. Quân đội VNCH lập phòng tuyến phòng thủ bảo vệ Đà Nẵng, phía tây 2 lữ đoàn TQLC, phía nam sư đoàn 3 và địa phương quân Quảng Nam. Ngày 27-3 Các cuộc phòng thủ Đà Nẵng thành ra vô hiệu trước sự hỗn loạn, Việt cộng dồn nỗ lực bao vây thành phố. Từ bắc Đà Nẵng hai sư đoàn 324B và 325C cùng với trung đoàn xe tăng và hai trung đoàn pháo tiến dọc theo thung lũng Voi bao vây thành phố, phía Nam sư đoàn 711, 304 tiến chiếm Đại Lộc và Dục Đức, Đà Nẵng đã nằm trong tầm pháo của quân thù. Tại thành phố lớn thứ hai của miền nam này Quân đoàn 1 chỉ còn có sư đoàn 3 và 2 lữ đoàn TQLC, các sư đoàn 1 và 2 đã bị ngũ trên đường triệt thoái, một phần đã được tầu chở ra khơi, lực lượng không đủ để đương đầu với áp lực quá đông của địch, lại nữa thành phồ với hằng triệu người tỵ nạn đã trở nên hỗn loạn không thể nào kiểm soát nổi.

Sáng ngày 28 Tướng Trưởng họp khẩn cấp các đơn vị trưởng ban hành một số biện pháp vãn hồi trật tự và tái trang bị các đơn vị di tản trong thành phố nhưng ta không còn đủ quân tác chiến để thực hiện kế hoạch này. Các quân nhân có mặt được sung vào các đơn vị tác chiến nhưng không đủ để bù vào thiệt hại do cuộc triệt thoái gây ra. Trưa 28 phòng 2 thuộc Bộ TTM cho Quân đoàn biết Cộng quân có thể tấn công trong đêm, sư đoàn 1 không quân được lệnh di tản về Phù Cát, Phan Rang, Quân đoàn 1 ban lệnh ứng chiến tại các tuyến phòng thủ. Hai giờ trưa các xã ấp quanh Đà Nẵng đã lọt vào tay Cộng quân. Địa phương quân, nghĩa quân tan rã, binh sĩ rã ngũ rời đơn vị.arvn_soldiers

Việt Cộng pháo phi trường căn cứ Hải quân khi trời vừa tối rất dữ dội và chính xác nhờ những toán đặc công, tiền pháo viên chỉ điểm hướng dẫn. Tướng Trưởng vội báo cáo về Bộ Tổng tham mưu và gọi cho Tổng thống Thiệu xin di tản bằng đường biển. Tướng Thiệu không ra lệnh rõ ràng chỉ hỏi vu vơ nếu di tản thì có thể được bao nhiêu trong khi ấy có biết bao người đang chết chìm chết bắn vì trọng pháo của địch cũng như bắn giết nhau giành đường tẩu thoát. Pháo kích của địch khiến cho liên lạc giữa Sài Gòn và Đà Nẵng bị cắt đứt, Tướng Trưởng lập tức ra lệnh bỏ Đà Nẵng, ông họp với Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư lệnh Hải quân vùng 1 và các cấp chỉ huy để hẹn địa điểm rút quân tại: chân đèo Hải Vân, núi Non Nước và cửa khẩu Hội An.

Rạng sáng ngày 29-3 sương mù bao phủ dọc theo bờ biển, ngoài khơi tầu đã có mặt ở điểm hẹn, thủy triều thấp tầu không vào bờ được, binh sĩ phải lội ra biển. Cuộc di tản êm xuôi cho đến khi khi Việt Cộng phát hiện chúng bèn pháo kích vào địa điểm tập trung quân và tầu ngoài khơi gây nhiều thiệt hại cho ta, tầu di tản được 6000 TQLC, 3000 lính sư đoàn 3 và nhiều đơn vị khác.

Đà Nẵng được coi như thất thủ ngày 29-3-1975, Tướng Việt Cộng Lê Tư Đồng cho biết đã bắt được gần 60 ngàn tù binh VNCH, 14 ngàn công chức tịch thu 1000 quân xa, khoảng 300 đại bác. Có tài liệu cho biết ta mất 130 máy bay tại Đà Nẵng, năm 1976 Tướng Trưởng trả lời một cuộc phỏng vấn cho biết khoảng 6000 TQLC, non nửa lực lượng của sư đoàn và 4000 quân thuộc các binh chủng khác đã được tầu bè cứu thoát. Tướng Nguyễn Duy Hinh Tư lệnh sư đoàn 3 cho biết trong số 12,000 người của sư đoàn 3 chỉ có 5000 đến được điểm tập trung và sau cùng chỉ có 1000 người lên được tầu. Tổng cộng có 70 ngàn người dân được cứu thoát và 16 ngàn quân, 4 sư đoàn kể cả TQLC bị thiệt hại nặng nề không thể gọi là đơn vị chiến đấu được nữa. Tất cả quân trang quân dụng, vũ khí, xe tăng đại bác… của Quân khu coi như mất hết, một phần lớn lọt vào tay quân thù.

Quân khu 1 rơi vào tay quân thù một cách dễ dàng trong khoảng 10 ngày, không có lực lượng nào được tổ chức để đánh chận hậu, đánh trì hoãn khi Quân đoàn di tản. Cuộc lui binh thất bại hoàn toàn được coi như quá tồi tệ so với Quân đoàn 2, hỗn loạn ghê gớm gấp bội phần, sự thiệt hại về nhân mạng cao hơn cuộc triệt thoái tại Tây nguyên rất nhiều. Phạm Huấn nói

Tại những địa điểm tập trung quân, vô cùng hỗn loạn, đau thương khủng khiếp. Và hai Cửa Thuận An, Tư Hiền thật sự biến thành những”bãi chết”, trong vùng “Biển máu”

Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975 trang 58.

Triệt thoái quá vội vã, không có kế hoạch, lịch trình nào cả, sự phối hợp Quân đoàn và Hải quân lỏng lẻo, cuộc lui binh cũng chỉ là cuộc tháo chạy hỗn độn vô tổ chức y như cuộc triệt thoái Cao nguyên, bắn giết nhau, tranh cướp nhau lên tầu chạy trốn, đó cũng chỉ là một cuộc hành quân phá sản.

Cuộc rút quân đã rối loạn, hỗn độn và thất bại ngay khi bước sang ngày thứ hai, 24-3-1975. Hệ thống chỉ huy, phối hợp giữa các đơn vị, vấn đề an ninh, tổ chức thật tồi tệ và bị tê liệt từ lúc khởi đầu. Các cấp chỉ huy ở những cấp cao nhất và có trách nhiệm về cuộc rút bỏ Huế, đã không thành thật với nhau, phản bội, dối trá và bỏ rơi cấp dưới.

Kế hoạch rút quân bằng đường biển, với hơn 20 ngàn Chủ lực quân, hàng mấy trăm chiến xa, đại bác, cùng với cả trăm ngàn dân chúng, các lực lượng địa phương quân, công chức và gia đình họ, nhưng hai cửa Thuận An và Tư Hiền không được phòng thủ bảo vệ. Sự phối hợp và chỉ huy giữa Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Đoàn và hải quân thật lỏng lẻo. Không có lịch trình lên tầu ưu tiên, rõ ràng cho các đơn vị. Các đơn vị Quân Đội và dân chúng cứ tiếp tục đổ về hai cửa biển này để rồi chết chồng chất lên nhau”

Phạm Huấn NUHTTCMN 1975, trang 57

Vấn đề đặt ra ở đây là ai chịu trách nhiệm về những cái chết oan uổng của hằng nghìn, vạn người tại cửa Thuận An, cửa Tư Hiền trước những trận pháo kinh hoàng của địch? Hậu quả của cuộc lui binh vội vã hay nói khác đi cuộc tháo chạy hỗn độn vô tổ chức đã đẩy bao nhiêu quân, dân vào chỗ chết, đã đưa hằng hà sa số người tập trung tại hai cửa biển để làm mồi cho họng súng đại bác của quân thù.

Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng Tư Lệnh, ngày 21 tháng 3, từ ba hướng bắc, tây và nam, các lực lượng Quân khu Trị Thiên và Quân khu 2 đồng loạt tiến công vượt qua các tuyến phòng thủ của địch hình thành nhiều mũi bao vây Huế, đánh thiệt hại nặng sư đoàn 1 bộ binh ngụy, lữ 147 thuỷ quân lục chiến nguỵ, cắt đứt Huế và Đà Nẵng trên đoạn đường số 1 ở Mũi Né – Bái Sơn …. địch chỉ còn một lối thoát là rút chạy ra biển theo cửa Thuận An và cửa Tư Hiền. Con đường Huế – Thuận An là niềm hy vọng cuối cùng của chúng, nhưng thực tế đã biến thành con đường chết đối với chúng.

Nắm vững ý đồ muốn tẩu thoát của địch, pháo ta một mặt khống chế chặt của Thuận An và không cho tầu địch vào đón bọn rút lui, mặt khác bắn vào trung tâm của đội hình dày đặc của địch còn ở lại ở cửa Thuận An và cửa Tư Hiền làm cho chúng thiệt hại nặng nề. Bộ đội đặc công cũng đặt mìn phong toả cửa Thuận An. Xe tăng, xe bọc thép, xe vận tải và hàng chục nghìn lính địch kéo đi kín đường bị pháo ta bắn, đạp lên nhau mà chạy…

Ngày 25 tháng 3, các cánh quân của ta đã kịp hợp vây tiêu diệt và làm tan rã quân địch rút lui còn lại ở cửa Thuận An và cửa Tư Hiền”.

Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân trang 107, 108

Cuộc lui binh tại Huế cũng như tại Cao nguyên đã đi vào vết xe đổ của trận Cao Bắc Lạng ngày tháng 10 năm 1949 khiến cho binh đoàn Charton của Pháp bị Việt Minh đánh tan rã nhưng về kế hoạch thì phải nói cuộc lui binh của ta tồi tệ hơn hồi ấy. Hoàn toàn không có trận đánh trì hoãn nào, không có một lực lượng chận hậu nào để cầm chân địch cho đoàn quân triệt thoái, hậu quả như ta đã thấy là cả một đạo quân tinh nhuệ đã bị dồn vào họng súng của quân thù.

