Thứ Sáu, 7 tháng 4, 2017

Chương 4. “Vietnam - Why Did We Go” – Dịch “Vì Sao Chúng Ta Đã Đi Việt Nam?”

“Vietnam, Why Did We Go?” Câu chuyện gây sốc về vai trò của “giáo hội” Công giáo trong buổi khởi đầu của Chiến tranh Việt Nam - Hồng y Spellman, Chỉ huy Tuyên úy quân đội Mỹ.
Lời dẫn: Nhân sự kiện bạo loạn chiếm trụ sở UBND huyện Lộc Hà (Hà Tĩnh) của nhóm giáo dân mù quáng, chúng ta buộc phải bình tĩnh tìm hiểu ngọn nguồn Ca-tô Rô-ma giáo.
Cuộc tìm kiếm của chúng tôi- Nhóm Biên tập Google.tienlang đã đưa chúng tôi đến với cuốn sách “Vietnam - Why Did We Go” – Dịch “Vì Sao Chúng Ta Đã Đi Việt Nam?” -Tác giả: Avro Manhattan (1914-1990). Người dịch Trần Thanh Lưu. Tác phẩm tuy chủ yếu viết cho người Mỹ nhưng với bạn đọc người Việt, nhất là người Việt trong nước, xin đọc để biết thêm lý do xuyên suốt nhất, lý do “vì sao người Mỹ đã đi” đến nước ta để khởi động một cuộc chiến 20 năm máu lửa trên quê hương mình. Đối với người Mỹ, cho đến hôm nay, không hẳn ai cũng trả lời rốt ráo được câu hỏi vì sao, ngay từ đầu, Mỹ đã tham chiến tại Việt Nam, một quốc gia “đèo heo hút gió”, xa quê hương của họ trọn nửa trái cầu. Ngay cả trong các môi trường đại học và nghiên cứu, không phải trường phái nào cũng đồng ý với nhau khi lý giải nguyên nhân đầu tiên và đích thực của quyết định, mà trong 8 năm sau đó, đã tiêu tốn 584 tỷ Mỹ kim để đưa 9 triệu 200 ngàn quân nhân luân phiên tham chiến và khiến hơn 58,000 thanh niên Mỹ phải bỏ mạng nơi chiến trường. Đồng thời, cũng dội 15 triệu tấn bom và phun hơn 11 triệu gallons chất độc Agent Orange lên toàn cõi Việt Nam. Nhưng quan trọng hơn cả là cuộc chiến tranh Việt Nam nầy, sau đó, đã để lại những hội chứng tâm lý tác động mạnh mẽ không phải chỉ trên chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ mà còn xoáy sâu cả trong đời sống văn hóa của dân tộc Mỹ trong nhiều năm nữa.
Giữa tất cả những nỗ lực và kết quả nghiên cứu để truy tìm nguyên nhân đầu tiên của chiến tranh Việt Nam đó, Avro Manhattan nổi bật lên với một luận điểm ít ai ngờ. Tuy không ngờ nhưng lại có tính thuyết phục cao. Từ góc độ văn hóa, hay chính xác hơn, từ cách tiếp cận chính trị-tôn giáo đan bện nhau, ông đã sưu khảo và tổng hợp các thông tin của nhiều nguồn tài liệu khác nhau để trên cơ sở đó, đi đến một kết luận: Chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam chủ yếu là một cuộc chiến tranh tôn giáo dù phần biểu hiện bên ngoài của nó (và các lực lượng tham chiến) có là chính trị, kinh tế hay quân sự.
Nhân việc tìm hiểu về nguồn cơn cuộc bạo loạn chiếm trụ sở UBND huyện Lộc Hà (Hà Tĩnh) của nhóm giáo dân mù quáng, và cũng nhân dịp 42 năm Chiến thắng Đế quốc Mỹ xâm lược, kể từ hôm nay, Google.tienlang xin trân trọng giới thiệu từng chương cuốn sách “Vietnam - Why Did We Go” – Dịch “Vì Sao Chúng Ta Đã Đi Việt Nam?” (Bản dịch trên trang Sachhiem) để chúng ta thấy câu trả lời cuối cùng của tác giả là: Chính Giáo Hội Ca-tô, và đối tác ngoại giao của nó là Tòa thánh Vatican mới là kẻ xúi giục chính, leo thang và đeo đuổi cuộc xung đột ở Việt Nam. Ngay từ ban đầu những động cơ tôn giáo đã khai mào cho trận thác lũ gây nên bao đau thương tuyệt vọng khôn cùng ở các lục địa châu Á và châu Mỹ. Sự bi thảm của Việt Nam sẽ đi vào lịch sử như là trong những hành vi độc ác của sự liên minh đương thời giữa chính trị và tôn giáo có tổ chức.
