PRESS
RELEASE
1
THE SOUTH CHINA SEA ARBITRATION
(THE REPUBLIC OF THE PHILIPPINES V. THE PEOPLE’S REPUBLIC OF CHINA)
The Hague, 12 July 2016
The Tribunal Renders Its Award
A unanimous Award has been issued today by
the Tribunal constituted under Annex
VII to the United
Nations
Convention on the Law of the Sea (the “Convention”) in the arbitration
instituted by the Republic of the Philippines against the People’s Republic of
China. This arbitration concerned the role of historic rights and the source of
maritime entitlements in the South China Sea, the status of certain maritime
features and the maritime entitlements they are capable of generating, and the
lawfulness of certain actions by China that were alleged by the Philippines to
violate the Convention. In light of limitations on compulsory dispute
settlement under the Convention, the Tribunal has emphasized that it does not
rule on any question of sovereignty over land territory and does not delimit
any boundary between the Parties.
China
has repeatedly stated that “it will neither accept nor participate in the
arbitration unilaterally initiated by the Philippines.” Annex VII, however,
provides that the “[a]bsence of a party or failure of a party to defend its
case shall not constitute a bar to the proceedings.” Annex VII also provides
that, in the event that a party does not participate in the proceedings, a
tribunal “must satisfy itself not only that it has jurisdiction over the
dispute but also that the claim is well founded in fact and law.” Accordingly,
throughout these proceedings, the Tribunal has taken steps to test the accuracy
of the Philippines’ claims, including by requesting further written submissions
from the Philippines, by questioning the Philippines both prior to and during
two hearings, by appointing independent experts to report to the Tribunal on
technical matters, and by obtaining historical evidence concerning features in
the South China Sea and providing it to the Parties for comment.
China has also made clear—through
the publication of a Position Paper in December 2014 and in other official
statements—that, in its view, the Tribunal lacks jurisdiction in this matter. Article
288 of the Convention provides that: “In the event of a dispute as to
whether a court or tribunal has jurisdiction, the matter shall be settled by
decision of that court or tribunal.” Accordingly, the Tribunal convened a
hearing on jurisdiction and admissibility in July 2015 and rendered an Award on Jurisdiction and
Admissibility on 29 October 2015, deciding some issues of jurisdiction and
deferring others for further consideration. The Tribunal then convened a
hearing on the merits from 24 to 30 November 2015.
The Award of today’s date
addresses the issues of jurisdiction not decided in the Award on Jurisdiction
and Admissibility and the merits of the Philippines’ claims over which the
Tribunal has jurisdiction. The Award is final and binding, as set out
in
Article
296 of the Convention and
Article
11 of Annex VII.
Historic Rights and the
‘Nine-Dash Line’: The Tribunal found that it has jurisdiction to consider the
Parties’ dispute concerning historic rights and the source of maritime
entitlements in the South China Sea.
On the merits, the Tribunal
concluded that the Convention comprehensively allocates rights to maritime
areas and that protections for pre-existing rights to resources were
considered, but not adopted in the Convention. Accordingly, the Tribunal
concluded that, to the extent China
had historic rights to resources in the waters of the South
China Sea, such rights were extinguished to the extent they were
incompatible with the exclusive economic zones provided for in the Convention.
The Tribunal also noted that, althoughl.
Xem toàn văn
Thông cáo Báo chí PCA ngày 12/7/2016 tại đây:
http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:ejsiGsn8800J:thediplomat.com/wp-content/uploads/2016/07/thediplomat_2016-07-12_09-15-37.pdf+&cd=2&hl=vi&ct=clnk&client=firefox-b
Hoặc tại Đây: https://drive.google.com/file/d/0B_Vobbbee7gydVBWblV2aWJpMms/view
Hoặc tại Đây: https://drive.google.com/file/d/0B_Vobbbee7gydVBWblV2aWJpMms/view
Bản dịch sang tiếng Việt:
THÔNG CÁO BÁO CHÍ
Toà Trọng tài Biển Đông
(Cộng hoà Philippines và
Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa)
La Hay, ngày 12 tháng 7 năm 2016
Toà Trọng tài ban hành phán quyết
Phán quyết được Toà Trọng tài
thành lập theo Phụ lục VII, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (sau đây gọi là
"Công ước") trong vụ kiện giữa Cộng hoà Philippines và Cộng hoà Nhân
dân Trung Hoa (sau đây gọi là 'Philippines' và 'Trung Quốc') hoàn toàn nhất trí
thông qua và ban hành.
Vụ kiện trọng tài này liên quan
đến vai trò của các quyền lịch sử và nguồn xác định quyền hưởng các vùng biển
tại Biển Đông, quy chế của một số cấu trúc cụ thể và các vùng biển của các cấu
trúc này và tính hợp pháp của các hành vi của Trung Quốc mà Philippines cho là
vi phạm Công ước.
Phù hợp các giới hạn của cơ chế
giải quyết tranh chấp bắt buộc của Công ước, Toà Trọng tài đã nhấn mạnh Toà
không phán quyết các vấn đề liên quan đến chủ quyền đối với các vùng lãnh thổ
đất liền và không tiến hành phân định bất kỳ một ranh giới trên biển nào giữa
các bên của vụ kiện.
Trung Quốc đã nhiều lần tuyên bố
'nước này không chấp nhận cũng như không tham gia vào tiến trình trọng tài do Philippines đơn
phương khởi xướng'. Tuy nhiên, Phụ lục VII quy định rằng "việc vắng mặt
của một bên hoặc việc một bên không thực hiện việc biện hộ không tạo nên bất kỳ
rào cản nào cho tiến trình tố tụng".
Phụ lục VII cũng quy định rằng
trong trường hợp một bên không tham gia vào tiến trình tố tụng, Toà Trọng tài
"phải chắc chắn rằng Toà có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp cũng như
nội dung kiện phải được chứng minh đầy đủ cả về mặt pháp lý và thực tế".
Theo đó, trong suốt quá trình tố
tụng, Toà Trọng tài đã thực hiện các biện pháp cần thiết để kiểm tra tính xác
thực của các đệ trình do Philippines đưa ra, bao gồm cả việc yêu cầu
Philippines cung cấp thêm các lập luận, đặt ra các câu hỏi cho Philippines
trước và trong hai phiên tranh tụng, chỉ định các chuyên gia độc lập có nhiệm
vụ báo cáo Toà về các vấn đề kỹ thuật và thu thập các bằng chứng về mặt lịch sử
liên quan đến các cấu trúc tại Biển Đông và chuyển các bằng chứng này để các
bên bình luận.
Trung Quốc, thông qua Bản Tuyên
bố lập trường ban hành tháng 12/2014 cũng như các tuyên bố chính thức khác,
cũng tuyên bố rõ ràng rằng theo quan điểm của nước này, Toà Trọng tài không có
thẩm quyền giải quyết vụ kiện. Điều 288 của Công ước quy định "Trong
trường hợp xảy ra tranh chấp về việc liệu một toà hay một cơ quan trọng tài có
hay không có thẩm quyền, vấn đề này sẽ do chính toà hay cơ quan trọng tài đó
quyết định".
Theo đó, Toà Trọng tài đã tổ chức
một phiên tranh tụng về thẩm quyền và khả năng thụ lý vụ việc vào tháng 7/2015
và ban hành một Phán quyết về thẩm quyền và khả năng thụ lý vụ việc vào ngày
29/10/2015, quyết định về một số vấn đề liên quan đến thẩm quyền và sẽ để lại
một số vấn đề để tiếp tục xem xét. Toà Trọng tài sau đó tiếp tục triệu tập
và tổ chức một phiên tranh tụng về các vấn đề nội dung của vụ kiện từ ngày 24 đến
30/11/2015.
Phán quyết được ban hành hôm nay
giải quyết các vấn đề về thẩm quyền mà Toà chưa quyết định trong Phán quyết về
thẩm quyền và khả năng thụ lý vụ việc cũng như giải quyết các vấn đề về nội
dung thực chất đối với các yêu cầu của Philippines nằm trong thẩm quyền của
Toà. Theo quy định tại Điều 296 của Công ước và Điều 11 của Phụ lục VII Phán
quyết này có tính ràng buộc pháp lý và có tính chung thẩm.