Nói về nguyên nhân sự sụp đổ nhanh chóng của Quân đoàn, Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng cho rằng do sự rối ren của ta và nhất là lệnh của Tướng Thiệu không rõ ràng dứt khoát.

Với cán cân lực lượng và địa hình thuận lợi cho CSBV, Vùng I, lực lượng VNCH không thể nào chống cự lâu dài trong cuộc tổng tấn công của địch. Nhưng phải nói, tình hình quân sự xấu đi một cách nhanh chóng vì sự xa sút tinh thần và những rối ren, lung túng của ta, hơn là áp lực địch. Lệnh tái phối trí – tuy cần thiết – không rõ ràng và dứt khoát”

Tuyến Đầu Vùng Một Thất Thủ.

Theo Tướng Viên binh sĩ nhiều người bỏ hàng ngũ đi tìm gia đình trong làn sóng người tỵ nạn, họ quan tâm lo lắng về gia đình mình hơn là lo về đơn vị và sự tấn công của Việt Cộng, theo ông vì làn sóng người di tản làm náo loạn cả lên đã là nguyên nhân gây ra sụp đổ nhanh chóng cho cả Quân khu.

Sự hỗn loạn, thất bại của cuộc tái phối trí ở vùng Một xảy ra không phải vì áp lực của Cộng quân, mà vì tinh thần chiến đấu của quân ta không còn nữa. Trong những ngày cuối cùng ở Vùng I, vị tư lệnh Quân đoàn không chỉ đối phó với những khó khăn về quân sự, ông còn bận tâm với vấn đề tỵ nạn. Và khi chánh quyền trung ương bắt tay vào giải quyết vấn đề tỵ nạn thì đã quá trễ. Như chúng ta thấy, vấn đề tị nạn làm đảo lộn tất cả kế hoạch quân sự của Vùng I.”

Cao Văn Viên. TĐVMTT.

Ông Nguyễn Đức Phương cho rằng Quân khu 1 thất thủ dễ dàng không có một lực lượng nào được tổ chức để đánh trì hoãn khi lui binh, theo ông có 4 nguyên nhân chính.

Lực lượng Cộng Sản tại Quân khu 1 trội hơn nhiều so với sự phân tán mỏng của ta. Kế họach lui binh về các cứ điểm Huế, Đà Nẵng, Chu Lai có thể đúng tuy nhiên Tổng thống Thiệu chỉ chấp nhận lui binh cho đến giờ phút chót, đến khi đã quá muộn ông lệnh cho Tướng Trưởng chỉ rút sư đoàn TQLC còn tất cả bộ binh, thiết giáp, pháo binh đều bỏ lại, không có một kế hoạch nào để phối hợp hải lục không quân trong trường hợp lui binh, hoàn toàn không có một sư tiên liệu nào.

Tướng Thiệu sai lầm trầm trọng khi cho rút sư đoàn Dù về Vùng 3 quá nhanh, TQLC được đưa vào tay thế các vị trí của Nhẩy Dù khiến cho dân chúng hốt hoảng đổ dồn về Đà nẵng gây ra hỗn loạn. Đã phát thanh lời kêu gọi tử thủ Huế củaTổng thống sau lại cho lệnh bỏ Huế khiến dân chúng hoang mang mất tin tưởng vào chính phủ và quân đội, binh sĩ cũng mất tinh thần, hốt hoảng khi trông thấy trước nguy cơ sụp đổ như đã diễn ra tại Vùng 2.

Chiến tranh tâm lý có lẽ là nguyên nhân quyết định sự thất thủ Quân khu 1, tin đồn cắt đất nhường cho CS dồn dập từ Vùng 2, nay Huế bỏ ngỏ khiến cho dân quân càng tin là đúng, dân di tản náo loạn cả lên, quân nhân bỏ hàng ngũ để tìm kiếm gia đình khiến cho đơn vị rã ngũ rất nhanh.

Hệ thống chỉ huy của Bộ Tư lệïnh Quân đoàn 1 đã không chu toàn trách nhiệm trong giai đoạn khó khăn của cuộc lui binh, thiếu khả năng vô trách nhiệm là nguyên nhân chính khiến cho kế hoạch lui binh không thể thực hiện được. Vị Tư lệnh quân đoàn thiếu khả năng điều động một bộ tham mưu hỗn hợp như Phạm Huấn đã viết.

Các sĩ quan cao cấp của Quân đoàn 1 lại chính là những người đầu tiên bỏ chạy trước, thiếu cấp chỉ huy các đơn vị lần lượt tan hàng, Việt Cộng chiếm được đất mà không phải giao tranh.

Ký giả chiến trường Phạm Huấn nhận định rằng các Tướng Việt Nam gặp trở ngại khi lãnh đạo đất nước cũng như chỉ huy mặt trận.

Một viên chức cao cấp của Mỹ, sau này đã phát biểu về cuộc rút quân tại Huế và Đà Nẵng:

Tướng lãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, hầu như không ai có đủ kinh nghiệm, để tự mình có thể chỉ huy một cuộc hành quân qui mô với nhiều đại đơn vị trên chiến trường!’.

Sự sụp đổ mau chóng của Quân Đoàn I, vỏn vẹn trong 9 ngày, sau quyết định rút bỏ Huế lần thứ hai ngày 20-3-1975, đã làm kinh ngạc mọi giới. Những người ngưỡng mộ và kính phục Tướng Ngô Quang Trưởng đều nghĩ rằng, sự thảm bại này là hậu quả của quyết định sai lầm, trong chiến lược “Đầu bé Đít to’ của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.

Nhưng theo thời gian, những bí mật được tiết lộ, Tướng Trưởng cũng là người phải chịu trách nhiệm nặng nề nhất đối với những đau thương, kinh hoàng trong hai cuộc rút quân tồi tệ, thê thảm từ Huế và Đà Nẵng”

NUHTCTMN trang 103, 104.

Cuộc triệt thoái tại hai quân khu đều đã xẩy ra những biểu hiện tiêu cực của nhiều sĩ quan cao cấp bỏ đơn vị chạy tháo thân, cả một quân khu khu không có ai chịu trách nhiệm.

Kể từ ngày 15-3-1975, hệï thống chỉ huy tại Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I của Tướng Lâm Quang Thi và các Tư Lệnh Mặt trận 2 chiến trường Quảng Trị, Thừa Thiên đã không còn giữ đúng với trách nhiệm, quyền hành và vai trò của mình nữa. Không một Tướng Lãnh, một giới chức Quân sự cao cấp nào dám nhận trách nhiệm khi cần ban hành những quyết định quan trọng. Trung tá Đào Trọng Vượng, Liên Đoàn Trường Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân nói rằng: ‘Họ lặn hết. Tất cả những lệnh đều do các Sỹ quan Phòng Nhì, Phòng ba, cấp Thiếu Tá chuyển lại’.

Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân từ Quảng Ngãi ra thay thế Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến, phòng thủ tuyến đầu Vùng Giới Tuyến. Lực lượng Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân với quân số 100 phần trăm, và Pháo Đội đại bác 105 ly khoảng 1500 người, từ ngày đầu tiên, cho đến ngày rút quân 23-3-1975, gần hai tuần lễ, không nhận được bất cứ một lệnh chính thức nào của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I, hoặc Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến”

Phạm Huấn NUHTTCMN trang 41.

Nguyễn Đức Phương cùng một nhận xét như trên.

Theo lời của Đại tá Nguyễn Huy Lợi thuộc Biệt Khu Thủ đô thì một số sĩ quan thuộc Quân đoàn I chạy thoát được về Sài Gòn cho biết tình trạng của quân đoàn như sau ‘Cấp tiểu đoàn không biết họ phải làm gì. Trung đoàn trưởng của họ đã đi mất và chính họ không biết phải đi đâu và không ai chỉ thị cho họ biết những gì phải làm. Sau quá nhiều chán nản tuyệt vọng, không một ai chịu trách nhiệm cho cả quân khu”

Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 764, 765.

Tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng cho rằng việc cấp chỉ huy bỏ đơn vị chạy trước là một nguyên nhân đưa tới sụp đổ quân đoàn, theo ông tại đây cấp chỉ huy không quân nhiều người đã lên trực thăng bay về phía nam bỏ cấp dưới ở lại.

Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, người đóng vai chính tại chiến trường Hoả tuyến có viết sách về cuộc chiến Mùa hè đỏ lửa 1972 nhưng không thấy, không nghe nói ông viết sách về sự sụp đổ Quân đoàn 1 năm 1975. Về Quân đoàn 1 trong trận chiến mất nước này chỉ thấy ghi lại trong một bài ngắn “Tại Sao Tôi Bỏ Quân Đoàn Một” đã đăng trên nhiều báo và internet từ nhiều năm qua nhưng bài này không phải do chính Tướng Trưởng viết ra mà do một người khác ghi lại lời thuật của ông nên cũng không thể coi đó là hoàn toàn ý kiến của ông.

Nội dung bài viết có nhiều điểm trái ngược với các tài liệu, sách vở nói về cuộc Triệt thoái này. Mở đầu bài viết nói.

Ngày 13 tháng 3 năm 1975, được lệnh vào Sài Gòn họp. Tôi vào đến Sài Gòn nhưng với sự ngạc nhiên là chỉ có mình tôi vào gặp Tổng thống và Thủ tướng (Trần Thiện Khiêm) mà thôi. Ngoài tôi ra không có ai khác. Thường lệ, khi được lệnh về Sài Gòn họp thì đều có đầu đủ mặt các vị tư lệnh quân đoàn và tư lệnh các quân binh binh chủng khác. Lần này thì chỉ một mình tôi thôi”

Theo Đại Tướng Cao Văn Viên, Ký giả chiến trường Phạm Huấn, nhà nghiên cứu quân sự Nguyễn Đức Phương như chúng tôi đã trình bầy ở trên và cả ý kiến của Thiếu Tướng Hoàng Lạc, Tư lệnh phó Quân khu 1 thì trong các buổi họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia tại dinh Độc Lập ngày 11-3, ngày 13-3 và 19-3 do ông Thiệu chủ tọa đều có mặt Đại Tướng Cao Văn Viên, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Trung Tướng Đặng Văn quang, riêng buổi họp ngày 19-3 thì có thêm Phó Tổng thống Trần Văn Hương. Tổng thống Thiệu không hề gặp riêng một tướng nào, không nghe thấy một tài liệu nào nói như vậy. Về ngày 13-3 nêu trên, Tướng phó Tư lệnh Quân khu 1 cho biết Tướng Trưởng được mời về Sài Gòn trình bầy trước Hội đồng an ninh Quốc gia, các tài liệu của BộTTM, của Phạm Huấn, Nguyễn Đức Phương cũng đều nói như vậy.