Những yếu tố của một bản chất chính trị, ý thức hệ, kinh tế và quân sự không hề đóng vai trò gian ác trong việc mở rộng chiến tranh, mà lại là tôn giáo của cái Giáo Hội Ca-tô mới chính là kẻ chủ mưu. Từ ban đầu vai trò của nó đã được giảm thiểu nếu không nói là được xóa đi. Nhưng những dữ kiện cụ thể lại không thể bị bị chùi rửa dễ dàng được, và đó là điều mà chúng tôi sẽ xem xét kỷ lưỡng dù vắn tắt…
********************************

Vì Sao Chúng Ta Đã Đi Việt Nam ?
Trần Thanh Lưu dịch cuốn
“Viet Nam: Why Did We Go?” Tác giả: Avro Manhattan
Chương 4
Giáo Hoàng Ban Phép Cho Một Cuộc Chiến Phòng Ngừa
Bộ trưởng Hải Quân Hoa Kỳ, Cận thần bí mật của Giáo Hoàng, chuẩn bị cho Chiến tranh Thế giới thứ III.

► Vương miện nặng 1200 grams vàng - ► Đức Mẹ xuất hiện 15 lần trước một nữ tu ở Phi Luật Tân ► Dòng Tên ở Mỹ và những cánh hoa hồng mầu nhiệm   ► Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ nhảy từ một cửa sổ tầng 16   ► Hồng Y Spellman, Thượng nghị sĩ McCarthy và Bộ trưởng Hải quân Mỹ  ► Diễn văn ở Boston kêu gọi một cuộc "chiến tranh nguyên tử phòng ngừa" của Mỹ.

Với sự bại trận của quân đội Quốc Xã và việc Hitler tự tử, sự nhiệt tâm sùng bái Fatima đã bị khựng lại bỗng đột ngột được hồi sinh. Trong tháng mười, năm 1945, Vatican ra lệnh cho tổ chức những cuộc hành hương khổng lồ đến linh địa.
Năm sau, 1946, Đức Mẹ đã được làm lễ đội vương miện trước hơn nửa triệu kẻ hành hương. Vương miện cân nặng 1200 grams vàng, đính 313 viên ngọc, 1250 đá quý và 1400 kim cương. Giáo hoàng Pius XII từ Vatican đã hiệu triệu tín đồ hành hương qua đài phát thanh, nói rằng các lời hứa của Đức Mẹ sẽ được hoàn thành. Ông cảnh báo "Hãy sẵn sàng!". "Không thể có kẻ lừng khừng. Không bao giờ được lùi bước. Hãy xếp hàng lên đường như những thập tự quân!" [1]
Năm 1947, Chiến tranh Lạnh bắt đầu. Lòng thù ghét Cộng sản Nga đã được đẩy mạnh, cầm đầu bởi Vatican; nó đã tiến hành một cuộc “hành hương” rước tượng Đức Mẹ quanh thế giới với “thông điệp" của bà. Bà đã được gửi đến hết nước này qua nước nọ để dấy động sự khinh miệt chống Nga. Toàn bộ các chính phủ đón tiếp bà. Trong vòng vài năm, cùng lúc với Chiến tranh Lạnh leo thang, tượng bà đã đi qua Châu Âu, Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ và châu Úc, đã viếng năm mươi ba quốc gia. Sự chia rẽ Đông-Tây tiếp tục mở rộng.
Năm 1948, cuộc chạy đua hạt nhân kinh hoàng giữa Mỹ và Nga bắt đầu. Năm 1949, để tăng cường mặt trận chống Nga, Pius XII phạt vạ tuyệt thông với bất kỳ cử tri nào ủng hộ Cộng Sản. Và ngay sau đó những nhà thần học Mỹ bảo rằng Hoa Kỳ mang sứ mệnh khi sử dụng bom nguyên tử. [2]
Năm 1950 tiếp theo, “tượng hành hương” của Đức Mẹ Fatima, đã bắt đầu du lịch từ 1947, chính vào năm khởi đầu Chiến tranh Lạnh, đã được gửi bằng máy bay, có Cha Arthur Brassard đi kèm, đến. . . Moscow với chỉ thị trực tiếp của Giáo hoàng Pius XII. Tại đấy, với sự chấp thuận nồng hậu của Đô đốc Kirk, Đại sứ Hoa Kỳ, bà đã được long trọng đặt trong nhà thờ của ngoại giao đoàn nước ngoài. Vì lý do cụ thể gì? "Để chờ việc giải phóng Nga Soviet gần kề."