Quyền lịch sử và "đường 9
đoạn"
Toà Trọng tài nhận thấy có thẩm
quyền để xem xét tranh chấp giữa các bên liên quan đến quyền lịch sử và nguồn
của quyền hưởng các vùng biển tại Biển Đông. Về mặt nội dung thực chất, Toà kết
luận rằng Công ước quy định một cách toàn diện về các quyền đối với các vùng
biển và việc bảo vệ các quyền tồn tại trước Công ước liên quan đến tài nguyên
đã được xem xét nhưng chúng không được thông qua và quy định tại Công ước.
Theo đó, Tòa kết luận rằng trong
phạm vi quyền lịch sử của Trung Quốc đối với các nguồn tài nguyên trong các
vùng biển ở Biển Đông, quyền này bị xóa bỏ do chúng không phù hợp với chế định
vùng đặc quyền kinh tế trong Công ước.
Toà cũng nhận thấy dù trong lịch
sử, những người đi biển cũng như ngư dân từ Trung Quốc cũng như từ các nước
khác đã sử dụng các đảo tại Biển Đông nhưng không có bất kỳ bằng chứng nào cho
thấy về mặt lịch sử Trung Quốc đã chỉ một mình thực hiện việc kiểm soát vùng
nước này cũng như tài nguyên tại đây. Vì vậy, Toà kết luận không có cơ sở pháp
lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển
phía bên trong "đường 9 đoạn".
Quy chế của các cấu trúc
Tiếp theo, Toà Trọng tài xem xét
đến quyền hưởng các vùng biển và quy chế của các cấu trúc. Trước tiên, Toà tiến
hành đánh giá liệu một số bãi do Trung Quốc yêu sách có nổi khi thuỷ triều lên
đỉnh hay không. Các cấu trúc nổi khi thủy triều lên cao sẽ tạo ra quyền ít nhất
đối với lãnh hải 12 hải lý trong khi các cấu trúc chìm khi thuỷ triều lên cao
sẽ không tạo ra quyền như vậy.
Toà nhận thấy rằng các bãi này đã
bị làm biến đổi mạnh mẽ do việc bồi đắp, xây dựng và Toà cũng nhắc lại rằng
Công ước phân loại các cấu trúc dựa trên điều kiện tự nhiên của chúng và dựa
vào các tài liệu lịch sử để đánh giá các cấu trúc. Sau đó, Toà tiến hành đánh
giá liệu các có cấu trúc nào trong số các cấu trúc do Trung Quốc yêu sách có
thể tạo ra vùng biển ngoài phạm vi 12 hải lý không.
Theo Công ước, các đảo tạo ra
vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa nhưng các "đảo đá không
thích hợp cho con người đến ở và có đời sống kinh tế riêng không có vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa". Toà kết luận rằng quy định này phụ thuộc
vào khả năng khách quan của các cấu trúc khi chúng ở tình trạng tự nhiên để có
thể duy trì một cộng đồng dân cư ổn định hoặc các hoạt động kinh tế mà không
phụ thuộc vào các nguồn lực từ bên ngoài hoặc hoàn toàn chỉ có tính chất khai
thác.
Toà cũng nhận thấy rằng sự có mặt
của các nhân viên công vụ trên các cấu trúc là phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ bên
ngoài và không phản ánh khả năng của các cấu trúc. Toà cũng thấy rằng các bằng
chứng lịch sử có ý nghĩa hơn và nhận thấy quần đảo Trường Sa trong lịch sử được
sử dụng bởi một số nhóm nhỏ các ngư dân và rằng đã có một vài hoạt động khai
thác phân dơi và đánh cá của Nhật Bản.
Toà kết luận rằng việc sử dụng
ngắn hạn như vậy không phải là sự định cư của một cộng đồng ổn định và rằng các
hoạt động kinh tế trong lịch sử chỉ là hoạt động mang tính khai thác. Theo đó,
Toà kết luận rằng không một cấu trúc nào tại Trường Sa có khả năng tạo ra các
vùng biển mở rộng.
Toà cũng quyết định rằng các đảo
Trường Sa không thể cùng nhau tạo ra các vùng biển như một thực thể thống nhất.
Trên cơ sở kết luận không một cấu trúc nào mà Trung Quốc yêu sách có khả năng
tạo ra vùng đặc quyền kinh tế, Toà nhận thấy Tòa có thể không cần phải phân
định ranh giới biển mà vẫn có thể tuyên bố rằng một số vùng biển nằm trong vùng
đặc quyền kinh tế của Philippines vì không bị chồng lấn với bất cứ quyền hưởng
vùng biển nào mà Trung Quốc có thể có.
Tính hợp pháp của các hoạt
động của Trung Quốc
Tiếp theo, Toà xem xét tới tính
hợp pháp của các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông.
Nhận thấy rằng các vùng nhất định
nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, Toà cho rằng Trung Quốc đã vi
phạm quyền chủ quyền của Philippines trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này
bằng việc (a) can thiệp vào hoạt động đánh cá và thăm dò dầu khí của
Philippines, (b) xây dựng đảo nhân tạo và (c) không ngăn chặn ngư dân Trung
Quốc đánh bắt ở khu vực này.
Toà cũng khẳng định rằng ngư dân
từ Philippines (cũng như ngư dân từ Trung Quốc) đã có quyền đánh cá
truyền thống ở Bãi Scarborough và rằng Trung Quốc đã ngăn chặn các quyền này
bằng cách hạn chế việc tiếp cận khu vực này. Toà cũng khẳng định rằng các tàu
chấp pháp của Trung Quốc gây ra một rủi ro va chạm nghiêm trọng một cách bất hợp
pháp khi họ đã trực tiếp cản trở các tàu của Philippines.
Gây hại cho môi trường biển
Toà xem xét ảnh hưởng với môi
trường biển của các hoạt động bồi đắp và xây dựng nhân tạo của Trung Quốc trên
7 cấu trúc thuộc quần đảo Trường Sa gần đây và nhận thấy rằng Trung Quốc đã gây
hại nghiêm trọng với môi trường của các rặng san hô và vi phạm nghĩa vụ bảo tồn
và bảo vệ các hệ sinh thái dễ bị tổn thương và môi trường sống của các loài
đang suy yếu, bị đe doạ và bị huỷ diệt.
Toà cũng cho rằng nhà chức trách
Trung Quốc nhận thức được việc ngư dân Trung Quốc đã đánh bắt các loài rùa
biển, san hô và trai khổng lồ quý hiếm trên diện rộng ở Biển Đông (bằng các
biện pháp gây ra tổn hại nghiêm trọng với môi trường rặng san hô) và đã không
thực hiện các nghĩa vụ của nước này trong việc ngăn chặn và chấm dứt các hoạt
động này.
Làm trầm trọng thêm tranh chấp
Cuối cùng, Toà xem xét liệu các
hoạt động của Trung Quốc kể từ khi Toà bắt đầu xem xét vụ việc có làm trầm
trọng thêm tranh chấp giữa các bên hay không.
Toà nhận thấy rằng Toà thiếu thẩm
quyền để xem xét tác động của vụ đối đầu giữa tàu hải quân của Philippines và
tàu hải quân và chấp pháp của Trung Quốc ở Bãi cạn Second Thomas, cho rằng
tranh chấp này liên quan đến các hoạt động quân sự và do vậy, nằm ngoài cơ chế
giải quyết tranh chấp bắt buộc.
Tuy nhiên, Toà nhận thấy rằng
việc bồi đắp và xây dựng đảo nhân tạo trên quy mô lớn của Trung Quốc gần đây là
không phù hợp với nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước trong quá trình
giải quyết tranh chấp, trong chừng mực mà Trung Quốc đã gây ra những tác hại
không thể sửa chữa được với môi trường biển, xây dựng một đảo nhân tạo lớn
trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines và phá huỷ các bằng chứng về điều
kiện tự nhiên của các cấu trúc ở Biển Đông mà là một phần của tranh chấp giữa
các bên.
