Chủ Nhật, 21 tháng 12, 2025

Cuối tuần: GOOGLE.TIENLANG GIÚP PTT MAI VĂN CHÍNH ÔN LẠI BÀI HỌC LỊCH SỬ CỦA QUÊ HƯƠNG ÔNG - HUYỆN ĐỨC HOÀ, LONG AN

Không chỉ các Cựu Chiến binh mà là tất cả những người yêu nước Việt đều yêu cầu Phó Thủ tướng Mai Văn Chính phải trả lời cho câu hỏi: Tại sao vinh danh "Nỗi buồn chiến tranh" - một tác phẩm xuyên tạc bịa đặt cuộc Kháng chiến Chống Mỹ cứu nước? 

Dẫu ông Mai Văn Chính sinh sau đẻ muộn (Sn 1961) nên không tham gia cuộc Kháng chiến Chống Mỹ cứu nước, nhưng ngay từ khi làm Chuyên viên bộ phân Nghiên cứu, Văn phòng UBND tỉnh Long An (11/1983 – 02/1985) thì ông buộc phải biết cuộc Kháng chiến Chống Mỹ cứu nước không phải là NỘI CHIẾN như Bảo Ninh xuyên tạc! 

Xem video clip Bảo Ninh xuyên tạc cuộc Kháng chiến Chống Mỹ cứu nước của cả Dân tộc Việt Nam là NỘI CHIẾN:

Trước khi tiếp tục đọc bài mới, kính mời mọi người coi lại bài Bài gây bão mạng: TRUNG TƯỚNG NGUYỄN THANH TUẤN YÊU CẦU KIỂM TRA, XỬ LÝ BỘ SÁCH LỊCH SỬ DO GS PHAN HUY LÊ LÀM TỔNG CHỦ BIÊN 

 cùng một vài bài khác: 

1. TẠI SAO CHƯA BẮT ĐÀM BÍCH THUỶ (FULBRIGHT) VÀ BẢO NINH (NỖI BUỒN CHIẾN TRANH) NHỈ?

Phó Thủ tướng Mai Văn Chính Sinh năm 1961 ở huyện Đức Hoà (tỉnh Long An) – một địa danh giàu truyền thống cách mạng. Nhưng rất tiếc, bản thân ông Mai Văn Chính lại … quên bài học truyền thống cha ông nên ngày nay ông không thể biết rằng cuộc chiến 1955 – 1975 có phải là cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hay chỉ là cuộc NỘI CHIẾN Quốc – Cộng như Bảo Ninh Nỗi buồn chiến tranh xuyên tạc bịa đặt!

Về huyện Đức Hoà - quê hương của ông Mai Văn Chính, Google.tienlang đã có dịp giới thiệu. Trích: “Google.tienlang mời các bạn cùng nghệ sĩ Thanh Tuấn và Thanh Kim Huệ trở lại làng Mỹ Hạnh- quê hương của “Cô gái tưới đậu”, cô gái “Có đôi mắt nhung thâm thấp trung trung mà nhiều chiến công ngang tầm dũng sĩ” và cũng là cô gái “Đánh xong Mỹ cút ngụy nhào/Vàng mơ ruộng lúa, hoa màu vượt lên"…

Xem bài vào Chủ Nhật, 18 tháng 4, 2021 với tiêu đề Chuẩn bị đón Ngày Lễ 30/4: “CÔ GÁI TƯỚI ĐẬU”- CA KHÚCSAU GIẢI PHÓNG SẼ SỐNG MÃI VỚI THỜI GIAN

https://googletienlang2014.blogspot.com/2021/04/chuan-bi-on-ngay-le-304-co-gai-tuoi-au.html

Ngày nay, từ huyện Đức Hoà (Long An) đến Tp Hồ Chí Minh giao thông cực kỳ thuận tiện. Từ huyện Đức Hoà, ta có thể đi theo Tỉnh lộ số 10 vượt 30 km là đến quận Bình Tân Tp Hồ Chí Minh. Sân bay Tân Sơn Nhất nằm ở quận Bình Tân. Từ trung tâm quận Bình Tân, muốn đến sân bay Tân Sơn Nhất, ta có thể rẽ sang đường Trường Chinh, thêm 10 km nữa là đến Sân bay.