Chưa hài lòng với việc này, chính Đức Mẹ lại xuất hiện mười lăm lần nữa cho một nữ tu ở Phi Luật Tân. Bà lặp lại lời cảnh báo chống cộng sản của bà, rồi ngay sau đó một trận mưa cánh hoa hồng rơi trên chân của nữ tu. Một tu sĩ dòng tên Mỹ đã mang những cánh hoa hồng kỳ diệu ấy về Hoa Kỳ để làm sống lại nhiệt tình của dân Ca tô cuồng tín, cầm đầu bởi Thương nghị sĩ gian ác McCarthy và nhiều kẻ ủng hộ y. [3]
Những kẻ hiếu chiến Mỹ, dẫn dắt bởi đám Ca-tô nổi danh, khi đó đã hăng say chuẩn bị cho một cuộc đối đầu hạt nhân với Nga. Giới chóp bu Ca-tô trong các vị trí trách nhiệm nhất đã không bàn đến chuyện gì khác. Ngày 6 tháng tám, 1949, Bộ trưởng tư pháp Ca-tô MacGrath đã diễn thuyết trước "đội quân xung kích" Ca-tô Hoa Kỳ - mang danh là những Hiệp sĩ của Columbus – tại đại hội của họ ở Portland, Oregon. Ông thúc giục giáo dân Ca-tô "hãy vùng lên và khoác thiết bào của chiến sĩ Giáo Hội trong trận chiến bảo vệ Ki-tô giáo.” (Ki-tô giáo hay Cơ đốc giáo, tất nhiên, có nghĩa là Giáo Hội Công Giáo.) Ông tiếp tục khuyến khích "một cuộc tấn công táo bạo."
Rước tượng Fatima. Sự sùng bái Fatima bắt nguồn từ sự xuất hiện cho là của Mẹ Đồng Trinh (MĐT) trước mặt ba đứa trẻ bệnh hoạn ở Fatima, Bồ Đào Nha, trong năm 1917. Với sự ra đời của Nga Bolshevik và thế giới cộng sản, sự sùng bái liền được chuyển thành một cuộc thánh chiến ý thức hệ. Nó đã được Pius XII, Hồng y Spellman và John Foster Dulles sử dụng rộng rãi trong cuộc chiến ý thức chống Nga. Tượng MĐT đã được gửi hành hương toàn cầu, đến các thủ đô trên thế giới để khơi dậy nhiệt tình tôn giáo. Một trong những thủ đô bà đến viếng lại chính là Moscow, dưới sự bảo trợ che đậy của các tòa đại sứ phương tây dẫn đầu bởi Hoa Kỳ.
Nữ tu Lucia, người tự cho là đã từng nhìn thấy và nói chuyện với MĐT tại Fatima, Bồ Đào Nha trong thời gian Đức Bà xuất hiện ở đấy vào năm 1917. Chỉ có một mình cô trong số ba đứa trẻ đã nhìn thấy MĐT. Cô đã trở thành một nữ tu trong dòng kín Carmelite ở Coimbra.
Trong cùng năm đó một tín đồ Ca-tô khác, một trong những nhân vật nắm chức vụ quan trọng của chính quyền Hoa Kỳ, James Forrestal, một thánh-chiến-quân chống cộng ở trong và ngoài nước, đã giúp Giáo hoàng Pius XII giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử tại Ý bằng cách gửi tiền Mỹ, cộng thêm tiền túi riêng của mình. James Forrestal, người đã rất thường xuyên liên hệ với Vatican và với Hồng y Spellman, hiểu rõ hơn bất kỳ người nào khác về những gì xảy ra trong một số thành phần giáo dân Ca-tô và Mỹ. Lý do đơn giản: chính ông là Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ.