Bài viết nói tiếp

Nhưng khi tổng thống Thiệu cho biết ý định của ông ta là phải rút bỏ Quân đoàn 1 ngay hôm nay thì tôi mới vỡ lẽ, cay đắng, và uất ức vì lệnh ra quá đột ngột ngoài sức tưởng tượng và ngoài ước muốn của tôi…..

Tôi trình bầy cặn kẽ những ý kiến cũng như những dự định của tôi lên tổng thống nhưng không được chấp thuận. Lệnh bất di bất dịch là: Phải rút khỏi Quân Đoàn 1 càng sớm càng hay….

Lệnh của tổng thống Thiệu yêu cầu tôi rút khỏi Quân Đoàn 1 vào ngày 13 tháng 3, và rút Quân Đoàn 2 vào ngày 14 tháng 3. Ông Thiệu cho biết là rút hết về Phú Yên, lấy Quốc Lộ 22 làm ranh giới. Việt nam sẽ thu gọn sẽ chạy dài từ Phú Yến đến Hà Tiên”

Theo Tướng Viên, Tướng Hoàng Lạc, Nguyễn Đức Phương… trong phiên họp ngày 13-3 Tướng Thiệu chỉ mới lệnh cho Tướng Trưởng rút sư đoàn Dù về Sài Gòn và báo cáo tình hình Quân sự của Vùng Một, không có tài liệu nào nói ông Thiệu cho lệnh rút bỏ Quân đoàn 1 ngay hôm 13-3 như trong bài của Tướng Trưởng. Theo ông Cao Văn Viên.

Buổi họp ở Dinh Độc Lập vào ngày 13 tháng 3, 1975 đã được thuật lại rõ ràng ở trên. Trong dịp đó tổng thống Thiệu đã cho hai vị tư lệnh quân đoàn I và III (tướng Trưởng và tướng Toàn) biết ý định sắp xếp lại lãnh thổ VNCH sao cho phù hợp với sự cắt giảm viện trợ quân sự. Tuy nhiên tổng thống Thiệu chưa cho lệnh rút quân ở bất cứ nơi nào lúc đó, trừ việc bỏ An Lộc ở vùng III. Buổi họp ở Cam Ranh ngày 14 tháng 3 sảy ra sau khi Ban Mê Thuột mất, và tại Cam Ranh tổng thống Thiệu ra lệnh tái phối trí lực lượng của quân đoàn II để chiếm lại Ban Mê Thuột”

Theo như Nguyễn Đức Phương đã nói ở trên Tổng thống Thiệu chỉ chấp nhận lui binh vào giờ phút chót. Ngày 13- 3 ông Thiệu chỉ thị cho Tướng Trưởng trả sư đoàn Dù về Sài Gòn và tái phố trí lực lượng tại Quân khu 1 chứ chưa hề cho lệnh rút bỏ bất cứ một tỉnh nào. Cho đến ngày 20-3 khi tình hình Huế khẩn trương ông lệnh cho Tướng Trưởng tùy cơ ứng biến, có thể rút về bảo vệ Đà Nẵng nếu tình hình đòi hỏi.

Trong một cuộc nói chuyện với một nhà báo tại Hải ngoại, Tướng Trưởng cho rằng những bài nói về ông, khen cũng như chê có nhiều điều không đúng và ông không thích báo chí nói đến mình, như vậy bài trên đây có thể chưa chắc đã nói đúng ý của vị nguyên Tư lệnh Quân khu.

Trong cuộc phỏng vấn của ông Lâm Lễ Trinh, Tướng Viên đã kết luận.

Xin đừng xem những lời của tôi là lịch sử. Mỗi người giải thích sự thật theo lối riêng, như trong phim ‘Rashomon’. Một trăm nhân chứng, một trăm sự thật. Định kiến làm cho lịch sử sai lệch. Tôi chỉ tâm tình với lòng thành. Hãy để cho hậu thế lượng định và phán xét”

Lâm Lễ Trinh, Về Nguồn, trang 276.

Xem như thế sự thật chỉ là tương đối. Cũng trong bài phỏng vấn này, theo ông Cao Văn Viên, Tướng Trưởng cho biết Bộ tổng tham mưu không tăng viện theo lời yêu cầu của Quân khu 1. Tướng Viên cho đều này không đúng vì ông đã tăng cường cho Tướng Trưởng cả hai sư đoàn tổng trừ bị Dù và TQLC rồi. Bộ Quốc phòng Mỹ trả nhuận bút cho các Tướng lãnh lưu vong Việt Nam để viết tài liệu về chiến tranh Đông Dương. Trong một phiên họp thu thập dữ kiện cho Mỹ, Tướng Trưởng phát biểu sở dĩ thất bại là do lãnh đạo tồi, chính phủ Trung ương thiếu nhân tài. Tướng Đồng Văn Khuyên, Trần Đình Thọ bênh vực cho Bộ TTM tranh luận trả lời ông Trưởng: Bộ Tham mưu đã yểm trợ hết mình cho Quân khu 1, hai sư đoàn Tổng trừ bị Dù và TQLC đều đã được tăng phái cho Quân đoàn 1.

Ý kiến của Tướng Trưởng về nhu cầu tăng viện cho Quân khu là xác đáng. Đặt giả sử nếu không triệt thoái khỏi Huế, Quảng Nam, Quảng Tín để giữ đất chống quân thù, cho dù Tướng Trưởng có tài giỏi tới đâu cũng chỉ cầm cự được một hai tháng là cùng vì ưu thế quân sự về phía địch, chúng gần hậu cần, được bổ sung quân số đầy đủ trong khi quân ta ở cách xa trung tâm tiếp liệu.

Trong chiến dịch tổng công kích này, địch đã tung vào mặt trận miền Trung 13 sư đoàn bộ binh, trên 20 trung đoàn pháo binh, xe tăng, phòng không, trong đó 8 sư đoàn tại Quân khu Một, 5 sư đoàn tại Quân khu 2. Hoả lực địch rất mạnh nhờ viện trợ ồ ạt của Cộng Sản Quốc tế trong khi hoả lực ta đã bị giảm 60% so với 1972 hậu quả của cắt quân viện, vũ khí đạn dược của Việt Cộng coi như gấp hai 1972. Bắc Việt đã đưa khoảng 70% toàn bộ lực lượng của chúng vào chiến dịch này, địch không thể tấn công cả bốn Quân khu của ta cùng một lúc vì mũi dùi tấn công yếu sẽ bị bẻ gẫy nên chúng chỉ tấn công vào một hai nơi nhất định, địch lựa chọn Quân khu 1 và Quân khu 2 vì gần hậu phương miền Bắc.

Đã biết Việt Cộng tấn công mạnh ở Quân khu 1 và 2 mà ta còn giữ nhiều lực lượng tại Quân khu 3 và 4. Tại Vùng 4 ta đã có 200 ngàn Địa phương quân lại thêm 3 sư đoàn chủ lực, Vùng 3 ta để 3 sư đoàn bộ binh, số xe tăng gấp rưỡi và máy bay chiến đấu gấp hai các quân khu 1 và 2 (655 xe tăng, 250 máy bay chiến đấu). Trong khi miền Trung bị địch đánh phá tơi bời mà vẫn không chịu lấy bớt quân từ các quân khu 3 và 4 lên tăng viện cho chiến trường dầu sôi lửa bỏng. Nhưng không phải Tướng Thiệu không biết vậy, ông có thể tăng viện để cứu sự sụp đổ của miền Trung nhưng ông đã không làm thế vì muốn bỏ miền Trung, vấn đề là ở chỗ đó. Không tăng viện coi như bỏ vì với lực lượng cơ hữu của hai Quân khu, ta không đủ sức chống lại mũi dùi tấn công của 13 sư đoàn Bắc Việt. Tướng Trưởng trách cứ Bộ Tổng tham mưu và Tổng thống Thiệu đã không tăng cường lực lượng cho ông, đã bỏ lỡ cơ hội cứu đất nước vào giờ chót, nếu tăng cường thì còn hy vọng chuyển bại thành thắng, bẻ gẫy mũi dùi tấn công của địch hoặc cho dù thua cũng phải đánh được vài trận cho ra hồn.U1737563

Theo ông Cao văn Viên vị Tư lệnh Quân khu 1 trong khi đương đầu với địch ông còn phải quan tâm giải quyết vấn đề tỵ nạn đang trầm trọng. Khi Kontum, Pleiku mất người dân lo sợ chính quyền cắt đất nhường cho Cộng sản, hàng chục nghìn người đổ dồn về Đà Nẵng mua vé máy bay vào Sài Gòn, hôm 14-3 các lữ đoàn Dù được điều động để về Sài Gòn khiến dân chúng hốt hoảng kéo nhau về Đà Nẵng. Ngày 19-3 Thủ Tướng Khiêm ra Đà Nẵng giải quyết vấn đề tỵ nạn, Thủ tướng cho thành lập Ủy ban liên bộ để lo giúp dân tỵ nạn Quân khu để binh sĩ yên tâm chiến đấu. Thủ Tướng hứa sẽ tăng nhiều tầu chở dân di tản và giúp đồng bào tỵ nạn. Trong khi ấy tại địa phương các đoàn thể, hội từ thiện, phú thương… đóng góp vào cuộc cứu trợ hiệu quả hơn của Trung ương nhưng vấn đề tỵ nạn vượt quá khả năng của họ.

Từ ngày 17-3 đường Quốc lộ 1 tràn ngập người và xe cộ, tại các bến cảng, tầu chở quân như quân dụng cho chiến trường Huế Đà Nẵng bị dân và lính ép phải chở họ rời bến, giới phụ trách bến tầu phải thuyết phục họ mãi. Ngày 21-3 Việt Cộng cắt đường Quốc lộ 1, dân tỵ nạn bèn đi về miệt biển, tầu bè được mướn hay bị cướp để chạy loạn nhưng không đủ. Ngày 23-3 tầu Trường Thanh do Bộ tổng tham mưu mướn chở được hơn 5000 người. Huế bỏ ngỏ đếm 25-3, dân quân rút theo bờ biển về Đà Nẵng. Tam Kỳ mất 24 -3, Chu Lai di tản ngày 26, dân Quảng Ngãi, Quảng Tín chạy về Đà Nẵng. Ngày 26 Tướng Trưởng gửi Tướng Hoàng Lạc Tư lệnh phó về Sài Gòn trình Tổng thống và Thủ tướng giải quyết ngay vấn đề tỵ nạn vì thành phố sắp rơi vào tình trạng hỗn loạn khiến Đã Nẵng sẽ tự sụp đổ không cần Việt Cộng tấn công. Lưu thông trong thành phố ứ đọng, dân số trước đấy chỉ có 300 ngàn nay có tới hơn một triệu, cướp của giết người giữa ban ngày.