Tóm tắt mở rộng của phán quyết
của Toà sẽ được trình bày dưới đây.
Toà được thành lập vào ngày
21/6/2013, phù hợp với chu trình được quy định trong Phụ lục VII Công ước Luật
biển, để đưa ra phán quyết về tranh chấp được đệ trình bởi Philippines.
Toà bao gồm Thẩm phán người Ghana
Thomas A. Mensah, Thẩm phán người Pháp Jean-Pierre Cot, Thẩm phán người Phần
Lan Stanislaw Pawlak, Giáo sư người Hà Lan Alfred H.A. Soons và Thẩm phán người
Đức Rüdiger Wolfrum. Thẩm phán Thomas A. Mensah là Chủ tịch Tòa Trọng tài. Toà
Trọng tài Thường trực là cơ quan đăng ký trong quá trình xét xử.
Thông tin thêm về vụ việc có thể
được tìm thấy ở trang www.pcacases.com/web/view/7, bao gồm Phán quyết về Thẩm
quyền, các Quy tắc về thủ tục, các Thông cáo báo chí trước đây, biên bản phiên
toà và ảnh. Trình tự thủ tục, đệ trình bởi Philippines và các báo của chuyên gia
của Toà sẽ được công bố trong một thời gian thích hợp, cũng như bản dịch không
chính thức bằng tiếng Trung của Phán quyết của Toà.
TÓM TẮT PHÁN QUYẾT CỦA TÒA TRỌNG
TÀI VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ VÀ VỀ NỘI DUNG CÁC ĐỆ TRÌNH CỦA PHILIPPINES
1. Thông tin cơ bản về Vụ kiện
Trọng tài
Vụ kiện Trọng tài Biển Đông
giữa Philippines và
Trung Quốc liên quan đến đơn kiện của Philippines đề
nghị phán quyết về 4 vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa Philippines và
Trung Quốc ở Biển Đông.
Thứ nhất, Philippines muốn
Tòa phán quyết về nguồn luật quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trên Biển
Đông và hiệu lực của Công ước Liên hợp Quốc về Luật Biển (Công ước) đối với yêu
sách về quyền lịch sử bên trong cái gọi là "đường 9 đoạn" của Trung
Quốc.
Thứ hai, Philippines muốn
Tòa phán quyết về liệu một số cấu trúc mà cả Trung Quốc và Philippines cùng
yêu sách được xác định chính xác là đảo, đảo đá, bãi cạn lúc nổi lúc chìm hay
bãi chìm theo Công ước. Quy chế pháp lý của các cấu trúc này theo Công ước
quyết định vùng biển mà những cấu trúc đó có thể có được.
Thứ ba, Philippines muốn
Tòa phán quyết liệu một số hành động của Trung Quốc ở Biển Đông có vi phạm Công
ước không khi can thiệp vào việc Philippines thực thi các quyền chủ
quyền và quyền tự do phù hợp với Công ước, cũng như Trung Quốc đã làm tổn hại
đến môi trường biển thông qua các hoạt động đánh cá và xây dựng.
Cuối cùng, Philippines muốn
Tòa phán quyết về một số hoạt động do Trung Quốc tiến hành, cụ thể là việc cải
tạo đất quy mô lớn và xây dựng đảo nhân tạo ở Trường Sa kể từ khi vụ kiện bắt
đầu đến nay đã làm mở rộng và làm phức tạp thêm tranh chấp.
Chính phủ Trung Quốc theo quan
điểm không chấp nhận và không tham gia vào trình tự tố tụng của vụ kiện. Trung
Quốc đã nhắc lại quan điểm trong các công hàm ngoại giao, trong "Tài liệu
lập trường của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về vấn đề thẩm quyền trong
Vụ kiện Trọng tài Biển Đông do Cộng hòa Philippines khởi xướng"
đề ngày 7/12/2014 ("Tài liệu lập trường của Trung Quốc"), trong thư
của Đại sứ Trung Quốc tại Vương quốc Hà Lan gửi các thành viên của Tòa Trọng
tài và trong rất nhiều tuyên bố công khai.
Chính phủ Trung Quốc đã bày tỏ rõ
quan điểm rằng các tuyên bố và tài liệu đó "không thể được giải thích là
Trung Quốc tham gia vào quá trình tố tụng của vụ kiện dưới bất kỳ hình thức
nào".
Trong Công ước có hai điều khoản
xử lý tình huống một bên phản đối thẩm quyền của Tòa Trọng tài và từ chối tham
gia vào trình tự tố tụng.
(a) Điều 288 của Công ước quy
định "Trong trường hợp có sự tranh cãi về vấn đề một tòa án hoặc trọng tài
có thẩm quyền hay không, thì vấn đề này do tòa án đó quyết định".
(b) Điều 9 Phụ lục VII, Công ước
quy định "Khi một trong các bên trong vụ tranh chấp không ra Tòa
trọng tài hoặc không trình bày các lý lẽ của mình, thì bên kia có thể yêu cầu
Tòa tiếp tục trình tự tố tụng và ra phán quyết. Việc một bên vắng mặt hay việc
một bên không trình bày các lý lẽ của mình không cản trở cho trình tự tố tụng.
Trước khi ra phán quyết, Tòa Trọng tài cần phải biết chắc chắn rằng không những
Tòa có thẩm quyền xét xử vụ tranh chấp mà còn chắc rằng đơn kiện có cơ sở về mặt
thực tế và pháp lý".
Trong suốt quá trình tố tụng, Tòa
Trọng tài đã tiến hành một số biện pháp nhằm hoàn thành nghĩa vụ về việc phải
tự mình bảo đảm rằng Tòa có thẩm quyền và rằng nội dung kiện của Philippines là
"có cơ sở về mặt thực tế và pháp lý".
Về vấn đề thẩm quyền, Tòa đã
quyết định xem các trao đổi không chính thức của Trung Quốc tương đương với ý
kiến phản đối thẩm quyền, Tòa đã tổ chức Tranh tụng riêng về Thẩm quyền và Khả
năng thụ lý diễn ra từ ngày 7 đến 13/7/2015, đặt câu hỏi cho Philippines cả
trước và trong phiên tòa về thẩm quyền, bao gồm các vấn đề có thể chưa được nêu
trong các trao đổi không chính thức của Trung Quốc và Tòa đã ra Phán quyết về
Thẩm quyền và Khả năng thụ lý vào ngày 29/10/2015 ("Phán quyết về thẩm
quyền"), theo đó quyết định một số đệ trình mà Tòa có thẩm quyền và các đệ
trình khác được hoãn lại để xem xét chung với các vấn đề về nội dung thực chất.
Về vấn đề nội dung, Tòa đã tìm
cách kiểm tra độ xác thực của các đệ trình của Philippines bằng cách yêu cầu
nước này nộp thêm văn bản bổ sung, Tòa đã tổ chức phiên tranh tụng về riêng nội
dung thực chất diễn ra từ ngày 24 đến 30/11/2015, đặt câu hỏi cho Philippines về
những nôi dung khởi kiện cả trước và trong phiên tranh tụng, chỉ định các
chuyên gia độc lập đê báo cáo cho Tòa về các vấn đề kỹ thuật, và Toà đã thu
thập các ghi chép lịch sử, dữ liệu điều tra thủy văn về Biển Đông trong kho lưu
trữ của Văn phòng Thủy văn Anh, Thư viện Quốc gia Pháp, và Trung tâm lưu trữ
Hải ngoại Quốc gia Pháp cũng như cung cấp các tài liệu này, cùng các tài liệu
liên quan đến từ các nguồn mở cho các bên trong vụ kiện để các bên đưa ra bình
luận.
2. Lập trường của các bên
Philippines đã đưa ra 15 đệ
trình trong vụ kiện, yêu cầu Tòa xác định:
1) Phạm vi các vùng biển mà Trung
Quốc có quyền được hưởng trên Biển Đông, cũng giống như của Philippines,
không thể vượt ra ngoài những gì được Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển
("UNCLOS" hay "Công ước") cho phép;
2) Các yêu sách của Trung Quốc về
các quyền chủ quyền và quyền tài phán, và đối với "các quyền lịch
sử", đối với các vùng biển trên Biển Đông nằm bên trong gọi là "đường
9 đoạn" là trái với Công ước và không có hiệu lực pháp lý trong chừng mực
mà chúng vượt quá các giới hạn địa lý và thực chất của các vùng biển mà Trung
Quốc có quyền được hưởng theo UNCLOS;
3) Bãi Scarborough không được
hưởng vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa riêng;
4) Bãi Vành Khăn (Mischief Reef),
bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) và đá Subi (Subi Reef) đều là các bãi cạn nửa
nổi, nửa chìm và chúng không thể có lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế hay thềm
lục địa, đồng thời không phải là các cấu trúc có thể bị thụ đắc thông qua chiếm
đóng hay thông qua cách khác;
5) Bãi Vành Khăn (Mischief Reef)
và bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) là một phần của vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa của Philippines;
6) Đá Gaven (Gaven Reef) và đá
Kennan (McKennan Reef) (bao gồm cả đá Huy gơ (Hughes Reef)) là các bãi cạn nửa
nổi nửa chìm, không thể có lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa,
nhưng ngấn nước thấp nhất của chúng có thể được dùng để lần lượt xác định đường
cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải của đảo Nam Yết (Namyit) và Sinh Tồn (Sin
Cowe);
7) Bãi Gạc Ma (Johnson Reef), đá
Châu Viên (Cuarteron Reef) và đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) không thể được
hưởng vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa;
8) Trung Quốc đã can thiệp một
cách bất hợp pháp tới việc Philippines hưởng và thực thi các quyền
chủ quyền của mình liên quan đến các nguồn tài nguyên sinh vật và phi sinh vật
trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines;
9) Trung Quốc đã hành động một
cách bất hợp pháp khi không ngăn cản công dân và tàu thuyền của mình khai thác
các nguồn tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines;
10) Trung Quốc đã ngăn cản một
cách bất hợp pháp việc ngư dân Philippines theo đuổi sinh kế bằng việc can
thiệp vào các hoạt động đánh bắt cá truyền thống tại bãi Scarborough;
11) Trung Quốc đã vi phạm nghĩa
vụ theo Công ước trong việc bảo vệ và bảo tồn môi trường biển ở bãi Scarborough và bãi Cỏ Mây;
12) Việc Trung Quốc chiếm đóng và
tiến hành các hoạt động xây dựng tại bãi Vành Khăn:
(a) vi phạm các điều khoản của
Công ước liên quan đến các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình;
(b) vi phạm nghĩa vụ của Trung
Quốc trong việc bảo vệ và bảo tồn môi trường biển theo Công ước; và
(c) cấu thành những hành vi bất
hợp pháp trong việc cố tình chiếm đoạt theo cách vi phạm Công ước;
13) Trung Quốc đã vi phạm các
nghĩa vụ theo Công ước trong việc sử dụng các tàu chấp pháp một cách nguy hiểm,
gây ra nguy cơ nghiêm trọng về va chạm với tàu Philippines hoạt
động xung quanh bãi Scarborough;
14) Từ khi vụ kiện trọng tài này
được bắt đầu vào tháng 1/2013, Trung Quốc đã làm trầm trọng thêm và mở rộng các
tranh chấp thông qua các việc sau:
(a) can thiệp vào các quyền hàng
hải của Philippines trong
vùng nước tại và tiếp giáp bãi Cỏ Mây;
(b) ngăn cản việc luân chuyển và
tiếp tế cho lực lượng của Philippines đồn
trú tại bãi Cỏ Mây; và
(c) đe dọa đến sức khỏe và đời
sống của lực lượng của Philippines đồn
trú tại bãi Cỏ Mây;
15) Trung Quốc phải chấm dứt có
thêm các yêu sách và hành động phi pháp.
Liên quan đến thẩm quyền của Tòa, Philippines đã
đề nghị Tòa tuyên bố rằng các yêu sách của Philippines là "hoàn toàn
nằm trong thẩm quyền và khả năng thụ lý của Tòa".
Trung Quốc không chấp nhận và
không tham gia vào vụ kiện này, nhưng tuyên bố lập trường của mình là "Tòa
trọng tài không có thẩm quyền đối với vụ kiện này". Trong Tài liệu lập
trường của mình, Trung Quốc đã đưa ra các lập luận sau:
- Bản chất của vụ kiện là chủ
quyền lãnh thổ đối với một số cấu trúc biển ở Biển Đông, vấn đề này nằm ngoài
phạm vi của Công ước và không liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công
ước;
- Trung Quốc và Philippines đã
thống nhất, thông qua các thỏa thuận song phương và Tuyên bố về cách ứng xử của
các bên ở Biển Đông, giải quyết các tranh chấp liên quan thông qua thương
lượng. Việc Philippines đơn
phương khởi kiện tòa trọng tài này là vi phạm nghĩa vụ theo quy định của luật
pháp quốc tế;
- Ngay cả khi giả định rằng nội
dung của vụ kiện liên quan đến giải thích và áp dụng Công ước, các nội dung này
là một phần không tách rời của quá trình phân định biển giữa hai quốc gia, như
vậy sẽ rơi vào trường hợp tuyên bố năm 2006 của Trung Quốc phù hợp với Công
ước, trong đó loại trừ các tranh chấp về phân định biển khỏi cơ chế trọng tài
bắt buộc hay các cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc khác;
Mặc dù Trung Quốc không đưa ra
các tuyên bố chính thức tương ứng với phần lớn các đệ trình của Philippines, trong
quá trình tố tụng Tòa đã cố gắng xác định lập trường của Trung Quốc trên cơ sở
các tuyên bố công khai và thư tín ngoại giao.
3. Phán quyết của Tòa về Phạm
vi thẩm quyền
Tòa đã xem xét vấn đề phạm vi
thẩm quyền xét xử các yêu sách của Philippines ở cả Phán quyết về
Thẩm quyền, ở chừng mực mà các vấn đề về thẩm quyền có thể được xác định như
một vấn đề ban đầu, và trong Phán quyết ngày 12/7/2016, ở chừng mực mà các vấn
đề về thẩm quyền đan xen với các nội dung thực chất của các yêu sách của Philippines.
Phán quyết ngày 12/7/2016 của Tòa
cũng lồng ghép và tái khẳng định các quyết định về thẩm quyền được đưa ra trong
Phán quyết về Thẩm quyền.
Để có bức tranh hoàn chỉnh, các
quyết định của Tòa về thẩm quyền trong cả hai phán quyết được tóm tắt chung ở
đây.
a. Các vấn đề ban đầu
Trong Phán quyết về Thẩm quyền,
Tòa đã xem xét một số những vấn đề ban đầu liên quan đến thẩm quyền của Tòa.
Tòa nhận thấy rằng cả Philippines và Trung Quốc đều là thành viên
Công ước và Công ước không cho phép một Quốc gia tự loại trừ mình khỏi cơ chế
giải quyết tranh chấp được quy định trong Công ước.
Tòa cho rằng việc Trung Quốc
không tham gia vào vụ kiện không tước bỏ thẩm quyền của Tòa và Tòa đã được
thành lập đúng với các điều khoản của Phụ lục VII của Công ước, trong đó bao
gồm một thủ tục thành lập tòa ngay cả trong trường hợp một bên vắng mặt. Cuối
cùng, Tòa đã không công nhận lập luận được nêu trong Tài liệu lập trường của
Trung Quốc và cho rằng chi riêng việc đơn phương khởi kiện không thể được coi
là sự lạm dụng đối với Công ước.
b. Sự tồn tại của một Tranh
chấp Liên quan đến Giải thích và Áp dụng Công ước
Trong Phán quyết về Thẩm quyền,
Tòa đã xem xét liệu tranh chấp của các Bên có liên quan đến việc giải thích hay
áp dụng Công ước hay không, đây là một điều kiện để sử dụng các cơ chế của Công
ước.
Tòa đã bác bỏ lập luận nêu trong
Tài liệu lập trường của Trung Quốc rằng tranh chấp của các Bên thực ra là về
chủ quyền lãnh thổ và do đó không phải là một vấn đề liên quan đến Công ước.
Tòa chấp nhận rằng tồn tại một tranh chấp giữa các Bên liên quan đến chủ quyền
đối với các đảo ở Biển Đông, nhưng Tòa cho rằng các vấn đề được Philippines đệ
trình để giải quyết bằng trọng tài lại không liên quan đến chủ quyền.
Tòa cho rằng không cần thiết phải
ngầm quyết định về chủ quyền để có thể xem xét các Đệ trình của Philippines và
rằng việc xem xét đó sẽ không hỗ trợ cho các yêu sách chủ quyền của bất kỳ Bên
nào đối với các đảo ở Biển Đông.
Tòa cũng bác bỏ lập luận nêu
trong Tài liệu lập trường của Trung Quốc rằng tranh chấp của các Bên thực tế là
về phân định ranh giới biển và do đó bị loại khỏi cơ chế giải quyết tranh chấp
bởi Điều 298 của Công ước và bởi một tuyên bố của Trung Quốc vào ngày 25/8/2006
theo Điều khoản này.
Tòa nhận thấy rằng một tranh chấp
về việc liệu một Quốc gia có quyền đối với một vùng biển hay không là một vấn
đề hoàn toàn khác biệt so với vấn đề phân định các vùng biển ở một khu vực mà
các vùng biển này chồng lấn. Tòa nhận thấy rằng các quyền được hưởng vùng biển,
cùng với nhiều vấn đề khác, thường được xem xét trong việc phân định ranh giới
nhưng cũng có thể phát sinh trong những bối cảnh khác.Tòa quyết định là từ đó không
thể kết luận rằng một tranh chấp đối với từng vấn đề trên có thể coi là tranh
chấp về phân định ranh giới.
Cuối cùng, Tòa quyết định rằng
các Đệ trình của Philippines đều
phản ánh một tranh chấp liên quan đến Công ước. Với quyết định đó, Tòa đã nhấn
mạnh rằng (a) tranh chấp liên quan đến sự tương tác giữa Công ước và các quyền
khác (bao gồm bất kỳ "quyền lịch sử" nào của Trung Quốc) là một tranh
chấp liên quan đến Công ước và (b) do Trung Quốc không nêu rõ quan điểm của
mình, sự tồn tại của một tranh chấp có thể được hàm ý từ hành vi của một Quốc
gia hoặc từ sự im lặng, và đây là một vấn đề cần phải được xem xét một cách
khách quan.
c. Sự tham gia của Bên thứ ba
không thể thiếu
Trong Phán quyết về Thẩm quyền,
Tòa đã xem xét việc các Quốc gia khác cũng có yêu sách đối với các đảo ở Biển
Đông không tham gia vào vụ kiện trọng tài có cản trở thẩm quyền của Tòa hay
không.
Tòa thấy rằng quyền của các Quốc
gia khác sẽ không cấu thành "nội dung chính của phán quyết" – tiêu
chuẩn để bên thứ ba có thể được coi là không thể thiếu. Tòa cũng lưu ý thêm
rằng vào tháng 12/2014, Việt Nam
đã đệ trình một tuyên bố lên Tòa, trong đó Việt Nam tuyên bố rằng "không nghi
ngờ gì Tòa có thẩm quyền trong vụ kiện này". Tòa cũng lưu ý rằng Việt Nam,
Malaysia và Indonesia đã dự các phiên tòa về thẩm quyền với tư cách quan sát
viên, và không Quốc gia nào nêu lên lập luận rằng sự tham gia của mình là không
thể thiếu.
Trong Phán quyết ngày 12/7/2016,
Tòa lưu ý rằng Tòa đã nhận được công hàm của Malaysia
ngày 23/6/2016, trong đó nêu lại những yêu sách của Malaysia ở Biển Đông. Tòa đã so
sánh những phán quyết về nội dung thực chất của Đệ trình của Philippines với
các quyền mà Malaysia yêu sách và tái khẳng định quyết định của mình rằng
Malaysia không phải là một bên không thể thiếu và rằng lợi ích của Malaysia ở
Biển Đông không ngăn cản việc Tòa xem xét các Đệ trình của Philippines.
d. Điều kiện tiên quyết đối
với thẩm quyền
Trong Phán quyết về Thẩm quyền,
Tòa đã xem xét khả năng áp dụng Điều 281 và 282 của Công ước, là những điều
khoản có thể ngăn một Quốc gia sử dụng các cơ chế theo Công ước nếu những quốc
gia đó đã đồng ý về việc sử dụng biện pháp khác để giải quyết tranh chấp.
Tòa đã bác bỏ lập luận nêu trong
Tài liệu lập trường của Trung Quốc rằng Tuyên bố về Ứng xử của các Bên ở Biển
Đông năm 2002 ngăn Philippines khởi kiện trọng tài.
Tòa cho rằng Tuyên bố trên là một
thỏa thuận chính trị và không ràng buộc về pháp lý, không định ra một cơ chế
giải quyết tranh chấp một cách ràng buộc, không loại trừ các biện pháp giải
quyết tranh chấp khác, và do đó không hạn chế thẩm quyền của Tòa theo Điều 281
hay 282.
Tòa cũng đã xem xét Hiệp ước Thân
thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á, Công ước về Đa dạng sinh học và một loạt các
tuyên bố chung của Philippines và Trung Quốc về việc giải quyết tranh chấp
thông qua đàm phán và kết luận rằng những văn kiện này đều không cấu thành một
thỏa thuận có tác dụng ngăn Philippines khởi kiện ra trọng tài.
Tòa cũng cho rằng các Bên đã trao
đổi quan điểm của mình liên quan đến việc giải quyết các tranh chấp, theo như
yêu cầu của Điều 283 của Công ước, trước khi Philippines khởi kiện trọng tài.
Tòa kết luận rằng điều kiện này
đã được đáp ứng theo hồ sơ về trao đổi ngoại giao giữa Philippines và Trung
Quốc, trong đó Philippines đã thể hiện quan điểm muốn lựa chọn đàm
phán đa phương, có sự tham gia của cả những Quốc gia khác xung quanh Biển Đông,
trong khi Trung Quốc một mực quyết định rằng chỉ có các cuộc đàm phán song
phương mới được xem xét.
e. Ngoại lệ và giới hạn của
thẩm quyền
Trong phán quyết ngày 12/7/2016,
Tòa đã xem xét liệu Đệ trình của Philippines liên quan đến các quyền lịch sử
của Trung Quốc và "đường 9 đoạn" có bị ảnh hưởng bởi việc loại trừ
khỏi thẩm quyền các tranh chấp liên quan đến "danh nghĩa lịch sử"
theo Điều 298 của Công ước hay không.
Tòa đã rà soát nghĩa của cụm từ
"danh nghĩa lịch sử" trong luật biển và quyết định là thuật ngữ này
dẫn chiếu đến những yêu sách về chủ quyền lịch sử đối với các vịnh và vùng biển
gần bờ.
Sau khi xem xét các yêu sách và
hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông, Tòa kết luận rằng Trung Quốc đã yêu sách
quyền lịch sử đối với các tài nguyên trong "đường 9 đoạn", nhưng
không yêu sách danh nghĩa lịch sử đối với các vùng biển ở Biển Đông. Do đó, Tòa
kết luận rằng Tòa có thẩm quyền để xem xét các nội dung kiện của Philippines liên quan đến quyền lịch sử và
về vấn đề "đường chín đoạn" giữa Philippines và Trung Quốc.
Trong Phán quyết ngày 12/7/2016,
Tòa cũng xem xét liệu các Đệ trình của Philippines có bị ảnh hưởng bởi
việc loại trừ khỏi thẩm quyền theo Điều 298 những tranh chấp liên quan đến phân
định ranh giới biển.
Trong Phán quyết về Thẩm quyền,
Tòa đã kết luận rằng các Đệ trình của Philippines không liên quan đến việc phân
định ranh giới, nhưng cũng lưu ý rằng một vài điểm trong Đệ trình của Philippines phụ
thuộc vào một số khu vực nhất định có cấu thành một phần vùng đặc quyền kinh tế
của Philippines không.
Tòa quyết định rằng Tòa chỉ có
thể xem xét những đệ trình đó nếu Trung Quốc không có khả năng được hưởng một
vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của Philippines và
đã hoãn đưa ra quyết định cuối cùng về thẩm quyền.
Trong Phán quyết ngày 12/7/2016,
Tòa đã xem xét các bằng chứng về các bãi và đảo mà Trung Quốc yêu sách ở Biển
Đông và kết luận rằng không một đảo, bãi nào có khả năng được hưởng vùng đặc
quyền kinh tế. Do Trung Quốc không có khả năng được hưởng vùng đặc quyền kinh
tế chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của Philippines
ở quần đảo Trường Sa, Tòa quyết định là các đệ trình của Philippines
không phụ thuộc vào việc phân định trước ranh giới.
Trong Phán quyết ngày 12/7/2016,
Tòa cũng xem xét liệu Đệ trình của Philippines có bị ảnh hưởng việc
loại trừ khỏi thẩm quyền theo Điều 298 những tranh chấp liên quan đến hoạt động
của cơ quan thi hành pháp luật ở vùng đặc quyền kinh tế hay không.
Tòa nhắc lại rằng ngoại lệ ở Điều
298 chỉ có thể áp dụng nếu Đệ trình của Philippines liên quan đến hoạt động
của cơ quan thi hành pháp luật ở vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc. Tuy
nhiên, do Đệ trình của Philippines liên quan đến các sự kiện diễn ra trong
chính vùng đặc quyền kinh tế của Philippines hoặc ở vùng lãnh hải, Tòa đã kết
luận rằng Điều 298 không gây cản trở đối với thẩm quyền của mình.
Cuối cùng, trong Phán quyết ngày
12/7/2016, Tòa đã xem xét liệu các đệ trình của Philippines có bị ảnh hưởng
bởi việc loại trừ khỏi thẩm quyền theo Điều 298 những tranh chấp liên quan đến
hoạt động quân sự hay không.
Tòa quyết định là sự đụng độ giữa
lực lượng lính thủy đánh bộ của Philippines ở Bãi Cỏ Mây và hải quân,
lực lượng thực thi pháp luật của Trung Quốc đã cấu thành các hoạt động quân sự
và kết luận rằng Tòa không có thẩm quyền đối với Đệ trình số 14(a)-(c).
Tòa cũng xem xét liệu các hoạt
động cải tạo và xây dựng đảo nhân tạo ở 7 cấu trúc thuộc quần đảo Trường Sa có
cấu thành hoạt động quân sự hay không, nhưng lưu ý rằng Trung Quốc đã liên tục
nhấn mạnh bản chất phi quân sự của những hoạt động của mình và đã tuyên bố ở
cấp cao nhất rằng Trung Quốc sẽ không quân sự hóa sự hiện diện của mình trên
Trường Sa.
Tòa đã quyết định rằng Tòa sẽ
không coi các hoạt động trên có tính quân sự khi mà bản thân Trung Quốc đã liên
tục khẳng định điều ngược lại. Do đó, Tòa kết luận rằng Điều 298 không cản trở
thẩm quyền của Tòa.
4. Phán quyết của Tòa liên
quan đến Nội dung khởi kiện thực chất của Philippines
a. "Đường 9 đoạn" và
Yêu sách Quyền lịch sử của Trung Quốc trên các vùng biển thuộc Biển Đông
Trong Phán quyết ngày 12/7/2016,
Tòa đã xem xét đến giá trị của "đường 9 đoạn" của Trung Quốc và liệu
Trung Quốc có quyền lịch sử đối với các tài nguyên ở Biển Đông bên ngoài giới
hạn của các vùng biển mà nước này được hưởng theo Công ước hay không.
Tòa đã xem xét lịch sử của Công
ước và những điều khoản của nó liên quan đến các vùng biển và kết luận rằng mục
đích của Công ước là phân bổ một cách toàn diện các quyền của các Quốc gia đối
với các vùng biển. Tòa nhận thấy rằng câu hỏi về những quyền tồn tại từ trước
đối với tài nguyên (đặc biệt là đối với tài nguyên cá) đã được xem xét cẩn thận
trong các cuộc đàm phán về sự hình thành vùng đặc quyền kinh tế và rằng một số
Quốc gia đã có mong muốn bảo tồn các quyền đánh cá lịch sử ở vùng biên mới này.
Tuy nhiên, quan điểm này đã bị
bác bỏ và văn bản cuối cùng của Công ước chỉ cho các Quốc gia khác một quyền
hạn chế trong việc tiếp cận về đánh cá ở vùng đặc quyền kinh tế (trong trường
hợp Quốc gia ven biển không thể khai thác hết lượng cá cho phép) mà không cho
các quốc gia khác quyền gì đối với dầu khí hay tài nguyên khoáng sản.
Tòa nhận thấy rằng yêu sách về
quyền lịch sử của Trung Quốc đối với các tài nguyên là không phù hợp với sự
phân bổ chi tiết về quyền và vùng biển của Công ước và kết luận rằng, nếu Trung
Quốc có quyền lịch sử đối với tài nguyên ở các vùng biển ở Biển Đông, những
quyền đó đã bị xóa bỏ bởi việc Công ước có hiệu lực ở chừng mực mà chúng không
phù hợp với hệ thống các vùng biển của Công ước.
Tòa cũng xem xét hồ sơ lịch sử để
xác định liệu Trung Quốc có thật là có quyền lịch sử đối với tài nguyên ở Biển
Đông trước khi Công ước có hiệu lực hay không.
Tòa lưu ý rằng có chứng cứ cho
thấy người đi biển và ngư dân của Trung Quốc, cũng như của các nước khác, trong
lịch sử đã sử dụng các đảo ở Biển Đông, mặc dù Tòa nhấn mạnh rằng Tòa không có
thẩm quyền để xác định chủ quyền đối với những đảo đó.
Tuy nhiên, Tòa quyết định là
trước khi có Công ước, các vùng biển ở Biển Đông bên ngoài vùng lãnh hải về
pháp lý đều là một phần của vùng biển quốc tế, tại đó tàu thuyền của bất kỳ
Quốc gia nào đều có thể qua lại và đánh cá một cách tự do. Vì vậy, Tòa đã kết
luận rằng việc Trung Quốc qua lại và đánh cá trong lịch sử ở vùng biển của Biển
Đông đã thể hiện các quyền tự do trên biển cả, thay vì một quyền lịch sử, và
rằng không có chứng cứ nào cho thấy rằng trong lịch sử Trung Quốc đã một mình thực
hiện việc kiểm soát các vùng biển ở Biển Đông hay ngăn cản các quốc gia khác
khai thác những tài nguyên của mình.
Do đó, Tòa kết luận rằng,
giữa Philippines và
Trung Quốc, không có căn cứ pháp lý nào để Trung Quốc yêu sách các quyền lịch
sử đối với tài nguyên, bên ngoài những quyền quy định trong Công ước, tại các vùng
biển nằm bên trong "đường 9 đoạn".
b. Quy chế của các cấu trúc
tại Biển Đông
Trong Phán quyết ngày 12/7/2016,
Tòa Trọng tài đã xem xét quy chế của các cấu trúc tại Biển Đông và các quyền
đối với vùng biển mà Trung Quốc có thể đòi hỏi theo Công ước.
Trước hết, Tòa Trọng tài thực
hiện đánh giá kỹ thuật về việc liệu một số bãi san hô mà Trung Quốc đòi hỏi có
nổi trên mặt nước khi thủy triều lên hay không. Theo Điều 13 và 121 của Công
ước, các cấu trúc nổi trên mặt nước vào lúc thủy triều lên cao sẽ ít nhất được
hưởng lãnh hải 12 hải lý, trong khi những cấu trúc bị chìm khi thủy triều lên
sẽ không có quyền có các vùng biển.
Tòa Trọng tài ghi nhận rằng nhiều
rặng san hô tại Biển Đông đã bị thay đổi nặng nề do việc cải tạo và xây dựng
đảo gần đây và nhắc lại rằng Công ước phân loại các cấu trúc dựa trên điều kiện
tự nhiên của nó. Tòa Trọng tài đã chỉ định một chuyên gia thủy văn học để hỗ
trợ Tòa trong việc đánh giá các bằng chứng kỹ thuật của Philippines và
dựa chủ yếu vào các tài liệu lưu trữ và các đánh giá thủy văn trước đây để đánh
giá các cấu trúc này.
Tòa Trọng tài nhất trí với Philippines rằng bãi Scarborough,
Gạc Ma, Châu Viên và Chữ Thập là các cấu trúc nổi và Subi, Huy gơ, Vành Khăn và
Cỏ Mây là cấu trúc chìm trong điều kiện tự nhiên. Tuy nhiên, Tòa Trọng tài
không nhất trí với Philippines về
quy chế của Gaven (phía Bắc) và Kennan và kết luận rằng cả hai đều là cấu trúc
nổi.
Tòa Trọng tài tiếp theo đã xem
xét liệu có cấu trúc nào mà Trung Quốc yêu sách có thể tạo ra các vùng biển
ngoài 12 hải lý hay không. Theo Điều 121 của Công ước, các đảo tạo ra vùng đặc
quyền kinh tế 200 hải lý và có thềm lục địa, nhưng "các đảo đá không thích
hợp cho con người đến ở hoặc không có đời sống kinh tế riêng sẽ không có vùng
đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa".
Tòa Trọng tài thấy rằng quy định
này liên hệ chặt chẽ với việc mở rộng quyền tài phán của Quốc gia ven biển với
việc hình thành vùng đặc quyền kinh tế và nhằm để ngăn ngừa việc các cấu trúc
không lớn có thể tạo ra các vùng biển lớn, mà điều này xâm phạm vào vùng biển
của các lãnh thổ có người ở hoặc vùng biển quốc tế và vùng đáy biển vốn là di
sản chung của nhân loại.
Tòa Trọng tài giải thích Điều 121
và kết luận rằng các quyền có vùng biển của một cấu trúc phụ thuộc vào (a) năng
lực khách quan của cấu trúc; (b) trong điều kiện tự nhiên, nó có thể duy trì
hoặc (c) một cộng đồng dân cư ổn định hoặc (d) hoạt động kinh tế mà không phụ
thuộc vào tài nguyên bên ngoài và cũng không thuần túy mang tính chất khai thác.
Tòa Trọng tài thấy rằng nhiều cấu
trúc tại Trường Sa hiện đang được một hoặc nhiều quốc gia ven biển kiểm soát và
họ đã xây dựng các cấu trúc và duy trì nhân lực tại chỗ. Tòa Trọng tài thấy
rằng sự hiện diện thời nay phụ thuộc vào các nguồn lực và hỗ trợ bên ngoài và
thấy rằng nhiều cấu trúc đã bị biến đổi để nâng cao khả năng sinh sống của con
người, kể cả thông qua cải tạo đảo và xây dựng các cơ sở hạ tầng như các nhà
máy xử lý nước mặn.
Tòa Trọng tài kết luận rằng việc
hiện diện của các nhân viên công quyền trên nhiều cấu trúc không chứng minh
được khả năng của các cấu trúc này, trong điều kiện tự nhiên, để duy trì cộng
đồng cư dân ổn định và cho rằng các bằng chứng lịch sử về việc định cư hoặc đời
sống kinh tế có ý nghĩa hơn đối với năng lực khách quan của các cấu trúc.
Qua đánh giá hồ sơ lịch sử, Tòa
Trọng tài thấy rằng các đảo Trường Sa trong lịch sử từng được các nhóm nhỏ ngư
dân từ Trung Quốc và các nước khác sử dụng, và một số công ty khai thác phân
chim và đánh cá của Nhật đã có hoạt động tại đây vào những năm 1920 và 1930.
Tòa Trọng tài kết luận rằng việc sử dụng tạm thời các cấu trúc của ngư dân
không dẫn đến việc cư ngụ của một cộng đồng ổn định và tất cả các hoạt động
kinh tế trong lịch sử đều chỉ có tính chất khai thác.
Theo đó, Tòa Trọng tài kết luận
rằng tất cả cấu trúc nổi tại Trường Sa (bao gồm, ví dụ, Ba Bình, Thị Tứ, Bến
Lạc, Trường Sa, Song Tử Đông, Song Tử Tây) đều là "đảo đá" về mặt
pháp lý và không tạo ra vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa.
Tòa Trọng tài cũng kết luận rằng
Công ước không quy định việc một nhóm các đảo như quần đảo Trường Sa sẽ có các
vùng biển với tư cách là một thực thể thống nhất.
c. Các hành vi của Trung Quốc
tại Biển Đông
Trong Phán quyết ngày 12/7/2016,
Tòa Trọng tài đã xem xét tính hợp pháp theo Công ước đối với nhiều hành động
của Trung Quốc tại Biển Đông.
Sau khi kết luận Vành Khăn, Bãi
Cỏ Mây và Bãi Cỏ Rong là cấu trúc chìm, tạo thành một phần của vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa của Philippines và không chồng lấn với bất kỳ vùng biển
nào Trung Quốc có thể có, Tòa Trọng tài kết luận rằng Công ước đã rõ ràng trong
việc trao quyền chủ quyền cho Philippines đối với các khu vực biển trong vùng
đặc quyền kinh tế của nước này.
Tòa Trọng tài xác định, trên thực
tế, Trung Quốc đã (a) can thiệp vào việc thăm dò dầu khí của Philippines tại
Bãi Cỏ Rong; (b) chủ ý cấm các tàu Philippines đánh bắt cá trong vùng đặc quyền
kinh tế của Philippines và (c) bảo vệ cho và không ngăn ngừa các ngư dân Trung
Quốc đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines tại Vành Khăn và
Bãi Cỏ Mây, và (d) xây dựng các công trình và đảo nhân tạo tại Vành Khăn mà không
được sự đồng ý của Philippines. Do vậy Tòa Trọng tài kết luận rằng Trung Quốc
đã vi phạm quyền chủ quyền của Philippines
đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước này.
Tiếp theo Tòa Trọng tài xem xét
quyền đánh cá truyền thống tại bãi Scarborough và kết luận rằng ngư dân
từ Philippines, cũng như Trung Quốc và các nước khác, đã đánh cá tại bãi
Scarborough từ lâu và có quyền đánh cá truyền thống tại khu vực này.
Do bãi cạn Scarborough nổi trên
mặt nước lúc thủy triều lên, cấu trúc này có quyền có lãnh hải, vùng nước xung
quanh cấu trúc này không tạo thành vùng đặc quyền kinh tế và quyền đánh cá
truyền thống không bị mất đi do Công ước.
Dù Tòa Trọng tài nhấn mạnh rằng
Tòa không quyết định về vấn đề chủ quyền đối với bãi cạn Scarborough, Tòa xác
định rằng Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ tôn trọng quyền đánh cá truyền thống
của ngư dân Philippines khi ngăn chặn tiếp cận bãi cạn Scarborough
sau tháng 5/2012. Tuy nhiên, Tòa Trọng tài thấy rằng Tòa cũng sẽ có kết luận
tương tự đối với quyền đánh cá truyền thống của ngư dân Trung Quốc nếu Philippines có
hành động ngăn cản việc đánh cá của công dân Trung Quốc tại bãi Scarborough.
Tòa Trọng tài cũng xem xét tác
động của các hành vi của Trung Quốc đối với môi trường biển. Để làm việc này,
Tòa Trọng tài đã có sự trợ giúp của ba chuyên gia độc lập về sinh học của rặng
san hô được chỉ định để đánh giá các chứng cứ khoa học có được và các báo cáo
của chuyên gia của Philippines.