Một ngày, khi nghe tiếng một phi cơ dân sự bay trên đầu, ông nhào tới trên một con đường ở Hoa-Thịnh-Đốn hô lên một lời tiên báo hầu như định mệnh: "Người Nga đã xâm lăng nước chúng ta!" ông la lên. Sau đó, bất kể các lời bảo đảm của Pius XII rằng người Nga có thể bị đánh bại với sự giúp đỡ của Mẹ Đồng Trinh, tín đồ Ca-tô James Forrestal, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, đã nhảy từ một cửa sổ trên tầng thứ 16 của một tòa nhà ở thủ đô Mỹ, hét to rằng người Nga nên bị tiêu diệt trước khi quá muộn. [4]
Năm sau một con chiên cuồng tín Ca-tô khác được bổ nhiệm vào chức vụ quan trọng. Francis Matthews đã được đề cử làm Bộ trưởng Hải quân Mỹ. Vào buổi sáng tuyên thệ nhậm chức (tháng sáu, 1949), Matthews, ông cùng vợ và tất cả 6 đứa con của họ đồng khẩn thiết làm lễ rước bánh và rượu thánh trong nhà nguyện của căn cứ Hải quân ở Washington, D.C.
Vài tháng sau đó (tháng mười, 1949) Hồng y Spellman đã được Giáo hoàng cho triệu đến Rome để bàn việc, và ông ta đã lại được tiếp riêng trong nhiều giờ. Mặc dù đã có nhiều điều phong thanh nhưng bí mật vẫn được giữ kín.
Điều kỳ lạ là tín đồ Ca-tô mới, Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ, ngay sau đó đã bắt đầu những tiếp xúc tích cực bất thường với giáo dân Ca-tô Mỹ nổi tiếng khác. Trong số này có Cha Walsh, thuộc dòng tên, Viện Phó trường Đại học Georgetown;
James Forrestal, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, một người Mỹ trung kiên và vị tha, là một trong những nạn nhân bi thảm của Chiến tranh Lạnh đã được gài ở bậc cao nhất. Tính bất khoan nhượng tàn nhẫn của Stalin và sự khiếp sợ cộng sản của phương Tây đã được khéo léo khai thác bởi Giáo hoàng Pope Pius XII.
Ông ta đã thực hiện điều này bằng việc tận dụng tôn giáo và không ngần ngại đẩy mạnh sự sùng bái Fatima. Lời tiên tri cao tột của sự sùng bái này là: Chính thống giáo của Nga sẽ trở thành Ca-tô. Việc hoàn thành lời tiên tri này mang ẩn ý phương Tây xâm lăng quân sự và chiếm đóng nước Nga.
Forrestal, đã được Vatican thuyết trình tỉ mỉ về mối đe dọa của Cộng sản, đến nổi tin rằng một cuộc đương đầu vũ khí hạt nhân giữa Nga và Hoa Kỳ không thể nào tránh khỏi. Ông đã chết vào tháng năm, 1949 khi ông nhảy từ một cửa sổ tầng 16 của Bệnh viện Hải quân Bethseda.
Người kế vị ông tiếp tục với nổi ám ảnh về chủ nghĩa Cộng sản của Forrestal, và còn đi xa hơn là đòi có “một cuộc chiến tranh nguyên tử phòng ngừa cho Mỹ." Tuy việc can thiệp của Mỹ trong vùng Đông Nam Á không trực tiếp dính líu vào vụ việc này nhưng nó giúp làm gia tăng sự xung đột ý thức hệ ở đấy và do đó, leo thang quân sự của khu vực ấy.
Hồng y Spellman, cùng với thủ lãnh Hội Cựu chiến binh Mỹ; các lãnh đạo của cựu chiến sĩ Ca-tô và với Thượng nghị sĩ McCarthy, tên thượng nghị sĩ gian ác, dựa trên sự tư vấn của một tu sĩ Ca-tô, bắt đầu chiến dịch bỉ ổi làm tê liệt một nửa Hoa Kỳ trong vài năm tới. Báo chí Ca-tô bắt đầu một chiến dịch tâm lý chiến toàn quốc. Một lần nữa lại gợi ý công khai về một cuộc chiến tranh nguyên tử cấp tốc.