Khu vực xã Mỹ Hạnh (Đức Hoà – Long An) ngày xưa là rừng rậm nên đình Mỹ Hạnh được mấy chú, mấy bác làm cách mạng chọn là địa điểm tổ chức các cuộc họp, xuất quân. Đặc biệt, đình được chọn là nơi thành lập lực lượng giải phóng quân liên quận vì Đức Hòa vốn giáp TP.HCM”. Chú Mười, trưởng Ban quản lý đình nói rằng, tên ấp Tràm Lạc có nghĩa là khu vực rất dễ bị lạc trong rừng tràm. Tên ấp đã nói lên địa thế của vùng trong những năm kháng chiến.

Đình làng Mỹ Hạnh huyện Đức Hoà, Long An

Chính tại Đình Mỹ Hạnh, Tiểu đoàn 16, Phân khu 2 Long An đã chọn làm nơi ém quân và xuất phát đi đánh chiếm Sân Bay Tân Sơn Nhất trong Tết Mậu Thân 1968 – trận đánh huyền thoại của những Anh Giải phóng quân Việt Nam ...

Tiểu đoàn 16 với những trận đánh làm nên huyền thoại

Được thành lập và chiến đấu thời gian không lâu, nhưng Tiểu đoàn 16, Phân Khu 2, Long An đã đóng góp nhiều chiến công quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Tiểu đoàn anh hùng

Trong nhiều chiến công anh dũng của Tiểu đoàn 16, có thể nói trận đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 là mang lại tiếng vang hơn cả. Tiểu đoàn 16 được thành lập vào tháng 9 năm 1965, tiền thân là Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 24, Sư đoàn 304B thuộc Quân khu 3.

Các chiến sĩ trong tiểu đoàn phần lớn là người quê gốc Nam Định và Hà Nam giàu truyền thống cách mạng. Gần 2 năm sau ngày thành lập, Tiểu đoàn 5 nhận được lệnh chi viện cho chiến trường miền Nam và sau đó Bộ Tư lệnh Miền giao đơn vị cho Quân khu 7 với phiên hiệu Tiểu đoàn 16 Tây Ninh.

Bắt đầu từ tháng 7/1967, Tiểu đoàn 16 Tây Ninh nhận sự chỉ huy trực tiếp của Quân ủy Miền hành quân về chiến trường tỉnh Long An để chuẩn bị cho chiến dịch xuân Mậu Thân, đơn vị lại có phiên hiệu Tiểu đoàn 16 Long An. Cũng từ thời gian này, trên chiến trường Long An - Sài Gòn - Tây Ninh, Tiểu đoàn 16 đã lập nhiều chiến công vang dội trong hơn 250 trận đánh lớn nhỏ. Đơn vị được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Anh hung Lực lượng Vũ trang Nhân dân vào năm 2013.

Nổi bật trong số đó phải kể đến là trận đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Lúc bấy giờ, chỉ còn 1 tháng nữa Tiểu đoàn 16 vừa thực địa chiến trường đồng bằng, vừa huấn luyện, sắp xếp lực lượng, củng cố để chuẩn bị nhận nhiệm vụ quan trọng.

Ngày 28 tết Mậu Thân (tức ngày 29/1/1968), trong không khí chuẩn bị đón tết, toàn đơn vị nhận được lệnh hành quân vượt sông Vàm Cỏ Đông để đến đêm có mặt tại chiến trường ở đình Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Đến 16 giờ ngày 30/1, chỉ huy D16 nhận lệnh Tổng công kích- Tổng khởi nghĩa của Bộ Chỉ huy miền, D16 được biên chế vào đội hình Trung đoàn E31 của Phân khu 2 Long An đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất. Nhiệm vụ D16 được giao đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất từ góc Tây Nam, sau đó tiến sang đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu Ngụy rồi phát triển sâu vào nội đô và hội quân tại dinh Độc Lập.