Tòa Trọng tài xác định rằng việc
Trung Quốc cải tạo đất quy mô lớn và xây dựng đảo nhân tạo gần đây tại bảy cấu
trúc tại Trường Sa đã gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đối với môi trường rặng san
hô và Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ của mình theo Điều 192 và 194 của Công ước
trong việc bảo tồn và bảo vệ môi trường biển đối với các hệ sinh thái dễ bị tổn
thương và môi trường sinh sống của các loài động vật bị đe dọa, sắp cạn kiệt.
Đồng thời Tòa Trọng tài cũng xác
định rằng ngư dân Trung Quốc đã thực hiện việc khai thác động vật bị đe dọa như
rùa biển, san hô và trai khổng lồ ở quy mô lớn tại Biển Đông, sử dụng các biện
pháp gây hủy hoại nghiêm trọng đối với môi trường rặng san hộ. Tòa Trọng tài
xác định rằng chính quyền Trung Quốc đã nhận thức được các hành vi này và không
thực hiện nghĩa vụ cẩn trọng theo Công ước để ngăn chặn.
Cuối cùng, Tòa Trọng Tài đã xem
xét tính hợp pháp của các hành vi của tàu chấp pháp Trung Quốc tại bãi
Scarborough trong hai tình huống vào tháng 4 và 5/2012 khi các tàu Trung Quốc
đã tìm cách cản trở tàu Philippines tiếp cận hoặc tiến vào bãi
Scarborough.
Để làm việc này, Tòa Trọng tài đã
được một chuyên gia độc lập về an toàn hàng hải được chỉ định để hỗ trợ trong
việc xem xét các báo cáo bằng văn bản do các sĩ quan tàu Philippines cung
cấp và các chứng cứ chuyên gia về an toàn hàng hải do Philippines cung
cấp. Tòa Trọng tài xác định rằng các tàu chấp pháp của Trung Quốc đã liên tiếp
tiếp cận tàu Philippines với tốc độ cao và cố gắng cắt đầu các tàu
này ở khoảng cách gần, tạo ra nguy cơ đâm va cao và nguy hiểm cho tàu và người
của Philippines.
Tòa Trọng tài kết luận rằng Trung
Quốc đã vi phạm nghĩa vụ theo Công ước về Quy định Quốc tế để Ngăn ngừa Va chạm
trên Biển 1972 và Điều 94 của Công ước liên quan đến an toàn hàng hải.
d. Làm trầm trọng thêm tranh
chấp giữa các Bên
Trong Phán quyết ngày 12/7/2016,
Tòa Trọng tài đã xem xét liệu các hoạt động cải tạo đất quy mô lớn gần đây và
xây dựng các đảo nhân tạo của Trung Quốc tại 7 cấu trúc tại Trường Sa từ khi
bắt đầu thủ tục trọng tài có làm gia tăng tranh chấp giữa các Bên.
Tòa Trọng tài nhắc lại rằng các
bên tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp có nghĩa vụ kiềm chế việc làm
trầm trọng thêm hoặc mở rộng một tranh chấp hoặc các tranh chấp về các vấn đề
đang được thụ lý.
Tòa Trọng tài thấy rằng Trung
Quốc đã (a) xây dựng một đảo nhân tạo lớn tại Vành Khăn, một cấu trúc lúc chìm
lúc nổi nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines; (b) gây ra hủy hoại
lâu dài, không thể phục hồi đối với hệ sinh thái rặng san hộ và (c) phá hủy lâu
dài các chứng cứ về điều kiện tự nhiên của các cấu trúc này.
Tòa Trọng tài kết luận rằng Trung
Quốc đã vi phạm các nghĩa vụ về kiềm chế làm trầm trọng thêm và kéo dài tranh
chấp giữa các Bên trong khi chờ quá trình xét xử.
e. Hành vi tương lai của các
Bên
Cuối cùng, Tòa Trọng tài xem xét
đề nghị của Philippines về việc đưa ra tuyên bố rằng, từ nay về sau, Trung Quốc
cần tuân thủ các quyền và quyền tự do của Philippines và tuân thủ các nghĩa vụ
của nước này theo Công ước.
Về vấn đề này, Tòa Trọng tài thấy
rằng cả Philippines và
Trung Quốc đều đã nhiều lần thừa nhận Công ước và các nghĩa vụ chung về thiện
chí trong xác định và điều chỉnh các hành vi của mình. Tòa Trọng tài xét rằng
cốt lõi của tranh chấp trong vụ kiện này không nằm ở ý định của Trung Quốc
hay Philippines trong việc xâm phạm quyền lợi pháp lý của bên kia, mà
chính là do có sự hiểu khác nhau cơ bản về các quyền của nước mình theo Công
ước đối với các vùng nước thuộc Biển Đông.
Tòa Trọng tài nhắc lại rằng trong
luật pháp quốc tế có nguyên tắc cơ bản là "không thiện chí" không thể
tự suy diễn và thấy rằng Điều 11 của Phụ lục VII đã quy định "phán quyết…
sẽ được các bên trong tranh chấp tuân thủ". Vì vậy, Tòa Trọng tài thấy
không cần thiết phải đưa ra tuyên bố nào nữa.
(theo Bộ Ngoại giao)
Cần phải nghiêm túc, thận trọng, khách quan nghiên cứu nội dung của phán quyết PCA, không thể đơn giản, để rồi phán lung tung. Trong phán quyết của PCA tuy là vụ kiện của Philippin với TQ, nhưng có những vấn đề có liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa.
Trả lờiXóaHiện tại mẫu xế
Trả lờiXóaxe điện bánh to giá rẻ
ở mức giá thấp nhất dễ mua cho các khách hàng, chi tiết liên hệ decalsaigon.
Bữa nay có món lưỡi bò ragoût tuyệt cú mèo... do anh Phi trổ tài. Hy vọng cái bà nội trợ VN mua ngay lưỡi bò về làm món ragoût cho cả nhà thưởng thức.
Trả lờiXóaPhải nói là tôi đã quá vội vã khi đọc tin về phán quyết PCA.
Trả lờiXóaTrích Thông cáo báo chí của PCA:
"Sau khi kết luận Vành Khăn, Bãi Cỏ Mây và Bãi Cỏ Rong là CẤU TRÚC CHÌM, TẠO THÀNH MỘT PHẦN CỦA VÙNG ĐẶC QUYỀN KINH TẾ VÀ THỀM LỤC ĐỊA CỦA PHILIPPINES và không chồng lấn với bất kỳ vùng biển nào Trung Quốc có thể có, Tòa Trọng tài kết luận rằng Công ước đã rõ ràng trong việc trao quyền chủ quyền cho Phi-líp-pin đối với các khu vực biển trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này. Tòa Trọng tài xác định, trên thực tế, Trung Quốc đã (a) can thiệp vào việc thăm dò dầu khí của Phi-líp-pin tại Bãi Cỏ Rong; (b) chủ ý cấm các tàu Phi-líp-pin đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế của Phi-líp-pin và (c) bảo vệ cho và không ngăn ngừa các ngư dân Trung Quốc đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế của Phi-líp-pin tại Vành Khăn và Bãi Cỏ Mây, và (d) xây dựng các công trình và đảo nhân tạo tại Vành Khăn mà không được sự đồng ý của Phi-líp-pin. Do vậy Tòa Trọng tài kết luận rằng Trung Quốc đã vi phạm quyền chủ quyền của Phi-líp-pin đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước này".
Vấn đề là Việt Nam có thể có chủ quyền tại Vành Khăn hay không khi đảo này "tạo thành một phần của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philipines"? v...v... Trung Quốc bất lợi, nhưng Việt Nam cũng có khả năng gặp bất lợi khi xác định chủ quyền. Chỉ có Philipines là thắng toàn diện mà thôi.
Đây chỉ là thông cáo báo chí, còn phán quyết chính thức ở đây này:
Trả lờiXóahttps://pca-cpa.org/wp-content/uploads/sites/175/2016/07/PH-CN-20160712-Award.pdf
Dài 501 trang.