Cao điểm của tất cả các hoạt động này là một bài diễn văn ở Boston vào ngày 25 tháng tám, 1950 bởi ông F. Matthews. Bộ trưởng Ca-tô cáo già của Hải quân Hoa Kỳ, phát ngôn viên của một số lực lượng trong nước và ở Vatican, kêu gọi Hoa Kỳ phát động một  cuộc tấn công Nga Soviet, để người Mỹ thành "kẻ xâm lăng đầu tiên cho nền hòa bình." "Là những kẻ phát động một cuộc chiến tranh xâm lược," ông thêm, "nó sẽ chiến thắng cho chúng ta một danh vị đáng hãnh diện và ưa chuộng: chúng ta sẽ trở thành những kẻ xâm lược cho nền hòa bình." Lời phát biểu đã tạo ra một khích động ở Hoa Kỳ và Châu Âu. Pháp tuyên bố rằng họ "sẽ không tham gia vào bất kỳ cuộc chiến tranh xâm lăng nào... vì một cuộc chiến tranh phòng ngừa sẽ không giải phóng cái gì mà chỉ mang lại những tàn phá và những nghĩa địa cho nền văn minh của chúng ta." [5] Nước Anh còn gửi một kháng thư gay gắt hơn.
Trong khi mọi người trên thế giới rùng mình trước lời đề nghị quái gở thì George Craig của Hội Cựu chiến binh Mỹ lại tuyên bố (tháng tám, 1950) rằng, vâng, "Hoa Kỳ nên khởi đầu Chiến tranh Thế giới thứ III với các điều khoản riêng của chúng ta " và nên sẵn sàng khi có tín hiệu ban ra để "các pháo đài bay của chúng ta tung cánh về hướng Moscow."
Chuyện hô hào cho một "cuộc chiến tranh nguyên tử phòng ngừa" đã được một tín đồ Ca-tô xướng lên lần đầu như vậy không phải thuần là sự trùng hợp. Ông Matthews, thủ lĩnh của một binh chủng quan trọng nhất của quân lực Mỹ, binh chủng Hải quân Mỹ, công cụ chiến tranh trên biển lớn nhất thế giới, đã trở thành cái loa của ông chủ tinh thần của y là Giáo hoàng Pius XII.
Tín đồ Ca-tô cáo già Matthews không chỉ là tên thường xuyên hôn nhẫn của các chức sắc Ca-tô tại Mỹ, y lại là một trong những nhà quảng bá tích cực của đạo Công giáo hành hoạt tại Mỹ. Bên cạnh đó, ông bộ trưởng Ca-tô này của Hải quân Hoa Kỳ là Chủ tịch của tổ chức Quốc gia Phục vụ Cộng đồng Ca-tô (National Catholic Community Service) và, còn tai hại hơn lại là Hiệp sĩ Tối cao của nhóm Hiệp sĩ Columbus, [6] đội quân xung kích của thế lực Ca-tô tại Hoa Kỳ. Và sau cùng nhưng không kém phần quan trọng, là một bí thư riêng của Giáo hoàng Pius XII. Các chức sắc Ca-tô, báo chí Ca-tô, các Hiệp sĩ của Columbus - tất cả đều hỗ trợ các vận động của Matthews về một cuộc chiến tranh nguyên tử phòng ngừa.
Cha Walsh, tu sĩ dòng tên, giới chức Ca-tô thẩm quyền cao nhất ở Mỹ và là một cựu đặc vụ của Vatican ở Nga (1925), nói với dân Mỹ rằng, "Tổng thống Truman biện minh được về mặt đạo đức khi dùng các biện pháp tương xứng với mối nguy cơ." Trong đó, tất nhiên, ám chỉ việc sử dụng bom nguyên tử. [7] Khi Hoa Kỳ đã tiên phong trong việc sản xuất bom khinh khí, chính Thượng nghị sĩ Brian MacMahon chủ tịch của Ủy Ban Nguyên tử, đã khiếp đãm trước viễn tượng chắc chắn rằng 50 triệu người bị tàn sát với loại vũ khí ghê rợn như thế. [8]
Thế mà dân Ca-tô lại chấp thuận việc sử dụng nó. Cha Connel tuyên bố rằng việc sử dụng bom khinh khí của Hoa Kỳ là hợp lẽ, bởi vì "Cộng sản có thể sử dụng lực lượng vũ trang to lớn của họ... để làm suy yếu những kẻ bảo vệ nhân quyền." Hô hào cho một cuộc chiến nguyên tử phòng ngừa bởi một Hiệp sĩ tối cao của nhóm Hiệp sĩ của Columbus – như ông Matthews – có vẻ thực kinh khủng nhưng khi ta nhớ rằng đối với một số nhà lãnh đạo Ca-tô hoặc, thậm chí ít hơn, với Vatican, diễn văn chiến tranh của ông bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ chẳng làm họ ngạc nhiên tí nào. Ví sao vậy?  Đơn giản là Ông Matthews đã tiết lộ nội dung của bài diễn văn Boston cho các chóp bu Ca-tô vài ngày trước khi nó được tung ra, mà nhân vật chính trong các chóp bu này là thủ lãnh hệ thống chức sắc Ca-tô ở Hoa Kỳ, Hồng y Spellman.