Oai hùng trận đánh sân bay Tân Sơn Nhất

Nhớ lại thời gian đó, cựu chiến binh Bùi Hồng Hà (quê huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định) cho biết: “Sau khi nhận lệnh, toàn đơn vị phải chôn toàn bộ quân tư trang, chỉ được phép đem theo 1 võng, 1 ni-lông, 1 quần cộc và vũ khí cùng cơ số đạn chiến đấu. Tôi thuộc Khẩu đội cối 82 của đơn vị được giao vác nòng súng và kính ngắm có trọng lượng 21kg. cựu binh Bùi Hồng Hà kể.

Toàn đơn vị cấp tốc hành quân vừa đi, vừa chạy từ Mỹ Hạnh (Đức Hòa, Long An) vượt bưng Bình Thủy (Cần Thơ) qua Tân Hòa, Vĩnh Lộc, Sài Gòn tiến thẳng về sân bay Tân Sơn Nhất. Khoảng 23 giờ 30 phút đêm 30-1, toàn bộ d16 đã áp sát sân bay Tân Sơn Nhất gần Hãng dệt Vinatexco, triển khai trận địa chờ giờ G (24 giờ ngày 30-1-1968, tức Giao thừa) thì nổ súng đánh địch”.

Theo kế hoạch tác chiến, đúng giờ G, pháo binh DKB của Bộ Tư lệnh miền sẽ bắn vào sân bay. Đây được hiểu như là tiếng súng phát lệnh tiến công cho cả 5 cánh quân đánh vào Sài Gòn. Thế nhưng, giờ G trôi qua, sân bay Tân Sơn Nhất vẫn yên tĩnh. Bên trong Sài Gòn, các đơn vị nội thành đã nổ súng. Lúc ấy không ai biết vì sao pháo binh của ta không bắn vào được sân bay.

Như vậy là trận đánh không có pháo bắn chuẩn bị như dự kiến ban đầu. Lúc này, Bộ chỉ huy Phân khu 2 buộc phải sử dụng cối 82 ly bắn vào sân bay và Tiểu đoàn 16 chỉ bắn được 24 quả thì hết đạn.

Đơn vị được chia làm 2 bộ phận, C dự bị và trợ chiến bố trí ở khu vực hãng dệt Vinatexco do đồng chí tiểu đoàn phó Phan Thái Nguyên chỉ huy, cách sân bay khoảng 1km. Mũi chủ công do D trưởng Nam Sơn và chính trị viên Nguyễn Văn Sáu chỉ huy thọc sâu từ hướng Tây vào sân bay Tân Sơn Nhất. Trận đánh chiếm lô cốt góc Tây Nam sân bay diễn ra rất cam go.

Các C bộ binh 1 và 2 cắt và vượt qua 21 hàng rào kẽm gai ở góc tây nam sân bay Tân Sơn Nhất và chia làm hai cánh đông và tây tiến đánh thẳng vào đường băng và nơi để máy bay. C1 theo đường tuần tra bên phải tiến vô đánh chiếm được 2 nhà để máy bay, đẩy bọn địch vô phía trong.

Tiếng súng các loại của quân ta làm chấn động cả sân bay, từng cột lửa liên tiếp bùng lên đốt cháy nhiều máy bay và xe tăng định. Ở mũi tiến công của C1 đánh chiếm đường băng và khu để máy bay địch, Chính chị viên phó Nguyễn Văn Mẹo đã hy sinh trong tư thế rất đặc biệt dựa vào xác chiếc xe tăng M113 bị quân ta bắn hỏng, vẫn kẹp súng AK trong tay chĩa họng súng như chờ quân địch đến gần để nhả đạn.

Trận chiến khốc liệt diễn ra đến hết ngày 31/1/1968, cả ba C bộ binh và các lực lượng bên ngoài sân bay Tân Sơn Nhất của Tiểu đoàn 16 lúc này còn khoảng trên 100 chiến sĩ nhưng tất cả vẫn quyết bám trụ, tiêu diệt nhiều quân và xe tăng của địch.

Chính sự hy sinh anh dũng của đồng chí Nguyễn Văn Mẹo là cảm hứng để Anh hùng liệt sĩ, nhà thơ Lê Anh Xuân sáng tác bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” nổi tiếng đến tận ngày nay:

Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất

Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng

Và Anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.

Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng

Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn

Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm

Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công

Anh tên gì hỡi Anh yêu quý

Anh vẫn đứng lặng im như bức tường đồng

Như đôi dép dưới chân Anh dẫm lên bao xác Mỹ

Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong

Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ

Anh chẳng để lại gì cho Anh trước lúc lên đường

Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ:

Anh là chiến sỹ giải phóng quân.

Tên Anh đã thành tên đất nước

Ôi anh Giải phóng quân!

Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất

Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”.

Mời xem/nghe video clip ca khúc Dáng đứng Việt Nam, thể hiện Ca sĩ Hoàng Viết Danh

https://www.youtube.com/watch?v=zy-c20fAOCw

Cuộc kháng chiến chống Mỹ vĩ đại của dân tộc ta đã đi vào thơ ca như một huyền thoại. Và trong cuộc trường chinh ấy đã có bao lớp thế hệ thanh niên sẵn sàng ra mặt trận cầm súng để bảo vệ Tổ Quốc, trong đó có những người mang danh hiệu “nhà thơ- chiến sĩ”. Đã có rất nhiều nhà thơ của chúng ta đã ngã xuống trên chiến trường như một người lính như nhà thơ Hoàng Lộc, nhà thơ Lê Anh Xuân... Nhắc đến nhà thơ Lê Anh Xuân người ta nhớ ngay “Dáng đứng Việt Nam”- một bài thơ mang vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

Nhà thơ, liệt sĩ Lê Anh Xuân

Lê Anh Xuân tên thật là Ca Lê Hiến, là con thứ của nhà giáo - nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng Ca Văn Thỉnh quê tỉnh Bến Tre. Năm 1954 ông cùng gia đình tập kết ra miền Bắc, được học hành đào tạo bài bản. Có lẽ vì thế nên dù là nhà sử học (ông học Đại học Tổng hợp Hà Nội, khoa Sử) nhưng lại bén duyên và bộc lộ tài năng với thơ ca rất sớm. Năm 1964 ông được trở về miền Nam quê hương, công tác ở tiểu ban Giáo dục rồi sau đó chuyển về Hội Văn nghệ giải phóng. Trong gia sản thơ của mình, Lê Anh Xuân sáng tác nhiều bài thơ về quê hương, đất nước, con người Việt Nam như: Nhớ mưa quê hương (1961), Trở về quê nội (1965), Nguyễn Văn Trỗi (Trường ca-1968) … Lê Anh Xuân hy sinh tại ấp Phước Quảng, xã Phước Lợi, huyện Cần Đước, tỉnh Long An vào ngày 24/5/1968 sau một trận đối đầu với giặc Mỹ.

Ở “Dáng đứng Việt Nam”, với âm hưởng anh hùng ca, Lê Anh Xuân đã khắc chạm tư thế hy sinh hiên ngang, bất khuất của chàng trai miền Nam trong trận đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất (Xuân Mậu Thân): “Anh ngã xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất/ Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng”. Những hình ảnh diễn tả về sự hy sinh của người lính được nhà thơ khắc họa hết sức sinh động, thể hiện tinh thần yêu nước, niềm lạc quan và lòng tự hào dân tộc, làm cho kẻ thù phải khiếp sợ trước sự hy sinh đầy quả cảm và niềm tin yêu mãnh liệt vào sự tất thắng của cách mạng Việt Nam. Lịch sử sẽ không bao giờ lãng quên sự hy sinh anh dũng và thầm lặng của những chiến sĩ giải phóng quân, mặc dù có thể họ không để lại “một tấm hình” hay “một dòng địa chỉ” nhưng họ mãi mãi là những “bức tường đồng” được tôn vinh, gìn giữ và ghi nhận như những giá trị văn hóa vĩnh hằng của một dân tộc anh hùng. Và những hành động tưởng chừng như đơn giản ấy bất ngờ được nâng lên thành hình tượng cao cả, vĩ đại trở thành giá trị mới của văn hóa Việt Nam. Chính hình ảnh “Anh là chiến sĩ giải phóng quân” đã tạo nên “…cái dáng dứng Việt Nam tạc vào thế kỷ”! Thế giới đã nhìn nhận Việt Nam trong thế kỷ XX như biểu tượng của thời đại đấu tranh giải phóng dân tộc. Điều đó có lẽ đã được Nhà thơ - Liệt sĩ Lê Anh Xuân dự báo từ những vần thơ mang âm hưởng chủ đạo về sự bi tráng của chiến tranh, song vẫn toát lên sự hào hùng, lạc quan của người lính trước sự hy sinh anh dũng, thanh cao và thầm lặng để trở thành những hình tượng bất tử của dân tộc; có sức sống mãnh liệt và lan tỏa rộng lớn, mang dấu ấn thời đại sâu sắc. Hình tượng người lính được nâng lên thành biểu tượng của đất nước, của dân tộc, tỏa sáng đến hôm nay và mai sau…Bài thơ khép lại bằng hình ảnh: “Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất/ Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân” đã mở ra một chân trời mới tràn ngập niềm lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi đẹp của dân tộc Việt Nam.

Nhà thơ -chiến sĩ- liệt sĩ Lê Anh Xuân đã ra đi nhưng bút tích và trang đời của anh vẫn sống mãi. Thi phẩm của ông đã ghi dấu vào ca khúc nổi tiếng cùng tên và được nhiều ca sĩ dòng nhạc thính phòng biểu diễn trên những sân khấu lớn. Tổ quốc hôm nay đang bay lên trong mùa xuân mới: mùa xuân của hoà bình, hợp tác và hữu nghị. Thắng lợi của ngày nay được vun trồng bởi máu xương của ngày hôm qua. Bài thơ nhắc nhở ta về một thái độ sống có trách nhiệm đối với những người đã ngã xuống cho bầu trời Tổ quốc thêm xanh.

Nguyễn Hoàng Thư Lê - Cộng tác viên Văn hoá - Văn nghệ của Google.tienlang

Kính mời xem các bài liên quan:

3 nhận xét:

  1. Lonely memorial for China's forgotten war -Đài tưởng niệm cô độc dành cho cuộc chiến bị lãng quên của Trung Quốc.
    Thứ Sáu, ngày 30 tháng 3 năm 2007
    https://ki-media.blogspot.com/2007/03/lonely-memorial-for-chinas-forgotten.html
    Tác giả Benjamin Morgan

    MALIPO, Trung Quốc (AFP) - Như những người lính canh gác, những cây thông vững chãi tại nghĩa trang Malipo phủ bóng mát lên những hàng mộ chiến sĩ tưởng niệm cuộc chiến tranh đẫm máu giữa Trung Quốc và Việt Nam.

    Những ngôi mộ ẩn mình trên sườn đồi bên ngoài thị trấn nhỏ Malipo ở vùng tây nam xa xôi, chỉ cách biên giới Trung-Việt 43 km, là lời nhắc nhở về một cuộc xung đột tốn kém mà Trung Quốc phần lớn đã chọn cách lãng quên.

    Hàng giờ liền, một người nông dân cần mẫn làm việc trên ruộng bậc thang bên dưới Nghĩa trang Liệt sĩ Malipo là dấu hiệu sự sống duy nhất, bóng dáng xa xôi của ông xa lạ với Trung Quốc hiện đại như chính thi hài của 957 nạn nhân chiến tranh được chôn cất gần đó.

    Thật không có gì đáng ngạc nhiên khi ít người đến thăm - cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam là một lịch sử bị lãng quên, chìm trong bí ẩn và cho đến nay vẫn chưa được Đảng Cộng sản cầm quyền Trung Quốc giải thích cho công chúng, những người hầu hết không biết rằng nó đã từng xảy ra.

    Những người đến thăm, như ông Lưu Minh Bang, 54 tuổi, đến để bày tỏ lòng kính trọng đối với những đồng đội đã hy sinh trong cuộc xung đột khiến hàng chục nghìn binh sĩ thiệt mạng ở cả hai phía trước khi chiến sự chính thức kết thúc vào năm 1999.

    Giống như những cựu chiến binh khác, ông Lưu, người đã hai lần thực hiện chuyến đi từ nhà mình ở tỉnh Tứ Xuyên lân cận, ngần ngại nói về một cuộc chiến dường như đạt được rất ít kết quả.

    "Nó đã qua rồi. Đó là chuyện của quá khứ và không cần phải chiến đấu nữa", cuối cùng ông Lưu nói sau nhiều lần hỏi, mắt ông long lanh xúc động.

    "Chúng tôi đã chiến đấu và nó đã kết thúc. Trung Quốc lúc đó rất hỗn loạn; có quá nhiều sự hỗn độn, quá nhiều điều tồi tệ. Đó là những thời kỳ rất khó khăn."

    Ông Lưu tự hào vì đã phục vụ đất nước nhưng dường như bị ám ảnh bởi bạo lực.

    "Những điều tôi chứng kiến ​​ở đó thật kinh khủng. Rất khó để sống chung với chúng, và điều tồi tệ nhất là sau đó tôi phải trở về và kể cho gia đình mình những gì tôi đã làm."

    Trả lờiXóa
    Trả lời


    1. Lưu An Lâm, một cựu chiến binh khác từng đóng quân ở biên giới Trung-Việt 20 năm trước, thậm chí còn ít lời hơn để giải thích những gì đã xảy ra.

      “Điều này không nên tồn tại,” ông nói, tay chỉ về phía những ngôi mộ.

      Theo hầu hết các tài liệu lịch sử, chiến tranh Trung-Việt kết thúc trong thế bế tắc tốn kém đối với Trung Quốc, cuộc tấn công của họ cho thấy điểm yếu về chiến thuật, trang thiết bị lạc hậu và sự hiểu biết kém về thông tin liên lạc trong chiến tranh hiện đại.

      Khi các hiệp ước biên giới được ký kết hai thập kỷ sau đó, Trung Quốc thống kê có 26.000 binh sĩ thiệt mạng và Việt Nam ước tính khoảng 37.000.

      Mặc dù Trung Quốc xâm lược Việt Nam vào ngày 15 tháng 2 năm 1979, phát động một cuộc chiến tranh biến thành xung đột biên giới cường độ thấp trong suốt những năm 1980, nhưng nhìn vào nghĩa trang ở Malipo, người ta hầu như không thấy được những gì đã xảy ra.

      “Kết thúc thắng lợi của cuộc chiến đã tiếp nối truyền thống cách mạng dũng cảm và vĩ đại, thể hiện chủ nghĩa anh hùng và lòng yêu nước của quân đội ta,” dòng chữ trên bức tường tưởng niệm ghi.

      “Chiến thắng là kết quả của những quyết định sáng suốt của chính phủ trung ương, kết quả của sự ủng hộ của nhân dân và kết quả của cuộc chiến đấu đẫm máu của tất cả các chiến sĩ chúng ta.”

      Khi Lưu Minh Bang xem xét các dòng chữ khắc trên các ngôi mộ chôn cất những người đồng chí của mình như những liệt sĩ cách mạng, ông đã nói về lý do của cuộc chiến, trích dẫn lý lẽ chính thức được công bố về cuộc xung đột.

      Theo các nguồn tin không phải người Trung Quốc, quyết định tấn công của Trung Quốc là để đáp trả việc Việt Nam xâm lược Campuchia vào tháng 12 năm 1978, chấm dứt sự cai trị của bạo chúa diệt chủng Pol Pot và chế độ Khmer Rouge cực đoan do Bắc Kinh hậu thuẫn.

      Quan hệ căng thẳng với Liên Xô và sự ủng hộ ngày càng công khai của Moscow đối với chính phủ Hà Nội, vốn bị Bắc Kinh coi là hiếu chiến sau chiến thắng của phe cộng sản trước Mỹ và Nam Việt Nam, là một yếu tố quan trọng khác.

      Khi Trung Quốc chính thức tuyên chiến, họ viện dẫn cáo buộc ngược đãi người Hoa ở Việt Nam và việc Hà Nội chiếm đóng quần đảo Trường Sa, một tranh chấp lãnh thổ vẫn chưa được giải quyết.

      Xu Ke, một người lính bộ binh từng tham gia trận chiến Laoshan khi căng thẳng leo thang năm 1984, và tự xuất bản một cuốn sách trên mạng có tên "Cuộc chiến cuối cùng", cho biết quyết định khơi mào chiến tranh của Bắc Kinh rất đơn giản.

      "Trung Quốc muốn trút giận lên Việt Nam vì Trung Quốc không thích việc Việt Nam liên minh với Liên Xô sau khi Trung Quốc đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều trong cuộc chiến chống lại Hoa Kỳ", Xu, 42 tuổi, nói với AFP tại Thượng Hải.

      Xu không tự nhận mình là nhà sử học, mà mô tả cuốn sách của mình là một cuốn hồi ký vì những nỗ lực tìm kiếm các sự kiện lịch sử ngắn gọn về chiến tranh trong các thư viện quốc gia, theo ông, đã bị chính quyền cản trở.

      "Hầu hết các cuốn sách về chiến tranh đã bị loại bỏ", ông nói. "Chính phủ không ủng hộ bất kỳ sự chỉ trích nào đối với chiến tranh, và về cơ bản họ hy vọng mọi người im lặng."

      Điều được ghi chép lại là bốn tuần sau khi giao tranh bắt đầu vào ngày 15 tháng 2 năm 1979, Trung Quốc đột ngột rút lui, tuyên bố chiến thắng, mặc dù các trận chiến sẽ tiếp diễn trong nhiều năm.

      Hầu hết các tài liệu lịch sử bên ngoài Trung Quốc đều cho rằng quân đội Trung Quốc không được chuẩn bị kỹ lưỡng trước quân đội Việt Nam dày dạn kinh nghiệm chiến đấu.

      Nhớ lại năm tháng giao tranh ác liệt ở Việt Nam năm 1984, Xu mô tả các cuộc tấn công của cả hai bên đều dữ dội nhưng không phân thắng bại.

      "Quân đội Việt Nam rất mạnh, không dễ đánh bại. Họ đã chiến đấu nhiều năm và rất giàu kinh nghiệm."

      Xóa
    2. Thứ Năm, 13 tháng 2, 2014
      ĐCS TQ: HÈN VỚI GIẶC (VN), ÁC VỚI DÂN (TQ)

      https://googletienlang2014.blogspot.com/2014/02/cs-tq-hen-voi-giac-vn-ac-voi-dan-tq.html?sc=1766335181331#c3934944444027680394

      Xóa