Ngày 27-3 chuyến phi cơ dân sự đầu tiên mướn của Mỹ đáp xuống Đà Nẵng nhưng mỗi khi có máy bay xuống hỗn loạn diễn ra dữ dội. Các chuyến bay dân sự phải đình chỉ, giới hữu trách cho thay bằng 4 máy bay C-130, nhưng hỗn loạn liên tục nên 4 chiếc này chỉ cất cánh được một lần vào ngày 29-3. Bến tầu cũng hỗn loạn, các tầu thả neo ngoài khơi Đà Nẵng, dân dùng thuyền bè từ bờ ra tầu, mỗi tầu được chừng 10 ngàn thì nhổ neo về Cam Ranh, Vũng Tầu, Phú Quốc… Bọn lưu manh côn đồ lợi dụng cướp bóc hà hiếp đồng bào trên tầu, nhiều người xỉu vì kiệt lực.

Việt Cộng pháo kích tấn công Đà Nẵng mạnh vào đêm 28, dân chúng tiếp tục tìm đường lánh nạn bằng thuyền bè dưới những trận mưa pháo của địch, nhiều người chết chìm khi lội từ bờ ra tầu. Bộ TTM đề nghị Phó thủ tướng Phan Quang Đán trưng dụng 13 tầu thương thuyền để chở dân tỵ nạn và kêu gọi các nước đồng minh giúp chở dân ra khỏi vùng giao tranh. Các nước hưởng ứng lời kêu gọi nhưng không thể gửi tầu tới ngay được trong khi tình hình ngày một thê thảm. Với con số người tỵ nạn quá đông cuộc di tản không thực hiện được như ý muốn, dân tỵ nạn tràn ngập các trại tỵ nạn ở Vùng 3 và Phú Quốc.

Theo Đại Tướng Cao Văn Viên khi chính quyền bắt tay vào giải quyết vấn đề tỵ nạn thì đã quá trễ, vấn đề tỵ nạn đã làm đảo lộn kế hoạch quân sự của Vùng 1, dân di tản đã làm náo loạn cả lên khiến cho binh sĩ hoang mang không còn tinh thần chiến đấu. Cuộc lui binh của Quân đoàn 1 cũng chịu chung số phận với cuộc triệt thoái Cao nguyên chỉ là một cuộc hành quân phá sản đã làm sụp đổ toàn bộ Quân khu khiến cho Quân đội VNCH mất gần hết các lực lượng tinh nhuệ. Vũ khí đạn dược phần lớn bị bỏ lại không kịp hủy, ta mất gần 450 xe tăng và hơn 400 đại bác, phần lớn lọt vào tay quân thù, sự sai lầm của một người đã khiến cho VNCH sụp đổ nhanh hơn dự kiến.

Tác giả Trọng Đạt

Phạm Hoàng Đức - Cựu Chiến binh Quân đội Nhân dân Việt Nam Giới thiệu

Kính mời xem các bài liên quan:

Bài 9. FULBRIGHT - USAID - CIA VÀ CÁCH MẠNG MÀU SẮC. CUỐI CÙNG THÌ NHÀ TRẮNG (MỸ) ĐÃ BUỘC PHẢI THÚ NHẬN: USAID (MỸ) LÀ TỔ CHỨC TỘI PHẠM TRÊN TOÀN CẦU

14 nhận xét:

  1. Bài 1: Đà Nẵng thất thủ, sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa chỉ còn tính bằng ngày, bằng giờ
    Kỷ niệm 50 năm, ngày giải phóng thành phố Đà Nẵng 29/3/1975
    25 Tháng 3, 2025 - 09:09
    https://tapchidongnama.vn/bai-1-da-nang-that-thu-su-sup-do-cua-viet-nam-cong-hoa-chi-con-tinh-bang-ngay-bang-gio/

    (Đà Nẵng). Cách nay đúng nửa thế kỷ (tháng 3/1975 – 2025), thành phố Đà Nẵng được giải phóng.
    Xe tăng (Quân đoàn 2) bộ đội chủ lực trên đường Hùng Vương – Đà Nẵng, ngày 29 tháng 3 năm 1975.Nguồn: Bảo tàng Đà Nẵng.
    Chiến dịch giải phóng Quảng Trị – Huế (tên khác chiến dịch Xuân Hè 1975) chính thức mở màn ngày 6/3/1975, chỉ một ngày, sau khi Bộ Tư lệnh Mặt trận 475, quyết định khởi sự chiến dịch Tây Nguyên.

    Sau khi giải phóng (phần còn lại) của tỉnh Quảng Trị, ngày 21/3/1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã quyết định mở chiến dịch Huế, hạ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn quân phòng ngự của chính quyền Sài Gòn ở Huế, mở rộng vùng giải phóng các tỉnh miền Trung đến Đà Nẵng. Sau khi làm chủ Huế (vào ngày 26/3/19750, Bộ Tổng Tư lệnh đã quyết định mở ngay chiến dịch tiến công, giải phóng thành phố Đà Nẵng.


    Bản đồ chỉ rõ các căn cứ quân sự liên hợp (của Quân đội Hoa Kỳ), đóng dày đặc trên địa bàn Đà Nẵng. Bảo tàng Đà Nẵng (mới) cũng dành một không gian về chứng tích chiến tranh. Trong ảnh bên phải là khu vực trưng bày “Đà Nẵng – Kho bom đạn khổng lồ) Bản đồ, nguồn: Bảo tàng Đà Nẵng. Ảnh bên phải: T.Ngọc.

    Đà Nẵng lúc đó là căn cứ quân sự liên hợp lớn. Nguyễn Văn Thiệu (Tổng thống ngụy quyền Việt Nam Cộng hòa), từng tuyên bố sẽ tử thủ Huế (trên sóng phát thanh lúc 13h30, chiều ngày 20/3/1975). Tuy nhiên, chỉ vài giờ sau đó, Thiệu lại có lệnh “phủi bỏ” Huế, qua điện MẬT, chỉ đạo Ngô Quang Trưởng (vào tháng 3/1975, là Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn I và Quân khu 1) rằng “Nếu cần, thì lui về tử thủ Đà Nẵng mà thôi”. Lệnh di tản Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn I, từ Huế vào Đà Nẵng cũng được triển khai sau đó.

    Bỏ Huế, tử thủ Đà Nẵng bằng mọi giá … rồi tan rã, tự tháo chạy trong hỗn loạn
    Bảo vệ Đà Nẵng vào tháng 3 năm 1975 có đến hơn 100.000 ngụy quân. Trong đó lực lượng quân đội trực tiếp tham chiến khoảng 75.000 binh sĩ (cộng với 15 tiểu đoàn bảo an; 240 trung đội dân vệ và 24.000 nhân viên phòng vệ dân sự). Nhiều binh chủng quân đội Việt Nam Cộng Hòa, được cho là “thiện chiến” – theo lời kêu gọi (ngày 26/3/1975) của Nguyễn Văn Thiệu, sẽ “bằng mọi giá, tử thủ Đà Nẵng”, được bố trí gồm: Liên đoàn biệt động quân 17, Thiết đoàn 11 và tàn quân của Thiết đoàn 20, 7 tiểu đoàn pháo binh; Sư đoàn bộ binh 3 (gom cả tàn quân của các sư đoàn bộ binh 1 và 2), Sư đoàn thủy quân lục chiến 1 (có tàn quân từ Lữ đoàn 147). Bảo vệ Đà Nẵng từ trên không có 279 máy bay, trong đó có 96 máy bay chiến đấu của Sư đoàn không quân 1. Tất cả đặt dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh (Ngụy quân) Quân đoàn 1 – Quân khu 1.


    Quân Giải phóng tiến vào trụ sở Bộ Tư lệnh Quân đoàn I – Quân Khu 1 (tại Đà Nẵng). Nguồn: Bảo tàng Đà Nẵng.
    Chủ quan với suy nghĩ rằng lực lượng hiện có (nêu trên) đủ sức bảo vệ Đà Nẵng, Thiệu quyết định, rút Sư đoàn Dù lên đường về bảo vệ Biệt khu Thủ đô (Sài Gòn-Gia Định). Từ đêm 20/3/1975, cũng theo lệnh của Thiệu, Sư đoàn này lập tức rời khỏi Đà Nẵng.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Co cụm nhiều lực lượng để bảo vệ vùng duyên hải, lấy Huế (rồi sau đó bỏ Huế), chỉ chọn Đà Nẵng làm “trung tâm phòng thủ chiến lược như một lá chắn thép”, Thiệu mong sẽ cản được bước tiến của đoàn quân giải phóng đang hừng hực khí thế tổng tiến công (từ cả 2 hướng bắc-nam, với hai chiến trường gắn với hai chiến dịch trước đó ở vùng Trị-Thiên và Nam-Ngãi).

      Điều mà Thiệu không nghĩ đến là lực lượng ngụy quân Việt Nam Công hòa, thời điểm đó, đã hoàn toàn rệu rã. Sáng 29/3, các cánh quân giải phóng, các binh đoàn chủ lực đã từ Hội An, Điện Bàn, Đại Lộc ra, từ đèo Hải Vân tràn xuống đã hoàn toàn chiếm lĩnh thành phố mà không vấp phải sức kháng cự nào đáng kể.


      Bộ Chi huy Quân khu V hạ quyết tâm giải phóng Đà Nẵng. Người trong ảnh là Đại tướng Võ Chí Công – Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam, phụ trách Bí thư Khu uỷ V, Chính uỷ Quân khu V. Nguồn: Bảo tàng Đà Nẵng.
      Tướng (Ngụy) Cao Văn Viên (Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa từ 1965 đến 1975), sau này thuật lại trong hồi ký của mình (The final collapse/ Sự sụp đổ cuối cùng):

      “Từ ngày 27/3/1975: Tất cả kế hoạch phòng thủ Đà Nẵng trở thành vô hiệu trước sự rối loạn và phẫn nộ của những người tỵ nạn.

      Trong khi đó, từ hướng Bắc Đà Nẵng, 2 Sư đoàn 324B và 325C, cùng với một Trung đoàn xe tăng, hai Trung đoàn pháo binh “của cộng sản” tiến theo thung lũng Núi Tượng bao vây hướng Tây thành phố. Từ hướng Nam, Sư đoàn 711 phối hợp Sư đoàn 304 và một số đơn vị yểm trợ đã đánh dọc theo sông Thu Bồn, chiếm 2 quận Đại Lộc và Đức Dục. Từ giây phút đó (tức vào chiều 28/3/1975), Đà Nẵng đã nằm trong tầm đại bác của đối phương”.

      Góc nhìn khác của một người trong cuộc, còn viết tiếp câu chuyện của ngày 27, 28 và 29/3/1975:

      “Tối 27/3/1975, trên làn sóng truyền tin PRC 25 của Sư đoàn 3 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa, binh lính còn nghe sang sảng giọng của Thiếu tướng – Tư lệnh Sư đoàn 3 Nguyễn Duy Hinh kêu gọi binh lính Sư đoàn 3 Bộ binh và các đơn vị đã tan rã từ Huế chạy đường bộ vào Đà Nẵng hãy cùng nhau tái phối trí để phản công chặn đứng sức tiến công của “Cộng sản” ở đèo Hải Vân.
      Thế nhưng nửa đêm về sáng 29/3/1975, Thiếu tướng Hinh xách toàn bộ tiền lương mấy chục triệu đồng của lính sư đoàn mình, dắt díu vợ con cùng bộ sậu leo lên trực thăng chạy ra tàu hải quân, rồi sau sang Hạm đội 7 Mỹ để “tử thủ”. Lính Sư đoàn 3 còn phẫn uất ở chỗ đang bị pháo binh quân Giải phóng bắn cấp tập vào đội hình, mà mở máy lên vẫn nghe ra rả lời kêu gọi tử thủ của tướng Hinh, dù lúc này đã yên vị trên tàu Mỹ (1).


      Bức ảnh này được chính các tướng Ngụy Sài Gòn công bố trong hồi ký của mình, kèm theo chú thích: Quân lực Việt Nam Cộng hòa tháo chạy khỏi Đà Nẵng trên bãi biển Mỹ Khê.
      Thực ra, Thiệu đã có ý đồ “tái phố trí lực lượng, chỉ bảo vệ “những vùng đất phì nhiêu, giàu tài nguyên” ngay từ thời điểm, quân giải phóng và các binh đoàn chủ lực, nổ súng tấn công Buôn Mê Thuộc (sáng 11/3/1975). Tại phiên họp quan trọng diễn ra ngày 2 ngày sau đó (13/3/1975), Thiệu nhận định: “Trong hoàn cảnh này, Quân đội (Việt Nam Cộng hòa) không làm gì khác hơn là thay đổi chiến lược, tái phối trí lực lượng để giữ các vùng đất đai phì nhiêu có nhiều tài nguyên, … giữ lại những vùng màu mỡ, nhiều khoáng sản, có thềm lục địa (lời của Nguyễn Văn Thiệu trong cuộc họp). Và tướng Cao Văn Viên khẳng định: Vùng đất mà Tổng thống (Thiệu) nói đến, chính là Đà Nẵng” (trong The final collapse/ Sự sụp đổ cuối cùng).

      Xóa
    2. Điều này cũng giải thích vì sao ban đầu, Thiệu hô hào “tử thủ giữ Huế bằng mọi cách, bảo vệ Huế đến cùng”. Nhưng cũng chính Thiệu (như Tướng Viên tiết lộ qua hồi ký nói trên) đã lệnh cho Ngô Quang Trưởng (qua một mật lệnh từ Dinh Độc Lập, gửi qua Bộ Tổng Tham mưu, chuyển ra Đà Nẵng cho tướng Trưởng), rằng “Nếu tình hình bắt buột thì chỉ cần bảo vệ Đà Nẵng mà thôi.Quân Đoàn 1 (của Trưởng) sẽ không đủ quân để bảo vệ cùng lúc 3 cứ điểm Huế – Đà Nẵng – Chu Lai”.

      Đà Nẵng rõ ràng có một vị trí chiến lược rất lớn.


      Lữ đoàn viễn chinh số 9 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đổ bộ lên bãi biển Xuân Thiều – Đà Nẵng, ngày 8/3/1965. Nguồn: Bảo tàng Đà Nẵng.

      Nhiều tài liệu lịch sử thống nhất ghi nhận: Vào ngày 8/3/1965, 3 tàu vận tải quân sự (gồm: USS Henrico, Union và Vancouver), đã lần lượt đưa 3.500 lính Thủy quân Lục chiến (thuộc Lữ đoàn viễn chinh số 9), đổ bộ lên bãi biển Xuân Thiều – Nam Ô – Đà Nẵng (Hải quân Mỹ gọi tên bãi biển này là Red Beach Two). Lực lượng này được triển khai nhằm bảo vệ các căn cứ không quân Mỹ (2).

      Nhưng trước đó, Mỹ cũng đã gửi khẩn cấp đến căn cứ ở Vũng Tàu một đơn vị nhân viên Hải quân, và chuẩn bị đổ bộ lực lượng của Hạm đội 7 lên Nam Việt Nam.Tàu khu trục và tàu sân bay (thuộc Hạm đội 7) vào thời điểm đề cập, đã có mặt sẵn sàng ở ngoài khơi Nam Việt Nam (3).

      Nhưng sự lựa chọn cuối cùng sau đó vẫn là Đà Nẵng.

      Trần Ngọc

      (1) trích từ bài viết trên Blog Việt Nam thịnh vượng “Tuyên bố “tử thủ” rồi …bỏ chạy” của tác giả Bình Nguyễn.
      (2): Nguồn: U.S. Marines land at Da Nang, History.com.
      (3) Như vậy, cần cần lưu ý rằng, nhiều nhận định xem ngày 8/3/1965 là lần đầu tiên Mỹ đổ bộ vào Việt Nam (bãi biển Xuân Thiều – Nam Ô Đà Nẵng), thậm chí “lần đầu tiên quân đội Mỹ vào Đà Nẵng, có mặt ở chiến trường”, hoặc “Đà Nẵng là nơi đầu tiên, quân đội xâm lược Mỹ chọn đổ bộ” là chưa chính xác.

      Xóa
    3. Ngày 18/11/1961, Chủ tịch Ủy ban quốc tế về giám sát đình chiến (tại Việt Nam, theo Hiệp đinh Genève-1954), trong bức điện gửi Tướng Navarane (Ấn Độ), đã nhấn mạnh “Mỹ đang tìm cách đưa quân đội vào xâm lược Việt Nam. Và dẫn chứng : “Ngày 10/11/1961, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã gửi tới Việt Nam 30 máy bay và nhiều trực thăng vũ trang.Một đơn vị không lực Mỹ cùng hàng trăm người , máy bay chiến đấu B.26 đã được đưa tới căn cứ Biên Hòa. Không lực 13 của Mỹ cũng đã gửi một đơn vị tiên phong đến căn cứ Đà Nẵng.

      Cùng với các đại diện của Canada và Ba Lan, đại diện Ấn Độ đã tham gia trong Ủy ban Giám sát quốc tế (ISC), giám sát (các bên, gọi là Ủy ban hỗn hợp cho Việt Nam với các đại diện từ Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) trong thực hiện những điều khoản (của Hiệp định Genève), kể cả theo dõi các mức độ và quy mô vi phạm (ISC được thành lập theo điều 34 của Hiệp định), đảm bảo hiệu quả cho Hiệp định.

      Tướng Võ Nguyên Giáp trong 2 bức điện đề ngày 15/12/1961 và sau đó, vào ngày 28/2/1962, đã phản đối sự có mặt của các lực lượng tác chiến trực tiếp của Mỹ trên lãnh thổ Việt Nam.”Đó là những vi phạm cực kỳ nghiêm trọng các điều khoản 16.17.18, 19 của Hiệp định Genève, những vi phạm tạo nên ở Nam Việt Nam một tình hình cực kỳ phúc tạp và nguy hiểm, đe dọa nghiêm trọng hòa bình ở Đông Dương và Đông Nam Á”.

      Lực lượng viễn chinh quân đội Mỹ thực tế đã bắt đầu trực tiếp dính líu đến cuộc chiến tranh Nam Việt Nam, đổ bộ vào Nam Việt Nam từ 1961. Cuộc đổ bộ vào ngày 8/3/1965, chỉ là cuộc đổ bộ đầu tiên ở cấp Lữ đoàn của Thủy quân lục chiến. Do quân số đổ bộ khá đông, có một thông báo (của phía Mỹ), lần đầu tiên, được gửi cho chính quyền (bù nhìn) của Ngụy quyền Sài Gòn. Giới quan sát (lúc đó) và sử gia (sau này) cùng cho rằng: Việc đã rồi, gửi cho có gửi, để hợp thức hóa vấn đề tăng sự hiện diện ngày càng nhiều của quân đội Mỹ tại Nam Việt Nam mà thôi.

      Chú giải (3) xem thêm: Gérard Lê Quang “Võ Nguyên Giáp hay cuộc chiến tranh nhân dân” (Nguyên tác: Giap ou la guerre du peuple, của Éditions DeNoel, 1973); Bản Việt ngữ của Nhà xuất bản Thế giới và Thaihabooks, 2024 (trang 198-199). Bản quyền Việt ngữ: Thaihabooks.

      Tư liệu hình ảnh trong bài, chúng tôi sử dụng nguồn ảnh của Bảo tàng Đà Nẵng. Toàn bộ tư liệu về Ngày Giải phóng Đà Nẵng, sẽ được trưng bày trong Triển lãm chuyên đề, trong dịp 29 tháng 3 năm 2025.

      Xóa
  2. Bài 2: Đà Nẵng thất thủ, sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa chỉ còn tính bằng ngày, bằng giờ
    KỶ NIỆM 50 NĂM, NGÀY GIẢI PHÓNG THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 29 THÁNG 3 năm 1975-2025
    25 Tháng 3, 2025 - 20:19
    https://tapchidongnama.vn/bai-2-da-nang-that-thu-su-sup-do-cua-viet-nam-cong-hoa-chi-con-tinh-bang-ngay-bang-gio/

    Chiến thắng của những Mùa Xuân chiến công, ngút ngàn hào khí non sông Việt
    Vào năm 2000, trong dịp kỷ niệm 25 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, Nhà Xuất bản Trẻ đã công bố loạt tư liệu (từng đăng nhiều ký trên báo Thanh Niên, của tác giả MAI NGUYỄN): Đọc hồi ký của tướng tá Sài Gòn xuất bản ở hải ngoại. Ngoài ra, còn có nhiều tác phẩm khác (xuất bản trong và ngoài nước) với lời kể, hồi ức của chính “tướng tá Sài Gòn”, hay công trình của giới nghiên cứu (trong bối cảnh, lần lượt các hồ sơ được giải mật), đã cho thấy:

    Chiến thắng Mùa Xuân của Nhân dân và dân tộc Việt Nam, trong Chiến dịch mang tên vị lãnh tụ đã là Danh nhân Văn hóa kiệt cuất của thế giới – Anh hùng giải phóng dân tộc: Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một hiển nhiên tất yếu. Lịch sử cổ kim, đông tây đã ghi lại và chứng minh rằng, phi nghĩa không thể nào thắng chính nghĩa, bất kỳ thế lực ngoại xâm, ngoại bang nào “xiềng xích”, tước đoạt độc lập, tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của bất kỳ thuộc địa nào, bằng mọi phương pháp của chủ nghĩa thực dân mới hay cũ, chắc chắn phải đi đến thất bại, tự mình lao vào con đường diệt vong.


    Bộ binh và xe tăng yểm trợ của Quân Giải phóng tiến qua cầu Trịnh Minh Thế (bên trái các anh là cầu De Latre).Nguồn ảnh: Bảo tàng Đà Nẵng.

    Tác giả của những câu chuyện, hay cả một bộ sách, dù là người của “phía bên kia” cũng thừa nhận “Ngụy quân-Ngụy quyền Sài Gòn chưa đánh, đã thua cuộc”. Dù có một số bào chữa, biện minh, có tính “cố vớt vát, đổ lỗi, …” vẫn khó lòng được lịch sử và nhân chứng chấp nhận. Phần lớn, các tác giả đã chọn cách nói đúng-nói thẳng, phơi bày trắng bản chất:

    “Nhiều tài liệu công bố sau này cho thấy, Nguyễn Văn Thiệu cho rằng, Đà Nẵng là căn cứ quân sự khổng lồ được Hoa Kỳ giúp xây dựng, nếu tái phối trí lực lượng để phòng thủ, hy vọng sẽ chặn đứng bước tiến quân Giải phóng.

    Song, “Trước sức tiến công như vũ bão của quân giải phóng, 2 ngày sau khi tháo chạy từ Huế vào Đà Nẵng, Trung tướng Ngô Quang Trưởng đã lớn tiếng hô hào: “Anh em chiến hữu hãy tử thủ tại Đà Nẵng. Tôi sẽ cùng anh em chiến đấu đến viên đạn cuối cùng” (27/3/1975). Nhưng ngay ngày hôm sau (28/3/1975), chưa kịp bắn viên đạn nào thì tướng Trưởng đã lên trực thăng đáp xuống tàu hải quân, rồi vào thẳng Sài Gòn”.

    Khi được Nguyễn Văn Thiệu tin tưởng, giao cho phòng thủ Huế, ngày 23/3/1975, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, với tư cách Tư lệnh quân đoàn 1, Quân khu 1 từng tuyên bố rằng: “Tôi sẽ sống chết với cố đô, Cộng quân muốn vào Huế phải bước qua xác tôi”.

    Nhưng 3 ngày sau đó, 26/3/1975, hàng vạn quân lính Việt Nam Cộng hòa tự tan rã ở cửa Thuận An và cửa Tư Hiền. Quân Giải phóng tiến vào Huế, nhưng không vấp phải sức kháng cự quá lớn và đặc biệt không phải bước qua xác vì Tướng Trưởng đã nhanh chân cao chạy xa bay vào Đà Nẵng ngày 25/3/1975 (1).

    Nắm chắc thời cơ, tiến công thần tốc, không phải đánh lớn, nhưng cũng không bỏ lỡ thời cơ, cuộc tiến công và nổi dậy đánh chiếm căn cứ quân sự liên hợp Đà Nẵng giành thắng lợi chỉ trong 3 ngày (từ 26 đến 29/3/1975). Trong khi đó, đầu não chỉ huy địch nhận định “Cộng sản muốn đánh vào Đà Nẵng phải mất thời gian chuẩn bị ít nhất là một tháng”.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. “Đà Nẵng là một căn cứ quân sự liên hợp hải, lục, không quân hiện đại và mạnh vào bậc nhất ở miền Nam của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Lực lượng của địch trên chiến trường khoảng 75.000 tên. Đây là cơ sở để Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố “tử thủ” Đà Nẵng bằng mọi giá. Nguyễn Văn Thiệu cho rằng, sau giải phóng Huế, nếu ta muốn tiến công Đà Nẵng thì phải mất ít nhất một tháng chuẩn bị. Như thế có thể thấy, Nguyễn Văn Thiệu hoàn toàn tin tưởng vào tướng Ngô Quang Trưởng và quân lực Việt Nam Cộng hòa tại đây” – Tiến sĩ Sử học Phạm Minh Thế, Khoa Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, phân tích.
      Đà Nẵng đã “thất thủ”, sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn chỉ tính bằng ngày và giờ
      Bộ Tổng Tư lệnh quyết định mở chiến dịch tiến công Đà Nẵng với lệnh tiến về Đà Nẵng bằng “những biện pháp đặc biệt nhanh chóng, bỏ qua những mục tiêu ở dọc đường, tiến thẳng, giải phóng Đà Nẵng” được Đại tướng Võ Nguyên Giáp truyền đạt qua điện khẩn, gửi vào chiến trường cho Quân đoàn 2 và Quân khu 5.

      Thành phố Đà Nẵng được giải phóng ngày 29 tháng 3 năm 1975, và nếu tính cột mốc thắng lợi đầu tiên của chiến dịch Xuân Hè năm 1975, ngày 19/3, tỉnh Quảng Trị được giải phóng, thì Đà Nẵng được giải phóng chỉ sau tỉnh Quảng Trị đúng 10 ngày. Đây là minh chứng cho tinh thần “thần tốc – thần tốc, chớp thời cơ, kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất và chắc thắng” của Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh Chiến dịch Xuân – Hè.

      Thắng lợi nhanh chóng của chiến dịch Huế – Đà Nẵng đã làm phá sản ý định co cụm chiến lược của Ngụy quân-Ngụy quyền ở duyên hải Trung bộ; có ý nghĩa rất quan trọng về chiến lược, góp phần làm thay đổi so sánh thế và lực trên chiến trường giữ ta và địch.

      Mất Đà Nẵng, chính quyền Sài Gòn đã mất đi chiến địa cuối cùng, mất đi bãi đổ bộ mà Thiệu vẫn mơ tưởng đến hình ảnh những hạm đội Mỹ đáp xuống để cứu nguy. Đòn tiến công Đà Nẵng thực sự đã đẩy quân ngụy vào tình thế tuyệt vọng, tạo điều kiện cho ta đẩy nhanh cuộc Tổng tiến công chiến lược. Ngay trong đêm 29 tháng 3, khi Đà Nẵng vừa được giải phóng, các hãng tin phương Tây đã bình luận: “Kể từ đây, khi Đà Nẵng đã “thất thủ”, sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn chỉ tính bằng ngày và giờ”.

      Xóa
    2. Tướng Robert Thomson (cựu cố vấn về chiến tranh Việt Nam của Nhà Trắng), khi tham gia bình luận về sự kiện lần lượt Huế và Đà Nẵng thất thủ (trên AFP, ngày 30/3/1975, chỉ một ngày sau khi Đà Nẵng được giải phóng), đã nói rất thẳng rằng: “Tôi tin chắc rằng, toàn bộ Nam Việt Nam sẽ sụp đổ và sự rút lui của Mỹ ở Đông Dương là sự rút lui lớn nhất mà thế giới được chứng kiến, kể từ khi Napoléon rút khỏi Moskva”.

      “Chiến dịch tiến công Đà Nẵng đã gây cho địch tổn thất lớn về vật chất, kỹ thuật, tan rã lớn về tổ chức, bế tắc về chiến thuật, chiến lược và quan trọng nhất là suy sụp lớn về tinh thần, đẩy quân ngụy đứng trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn không gì có thể cứu vãn nổi, mở ra cho ta thời cơ, điều kiện mới giải phóng Sài Gòn-Gia Định và giải phóng hoàn toàn miền Nam” – Thạc sỹ Nguyễn Trọng Thành, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, nhìn nhận.
      Thạc sỹ Nguyễn Trọng Thành, trong Quảng Nam – Đà Nẵng 30 năm chiến đấu và chiến thắng 1945-1975; Nhà Xuất bản Đà Nẵng) còn nêu rõ thêm: Thắng lợi của chiến dịch tiến công Đà Nẵng đã góp phần mở ra một địa bàn chiến lược có ý nghĩa quan trọng nhiều mặt. Cùng với kết quả thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên, Trị-Thiên và Nam-Ngãi, một vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm 5 tỉnh, thành phố đồng bằng ven biển tiếp giáp với miền Bắc xã hội chủ nghĩa, nối liền với vùng mới giải phóng ở Tây Nguyên đã tạo nên một hậu phương chiến lược hoàn chỉnh hơn.

      Với hậu phương mới được tạo ra, ta có điều kiện tốt hơn trong việc bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, bảo đảm cơ động lực lượng, đáp ứng với yêu cầu tập trung lực lượng quy mô lớn cho việc giải phóng Sài Gòn – Gia Định trong một thời gian ngắn. Ta lại thành lập được thêm cánh quân phía Đông – mà lực lượng chủ yếu là Quân đoàn 2 – , tiến theo đường số 1 vào hội quân giải phóng Sài Gòn, tạo nên sức mạnh áp đảo địch từ mọi hướng để giành thắng lợi chắc chắn trong chiến dịch Hồ Chí Minh”.
      Trần Ngọc

      Xóa
  3. Bài cuối: Đà Nẵng thất thủ, sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa chỉ còn tính bằng ngày, bằng giờ
    Kỷ niệm 50 năm, ngày giải phóng thành phố Đà Nẵng 29 tháng 3 năm 1975-2025
    26 Tháng 3, 2025 - 06:27
    https://tapchidongnama.vn/bai-cuoi-da-nang-that-thu-su-sup-do-cua-viet-nam-cong-hoa-chi-con-tinh-bang-ngay-bang-gio/

    Tiến sĩ Sử học Phạm Minh Thế, Khoa Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, luôn nhấn mạnh rằng, “Khi mặt trận Đà Nẵng thất thủ thì sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng hòa đúng là chỉ còn tính bằng ngày, bằng giờ.
    Phá sản ý định co cụm chiến lược của Ngụy quyền
    Sự thất thủ ở Đà Nẵng, nhất là những lời tuyên bố “tử thủ” ở Huế, ở Đà Nẵng rồi lại bỏ rơi binh lính, bỏ rơi chiến trường và bỏ chạy của các tướng lĩnh như Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Duy Hinh và trước đó là Phạm Văn Phú ở Ban Mê Thuột đã làm cho tinh thần chiến đấu, phản kháng của quân đội Việt Nam Cộng Hòa trên toàn miền Nam rệu rã, hoang mang đến cực độ. Họ không còn tinh thần chiến đấu nữa. Đó là sự suy sụp lớn về tinh thần, đẩy quân đội này đứng trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn không gì có thể cứu vãn nổi” (1).

    Ngay sau phiên họp ngày 25/3/1975, và đi đến quyết định tận dụng thời cơ, đẩy nhanh tốc độ cuộc chiến, nhằm giải phóng toàn bộ miền Nam trước thời hạn, sau khi giải phóng Đà Nẵng, giải phóng một loạt các tỉnh thành miền Trung (từ Quảng Trị đến Quảng Nghĩa), Bộ Chính trị lại họp khẩn phiên vào sáng ngày 31/3.

    Tại cuộc họp mở rộng này của Bộ Chính trị, khi Đà Nẵng mới vừa giải phóng được 2 ngày – giới Quân sự và Lịch sử, gọi đây là cuộc họp lịch sử, thảo luận sâu để có “đòn chiến lược cuối cùng” của cuộc tổng tấn công và nổi dậy, làm chủ căn cứ quân sự liên hợp của ngụy quyền – ngụy quân; chính Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ đạo “khẩn trương xây dựng kế hoạch tác chiến, thực hiện bao vây chiến lược ở phía Đông và phía Tây Sài Gòn – Gia Định, sử dụng “nắm đấm chủ lực, bất ngờ thọc sâu tiêu diệt địch”. “Đánh một trận là thắng”. Phương châm là “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”.

    Đọc lại Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng, độc giả càng hiểu được bối cảnh ra đời của bức điện hỏa tốc lịch sử:
    “Ngày 4/4, tôi gửi điện cho cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 2 đang hành quân: “Các đồng chí lên đường làm nhiệm vụ rất vẻ vang. Cần hành động thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”… Ngày 7/4, tôi ra lệnh cho các đơn vị đang đổ vào chiến trường: “Mệnh lệnh: 1. Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng. 2. Truyền đạt tức khắc đến đảng viên, chiến sĩ” – Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhớ lại và viết. Ông tự bạch thêm rằng, hào khí cuộc tiến công lịch sử của Quang Trung Nguyễn Huệ “lại hiện về trong ký ức tôi”.

    Sử chép : Mờ sáng ngày 30 tháng Chạp năm Mậu Thân , Từ Tam Điệp Đại quân Tây Sơn chia làm 5 đạo quân thần tốc tiến công. Quân chủ lực củaTây Sơn do Quang Trung đích thân chỉ huy đã tập trung binh lực tiến đánh đồn Ngọc Hồi; đây là vị trí quan trọng của quân Thanh ở phía Nam Thang Long. Trưa ngày mồng 5 Tết Kỷ Dậu (1789), Đô đốc Long và Quang Trung Nguyễn Huệ trong bộ chiến bào sạm đen khói súng dẫn đầu đoàn quân chiến thắng tiến vào thành Thăng Long giữa tiếng reo hò hân hoan của binh lính và dân chúng kinh thành.Mùa Xuân năm Kỷ Dậu (1789); Đại quân Tây Sơn do người anh hùng áo vải chỉ huy đã đánh tan 29 vạn quân Thanh xâm lược, giải phóng Thăng Long – Đông Đô khỏi ách đô hộ của quân xâm lược nhà Thanh.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn – Anh hùng lực lượng Vũ trang nhân dân – cũng từng chia sẻ rằng, về thu thập thông tin nói chung, thông tin tình báo nói riêng, họ (tức người Mỹ) là những bậc Thầy. Người Mỹ biết rất nhiều thứ, nhưng người Mỹ quên lịch sử Việt Nam có điều này: Việt Nam, trong lịch sử, đã có những chiến thắng mùa Xuân, quét sạch ngoại bang. Ý của Tướng Phạm Xuân Ẩn đó là chiến thắng Xuân Kỷ Dậu (1789).

      Cùng với Tây Nguyên, Huế, Nha Trang, Đà Nẵng giải phóng khẳng định nếu tốc độ chiến dịch tổng tiến công, nổi dậy mùa Xuân 1975, không thần tốc, táo bạo, chớp ngay thời cơ “1 ngày bằng 20 năm, để cho địch có thời gian củng cố, chắc chắn toàn Dân và toàn Quân sẽ phải mất rất nhiều thời gian, xương máu, phải huy động thêm nhiều nguồn lực, mới giải phóng được miền Nam.

      Cột mốc 29 tháng 3 năm 1975 không chỉ là dấu son đỏ thắm, với riêng Đà Nẵng, mà cả miền Trung và miền Nam. Hơn một tháng sau, ngày 30/4/1975, tinh thần “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa” đã ấn định một chiến thắng vẻ vang và tầm vóc đi vào lịch sử của Việt Nam và nhân loại: Việt Nam thống nhất giang sơn liền một cõi, sạch bóng ngoại xâm, xóa sổ chế độ ngụy bang tay sai cầm quyền.
      50 năm sau (1975-2025), Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới với tâm thế là hình mẫu của quốc gia phát triển, đóng góp cho thành tựu của các mục tiêu thiên kỷ mà loài người luôn hằng mong chinh phục.

      Người Đà Nẵng luôn tự hào rằng: Vào năm 1858, Liên quân Pháp-Tây Ban Nha cũng chọn tấn công vào cửa Hàn (Đà Nẵng). Đây là trận đánh đầu tiên, mở màn của chiến tranh Pháp – Việt 1858-1884 trong lịch sử Việt Nam (2).

      Thực dân Pháp chọn Đà Nẵng làm địa điểm tấn công đầu tiên vì Đà Nẵng có một vị trí quân sự quan trọng, hải cảng rộng và sâu, thuận tiện cho tàu chiến vào ra, lại nằm trên trục đường Bắc – Nam, có thể sang Lào, Campuchia. Ngoài ra, Đà Nẵng còn có cánh đồngNam – Ngãi để nuôi quân, còn có nhiều giáo sĩ và giáo dân thân Pháp.

      Đặc biệt, kế hoạch của địch là đánh nhanh thắng nhanh để chiếm lấy Đà Nẵng làm căn cứ bàn đạp, từ đó đánh vào nội địa, vượt đèo Hải Vân, rồi tấn công Huế tiêu diệt sinh lực của triều đình nhà Nguyễn tại đây; đó chính là con đường ngắn nhất, nhanh chóng nhất, (Từ Đà Nẵng, hành quân ra kinh đô Huế khoảng 100km), nên cũng ít tổn hao sức lực, có thể “đánh nhanh thắng nhanh” mà không tiêu tốn nhiều tiền của, nhân lực, thuận lợi nhất trong thực hiện ý đồ chiến lược của Pháp và Tây Ban Nha.

      Xóa
    2. Nhưng cho đến hết năm 1858, quân địch vẫn không mở rộng được địa bàn chiếm đóng, phá vỡ thế phòng thủ của ta. Kế hoạch và chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh thất bại. Giới sử học thừa nhận: Có thể coi đây là thắng lợi lớn và duy nhất của quân và dân ta ở mặt trận Đà Nẵng trong hơn một phần tư thế kỷ chống xâm lược từ 1858 đến 1884 (3).

      Và cách đây chừng 10 năm thôi, Đà Nẵng là cứ điểm tiền tiêu, nơi xuất phát chính của các lực lượng chấp pháp trên biển của Việt Nam , khi giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc, hạ đặt trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc Hải phận đất nước (sự kiện 75 ngày Trung Quốc gây hấn trên Biển Đông của giàn khoan Hải Dương 981, năm 2014). Cũng từ sự kiện này, lần đầu tiên sau 20 năm, tổ chức ASEAN đã có một tuyên bố riêng về tình hình Biển Đông.
      Lịch sử đã có những lần trao gửi sứ mệnh lớn như thế cho một Đà Nẵng kiên cường, nghĩa cảm.
      Trần Ngọc

      Xóa
  4. Chủ nghĩa xét lại lịch sử đã tác động vào báo chí và một bộ phận cán bộ Đảng viên
    25 Tháng 3, 2025 - 11:19
    https://tapchidongnama.vn/chu-nghia-xet-lai-lich-su-da-tac-dong-vao-bao-chi-va-mot-bo-phan-can-bo-dang-vien/

    Mới đây trên chương trình truyền hình của đài Truyền hình Hà Nội , khi nói về việc Đàm Vĩnh Hưng ăn mặc phản cảm gây dư luận bất bình trong xã hội và khi nhắc đến việc Mỹ đưa quân xâm lược Viêt Nam đã nói là “ Mỹ tham chiến ở Việt Nam …” đây là cách nhìn sai lầm, xóa tội xâm lược của Đế quốc Mỹ, bởi vậy tôi (Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn) đăng lại bài viết cách đây bốn năm để bạn đọc có cách nhìn đúng đắn, không thể đảo ngược lịch sử và cũng để lãnh đạo đài Truyền hình Hà Nội nhận rõ vấn đề tránh phạm sai lầm khi nói về cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta!
    Gần đây trên một số báo chí của ta đã có những cách nhìn về cuộc kháng chiến Chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta một cách sai lệch theo kiểu: “…từ 1955-1975 Hoa Kỳ đã tham gia vào cuộc chiến tranh tại Việt Nam …. “ ; “ hai nước (Mỹ và Việt Nam) có thể cùng nhau học hỏi từ những sai lầm trong quá khứ …” ; “ Chính quyền Việt Nam Cộng hoà là một quốc gia độc lập “ hoặc là không nên dùng cụm từ ngụy quân, ngụy quyền vì họ có tên ta cần trả lại tên cho họ …

    Với cách nhìn này tôi thật xót xa, phải chăng những quan điểm của chủ nghĩa xét lại lịch sử đã tác động vào báo chí và một bộ phận cán bộ Đảng viên làm chuyển hoá nhận thức (không xem chế độ tay sai bán nước Sài Gòn là ngụy , mà là một chính quyền , một quốc gia độc lập …), với nhận thức như vậy thì cuộc kháng chiến chống Mỹ chỉ là cuộc nội chiến giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Việt Nam cộng hoà, còn Mỹ chỉ là bên tham gia không phải là kẻ chủ mưu gây ra cuộc Chiến tranh xâm lược Việt Nam … ; và cuộc kháng chiến chống Mỹ của chúng ta là sai lầm (vì đã gây ra cuộc nội chiến) và cũng như Mỹ tham gia vào cuộc chiến ở Việt Nam là sai lầm vì đã đem quân sang một đất nước xa xôi để cuối cùng nhận lấy thất bại?

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Trước hết nói từ 1955, Mỹ mới bắt đầu tham gia vào cuộc chiến tranh tại Việt Nam là hoàn toàn sai, ngay từ năm 1950 người sinh viên Trần Văn Ơn đã ngã xuống trên đường phố Sài Gòn trong cuộc biểu tình đấu tranh chống Thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, như vậy là Mỹ đã bắt đầu dính líu đến cuộc chiến tranh Việt Nam trước năm 1950 và như chúng ta biết đến năm 1954 gần 78% chỉ phí cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp là tiền viện trợ của Mỹ, từ khẩu súng tiểu liên Thomxon, súng trường Cabin, Garan M1 cho đến khẩu pháo 105 ly, máy bay Dacota, khu trục Ad6 … đều do Mỹ cung cấp viện trợ. Còn từ 1955-1975 Mỹ chỉ tham gia hay trực tiếp xâm lược? Nếu nói Mỹ tham gia vậy ai nuôi dưỡng, đào tạo đưa Ngô Đình Diệm từ Mỹ về nước, ai hất cẳng Pháp nắm lấy toàn bộ miền Nam Việt Nam để trực tiếp chỉ huy bộ máy vốn tay sai của Pháp trở thành tay sai của Mỹ, dựng nên chính quyền bù nhìn Ngô Đình Diệm với danh xưng Việt Nam cộng hoà (song khi tuyên truyền họ vẫn không thể bỏ danh xưng Quốc gia Việt Nam), tổ chức lại quân ngụy Pháp thành cái gọi là quân lực Việt Nam cộng hoà (song khi tuyên truyền họ không thể bỏ danh xưng Quân đội quốc gia), để trở mặt công khai xoá bỏ Hiệp định Giơ ne vơ năm 1954 mà chính Mỹ cũng là một bên tham gia với dã tâm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, nhằm biến đồng bào ta ở nữa nước từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam thành dân nô lệ, thành một Bang của Mỹ và bọn tay sai của Mỹ đã đàn áp dã man đồng bào yêu nước …; Toàn bộ ngân sách hoạt động của ngụy quyền SG do Mỹ cung cấp, toàn bộ vũ khí cho quân ngụy do Mỹ trang bị, toàn bộ công việc huấn luyện, đào tạo, chỉ huy do Mỹ chỉ đạo. Mỹ nắm lấy toàn bộ việc điều hành ở miền Nam, còn ngụy VNCH chỉ là con rối do Mỹ giật dây (điều này ngay cả các tướng lĩnh trong quân ngụy cũng đã thừa nhận, ngay các đời Tổng thống của Mỹ cũng đã khẳng định). Phải chăng nếu không có việc khi Mỹ giảm viện trợ thì Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn là Nguyễn Văn Thiệu đã không kêu gào “nếu Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau ba giờ chúng tôi sẽ rời khỏi dinh Độc Lập “. Vậy Mỹ tham gia cuộc chiến hay là kẻ gây ra cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo nhất trong lịch sử thế giới này?

      Khi nguy cơ chế độ tay sai sẽ sụp đổ, chiến lược chiến tranh đặc biệt đứng trước sự phá sản không thế ngăn chặn, Mỹ vội vã thay đổi chiến lược sang chiến tranh cục bộ, hơn nữa triệu quân Mỹ và gần một chục vạn quân chư hầu của nhiều nước trực tiếp nhảy vào miền Nam Việt Nam, mở rộng chiến tranh ra miền Bắc gây ra tội ác tày trời vời hàng triệu lít chất độc hủy diệt sự sống mà đến hôm nay vẫn còn hàng triệu nạn nhân bị di chứng chất độc da cam, trên 7,5 triệu tấn bom đạn (gấp nhiều lần số lượng bom đạn của toàn bộ Thế chiến hai, bằng 375 quả bom nguyên tử Mỹ thả xuống hai thành phố của nước Nhật) rải xuống đất nước ta, nhiều cuộc thảm sát dân thường, giết hại hàng loạt đồng bào ta từ Vĩnh Trinh, Chợ Được, Ngân Sơn – Chí Thạnh, Bình Thành , Phú Lợi , và rất nhiều vụ khác do quân ngụy gây ra đến hàng loạt vụ do quân Mỹ và chư hầu : Hoà Mỹ, Thái Bình, Tây Vinh, Sơn Mỹ, Thạnh Phong, khu phố Khâm Thiên … mà không bút mực nào có thể liệt kê hết các vụ giết hại dã man từ vài chục cho đến hàng ngàn người. Vậy phải chăng tội ác có thể khẳng định “ trời không dung, đất không tha ấy “ đế quốc Mỹ chẳng liên can?

      Xóa
    2. Còn bảo Việt Nam và Mỹ đều có sai lầm trong quá khứ , mà quá khứ ở đây là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta, vậy ta đánh Mỹ là sai lầm hay sao? Đây chỉ là quan điểm sai trái, phản động của bọn cơ hội trở cờ còn không ai được phép cho rằng cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là sai lầm. Thế nhưng cũng có một số nhà sử gia cho rằng trong chống Mỹ có những thời điểm chúng ta phạm sai lầm, họ đưa ra hai sự kiện: Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 và Chiến dịch giải phóng Quảng Trị 1972. Họ so sánh sự tổn thất của hai bên địch – ta để từ đó cho rằng sự hy sinh quá lớn không cần thiết đây là những sai lầm, vậy có đúng như họ nói hay không? Chúng ta có thể khẳng định một điều không có thắng lợi nào trong chiến tranh mà không có tổn thất hy sinh và chảng có thành công nào mà không có những mặt cần phải rút ra kinh nghiệm và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là sự đụng đầu lịch sử giữa một bên là sức mạnh vũ khí lớn nhất thế giới với một bên là sức mạnh tinh thần vĩ đại, với lòng yêu nước thiết tha, ý chí kiên cường vì độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc, sự đối đầu bất tương xứng như vậy thử hỏi làm sao không tổn thất hy sinh, và cái giá của sự hy sinh đó mới có một cục diện chiến trường thay đổi có lợi cho ta, nếu không có Mậu thân 1968 thì sẽ không có việc buộc Mỹ xuống thang chiến tranh, ngồi vào bàn Hội nghi Pari và buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược, không có một mùa hè đỏ lửa 1972 Quảng Trị thì làm sao có việc buộc Mỹ phải chuẩn bị ký Hiệp đinh Pari công nhận độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của một nước Việt Nam thống nhất dự kiến vào tháng 10/1972 (tất nhiên sau đó Mỹ lật lọng vì sự cố đấm ăn xôi và sự phản bội của bạn bè để buộc ta phải làm nên một Điện Biên Phủ trên không đánh bại Chiến dịch “ Cứu bóng trước khung thành 2 “ của Mỹ ) và không có các chiến thắng như trên làm sao chúng ta có thể “ Đánh cho Mỹ cút , đánh cho ngụy nhào “, làm sao có thể thu non sông về một mối, để đất nước hoà bình, thống nhất , độc lập, tự do, đang vững bước tiến lên như ngày hôm nay?
      Từ những vấn đề nêu trên, xin hỏi những ai có cách nhìn như vậy: Đã là cơ quan ngôn luận của Đảng, của Nhà nước thì phải nói và làm theo Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Vậy Đảng ta có lúc nào trong Nghị quyết nói từ 1955-1975 Mỹ chỉ tham gia vào cuộc chiến tranh Việt Nam hay là nói Cuộc kháng chiến chống Mỹ là sai lầm, nói cuộc Tổng tấn công mùa Xuân 1968 và Chiến dịch Bảo vệ Thành cổ Quảng trị là sai lầm; nói trên lãnh thổ Việt Nam sau 1954 đến 1975 có hai quốc gia song song tồn tại không? Đã là cán bộ, đảng viên của Đảng thì phải học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vậy trong tư tưởng của Bác Hồ có lúc nào Người khẳng định Mỹ chỉ tham gia vào cuộc chiến tranh tại Việt Nam từ 1955-1975 không? Có lúc nào Người thay đổi ý chí Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một hay không? Chắc chắn là không có, vậy báo chí và đảng viên, cán bộ nói trái Nghị quyết, nói trái tư tưởng của Bác Hồ thì có làm đúng mục đích tôn chỉ của báo chí và có xứng đáng là người cán bộ đảng viên của Đảng hay không?

      Chúng tôi đòi hỏi các Cơ quan có trách nhiệm của Đảng phải xử lý nghiêm túc những sai phạm nghiêm trọng nêu trên để lịch sử dân tộc mãi mãi ngời sáng; để những ai cố tình xuyên tạc bóp méo lịch sử sẽ không còn chỗ để nói càn, viết ẩu!

      Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn

      Xóa
  5. Xem mấy tấm hình cuối, kể cũng tội nghiệp cho các cụ cờ vàng chen chúc lên tàu chạy trốn khỏi Đà Nẵng...
    Làm thân đánh thuê cho chủ Mẽo là vậy.
    Bọn nguỵ Kiev bây giờ cũng vậy thôi!

    Trả lờiXóa