Nên nhớ rằng Hồng y Spellman đã luôn có liên hệ cá nhân với Giáo hoàng Pius XII, và là bạn thân cũng như cố vấn riêng trong các vấn đề chính trị từ Thế Chiến thứ hai. Hơn nữa, Hồng y Spellman còn là nhà tham vấn và bạn riêng của hầu hết các nhà lãnh đạo quân sự có ảnh hưởng của Mỹ. Vì vậy, chuyện gì quan trọng được biết đến ở "Tiểu Vatican" tại New York, nơi cư trú của Hồng y Spellman thường được gọi như thế, thì ngay lập tức Vatican ở Rome đã biết, và ngược lại.
Từ lâu Giáo hoàng Pius XII đã được thông báo đầy đủ về toàn bộ tiến trình trước cuộc nói chuyện của Matthews ở Boston. Thực vậy, bằng chứng cho thấy ông (Giáo hoàng) đã là một trong những kẻ chủ mưu âm thầm. Việc thăm viếng Giáo hoàng liên tục vào thời gian này của các cấp cao lãnh đạo quân đội Mỹ (năm lần trong một ngày), rồi các cuộc gặp gở bí mật thường xuyên với Hồng y Spellman, những lần tiếp xúc không chính thức với các Hiệp sĩ của Columbus - tất cả chỉ ra rằng Pius XII đã biết rất rõ những gì đã xảy ra. [9]
Vài năm sau, trong một bài nói chuyện thánh chiến đầy thù hận được phát sóng cùng lúc với hai mươi bảy ngôn ngữ chính của thế giới qua các đài phát thanh lớn, Pius XII lập lại "nền đạo đức... của một cuộc chiến phòng vệ" (có nghĩa là, cuộc chiến tranh nguyên tử và khinh khí), kêu gọi cho - như tờ London Times mô tả nó một cách chán chường, "điều hầu như dẫn đến một cuộc thánh chiến cho Nước Chúa" và những gì tờ Manchester Guardian đã huỵch toẹt gọi là "lời chúc thánh của Giáo hoàng cho một cuộc chiến phòng ngừa." [10]

[Hết Chương 4]

Ghi chú:
1. Pius Xll, trong một lần phát thanh cho dân hành hương đến Fatima, 13 tháng 5, 1946.
2. Cha Edmund Walsh, Viện phó Đại học Georgetown.
3. Cha Ray Goggin, Dòng Tên, Xem Báo chí Phi-luật-tân vào giai đoạn ấy. Còn thêm "The Universe," 21 tháng 4, 1950.
4. Bệnh viện Hải quân Bethesda, Tháng 5, 1949.
 5. The Times, London, 28 tháng 8, 1951.
6. Tài sản tính riêng tại Hoa Kỳ vào những năm 60s định giá là hơn 200 triệu đô-la.
7. Washington Star, và được in lại thành sách bởi Cha Walsh trong Total Empire, Bruce, 1951. Chương về "Atom Bombs and the Christian Conscience." (Bom nguyên tử và Lương tâm Công giáo)
8. The Times, London, 2 tháng 2, 1951.
9. Xem cuốn VATICAN' IMPERIALISM IN THE 20th CENTURY của tác giả, Lyle Stuart, New York, 1966. Chương: "Papal Promotion of Contemporary Religious Superstitions for Political Purposes." (Cổ vũ của Giáo hoàng về các mê tín tôn giáo đương thời cho các mục tiêu chính trị.”)
10. Xem The Times, London, 24 tháng 12, 1956. Và The New York TimesManchester Guardian, 27 tháng 12, 1956; 7 tháng 1, 1957.    
Tác giả: Avro Manhattan
Người Dịch: Trần Thanh Lưu
==================

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét