Thứ Sáu, 7 tháng 4, 2017

Chương 5. “Vietnam - Why Did We Go” – Dịch “Vì Sao Chúng Ta Đã Đi Việt Nam?”

“Vietnam, Why Did We Go?” Câu chuyện gây sốc về vai trò của “giáo hội” Công giáo trong buổi khởi đầu của Chiến tranh Việt Nam - Hồng y Spellman, Chỉ huy Tuyên úy quân đội Mỹ.
Lời dẫn: Nhân sự kiện bạo loạn chiếm trụ sở UBND huyện Lộc Hà (Hà Tĩnh) của nhóm giáo dân mù quáng, chúng ta buộc phải bình tĩnh tìm hiểu ngọn nguồn Ca-tô Rô-ma giáo.
Cuộc tìm kiếm của chúng tôi- Nhóm Biên tập Google.tienlang đã đưa chúng tôi đến với cuốn sách “Vietnam - Why Did We Go” – Dịch “Vì Sao Chúng Ta Đã Đi Việt Nam?” -Tác giả: Avro Manhattan (1914-1990). Người dịch Trần Thanh Lưu. Tác phẩm tuy chủ yếu viết cho người Mỹ nhưng với bạn đọc người Việt, nhất là người Việt trong nước, xin đọc để biết thêm lý do xuyên suốt nhất, lý do “vì sao người Mỹ đã đi” đến nước ta để khởi động một cuộc chiến 20 năm máu lửa trên quê hương mình. Đối với người Mỹ, cho đến hôm nay, không hẳn ai cũng trả lời rốt ráo được câu hỏi vì sao, ngay từ đầu, Mỹ đã tham chiến tại Việt Nam, một quốc gia “đèo heo hút gió”, xa quê hương của họ trọn nửa trái cầu. Ngay cả trong các môi trường đại học và nghiên cứu, không phải trường phái nào cũng đồng ý với nhau khi lý giải nguyên nhân đầu tiên và đích thực của quyết định, mà trong 8 năm sau đó, đã tiêu tốn 584 tỷ Mỹ kim để đưa 9 triệu 200 ngàn quân nhân luân phiên tham chiến và khiến hơn 58,000 thanh niên Mỹ phải bỏ mạng nơi chiến trường. Đồng thời, cũng dội 15 triệu tấn bom và phun hơn 11 triệu gallons chất độc Agent Orange lên toàn cõi Việt Nam. Nhưng quan trọng hơn cả là cuộc chiến tranh Việt Nam nầy, sau đó, đã để lại những hội chứng tâm lý tác động mạnh mẽ không phải chỉ trên chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ mà còn xoáy sâu cả trong đời sống văn hóa của dân tộc Mỹ trong nhiều năm nữa.
Giữa tất cả những nỗ lực và kết quả nghiên cứu để truy tìm nguyên nhân đầu tiên của chiến tranh Việt Nam đó, Avro Manhattan nổi bật lên với một luận điểm ít ai ngờ. Tuy không ngờ nhưng lại có tính thuyết phục cao. Từ góc độ văn hóa, hay chính xác hơn, từ cách tiếp cận chính trị-tôn giáo đan bện nhau, ông đã sưu khảo và tổng hợp các thông tin của nhiều nguồn tài liệu khác nhau để trên cơ sở đó, đi đến một kết luận: Chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam chủ yếu là một cuộc chiến tranh tôn giáo dù phần biểu hiện bên ngoài của nó (và các lực lượng tham chiến) có là chính trị, kinh tế hay quân sự.
Nhân việc tìm hiểu về nguồn cơn cuộc bạo loạn chiếm trụ sở UBND huyện Lộc Hà (Hà Tĩnh) của nhóm giáo dân mù quáng, và cũng nhân dịp 42 năm Chiến thắng Đế quốc Mỹ xâm lược, kể từ hôm nay, Google.tienlang xin trân trọng giới thiệu từng chương cuốn sách “Vietnam - Why Did We Go” – Dịch “Vì Sao Chúng Ta Đã Đi Việt Nam?” (Bản dịch trên trang Sachhiem) để chúng ta thấy câu trả lời cuối cùng của tác giả là: Chính Giáo Hội Ca-tô, và đối tác ngoại giao của nó là Tòa thánh Vatican mới là kẻ xúi giục chính, leo thang và đeo đuổi cuộc xung đột ở Việt Nam. Ngay từ ban đầu những động cơ tôn giáo đã khai mào cho trận thác lũ gây nên bao đau thương tuyệt vọng khôn cùng ở các lục địa châu Á và châu Mỹ. Sự bi thảm của Việt Nam sẽ đi vào lịch sử như là trong những hành vi độc ác của sự liên minh đương thời giữa chính trị và tôn giáo có tổ chức.
Những yếu tố của một bản chất chính trị, ý thức hệ, kinh tế và quân sự không hề đóng vai trò gian ác trong việc mở rộng chiến tranh, mà lại là tôn giáo của cái Giáo Hội Ca-tô mới chính là kẻ chủ mưu. Từ ban đầu vai trò của nó đã được giảm thiểu nếu không nói là được xóa đi. Nhưng những dữ kiện cụ thể lại không thể bị bị chùi rửa dễ dàng được, và đó là điều mà chúng tôi sẽ xem xét kỹ lưỡng dù vắn tắt…
********************************

Vì Sao Chúng Ta Đã Đi Việt Nam ?
Trần Thanh Lưu dịch cuốn
“Viet Nam: Why Did We Go?” Tác giả: Avro Manhattan
Chương 5
Mặt trời vận hành theo hình chữ chi kỳ lạ
Giáo hoàng Pius XII dùng cảm tính xúc động tôn giáo như là một lối khích giục chiến tranh.

 Đức Mẹ Đồng Trinh viếng Giáo hoàng tại Vatican  Pius XII thấy mặt trời "vận hành theo hình chữ chi"  Điều thần kỳ và ý nghĩa chính trị Một triệu giáo dân hành hương muốn có sự chuyển đổi tại Nga  Đại sứ Hoa Kỳ đầu tiên bổ nhiệm đến Vatican dự cuộc huấn luyện nguyên tử tại Nevada  Đại sứ Hoa Kỳ ở Moscow chuẩn bị cho việc xâm lược Nga  Báo "Colliers" mô tả việc xâm lăng Nga Soviet sắp tới  Chuẩn bị cho cuộc chiến tranh giải phóng  Báo "Osservatore Romano" xác nhận một phép lạ  Thông điệp thiêng liêng gởi đến Giáo hoàng.

Pius XII, không những đã biết đến diễn văn “chiến tranh nguyên tử phòng ngừa” đọc bởi Hiệp sĩ tối cao của hội Hiệp sĩ của Columbus mà còn đứng ra phóng đại lên cho công chúng biết cái thông điệp ấy bằng một lối trình diễn kinh ngạc nhất chưa có Giáo hoàng hiện đại nào đã làm. Đó là, ông đã huy động thế giới Công giáo hỗ trợ cho cuộc xung đột nguyên tử phòng ngừa của con chiên Matthews, đương nhiên theo điều kiện mà hàng trăm triệu thành viên của Giáo Hội của ông ta chấp nhận nó như là biện pháp cần thiết do Trời định, để tiến hành chương trình chính trị lâu dài của ông ta. Làm sao ông ta thực hiện được điều đó? Nhờ dàn cảnh một phép lạ giả mạo lớn nhất thế kỷ.
Chỉ ba tháng sau khi bí thư riêng của mình, ông Matthews, bộ trưởng Hải quân Mỹ, đã kêu gọi Hoa Kỳ nên bắt đầu cuộc chiến tranh chống lại Nga Bolshevik, Giáo hoàng Pius XII đã được chính Mẹ Đồng Trinh đến thăm riêng tại Vatican một cách lặng lẻ. Việc đó đã xảy ra trong tháng mười cùng năm ấy, 1950. Giáo hoàng Pius XII đã giữ kín trong một thời gian ngắn việc thăm viếng từ trời này. Sau đó sự việc đã được tiết lộ cho một vài thân cận trong Vatican, rồi tiếp đến, vốn là một chiến lược gia khéo léo, ông liền khởi động bộ máy tôn giáo với chủ đích giúp đở cho sách lược “cuộc chiến phòng ngừa” của ông Matthews.
Mục tiêu của Pius quả là một loại lô-gic. Một khi ông đã chắc chắn rằng hạt mầm chiến tranh của ông Matthews đã được chôn sâu vào trong tâm khảm của các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự rồi, ông ta tự cho mình một nhiệm vụ là cấy chúng vào trong tâm khảm của hàng triệu giáo dân Ca-tô với hiệu quả không kém, không phải thông qua chính trị hay tuyên truyền, mà trực tiếp thông qua tôn giáo. Để đạt được điều đó, sau khi Mẹ Đồng Trinh đến thăm ông tại Vatican ông ra lệnh lễ hội Fatima, Bồ Đào Nha, sắp đến phải được dàn dựng vô cùng ngoạn mục. Các giáo lệnh của Giáo hoàng đã được thi thành theo đúng từng chữ. Năm sau, tháng mười, 1951, một cuộc hành hương khổng lồ với hơn một triệu người đã được tụ tập trước lễ đài.
Để đánh dấu tính cách khác biệt của lễ hội, Pius XII phái người đại diện riêng của mình, một hồng y cao cấp đến đấy. Ông giao cho hồng y Tedeschini một nhiệm vụ phi thường, ấy là tiết lộ cho hàng triệu giáo dân ngoan đạo rằng Mẹ Đồng Trinh đã đến thăm ông ta, Giáo hoàng Pius XII.
Và như thế trong một ngày của tháng mười, sau khi đã có một triệu người nối đuôi nhau, hát Ave Maria, đọc kinh Mân côi, và lại hát Kinh cầu nguyện, Hồng y Tedeschini đối diện với đám đông lớn, và bằng một giọng nói đầy xúc cảm, nghiêm trang tiết lộ cho giáo dân hành hương sửng sốt rằng, "một người khác đã nhìn thấy cùng một phép mầu này..." (nói đến phép lạ của Mẹ Đồng Trinh xuất hiện với ba trẻ em trong năm 1917 trước đây, khi mặt trời vận hành theo hình chữ chi trên trời.) "Ngài đã thấy nó ở bên ngoài Fatima," hồng y tiếp tục nói. “Vâng, Ngài đã thấy nó những năm sau đó. Ngài đã thấy nó ở Rome. Chính Đức giáo hoàng, Đấng chủ chăn của chúng ta, Pius XII... Đúng vậy ngài đã thấy điều ấy." [1] Rồi ông hồng y đã cho biết một vài chi tiết liên quan đến lúc nào và như thế nào phép lạ đã xảy ra. "Lúc 4 giờ chiều ngày 30 tháng mười, 1950," ông hồng y bảo (có nghĩa là, ba tháng sau khi tín đồ Ca-tô Matthews đọc bài diễn văn chiến tranh nguyên tử phòng ngừa), "Đức Thánh Cha ngắm nhìn mặt trời từ khu vườn Vatican, và kìa ... điều kỳ diệu của Thung lũng Fatima tái hiện trước mắt ngài." Và điều kỳ diệu gì vậy? Đây là những từ ngữ chính xác của ông hồng y, vốn đã được Giáo hoàng Pius XII đặc biệt gửi đến đó để tiết lộ câu chuyện cho thế giới:
Giáo hoàng Pius XII đã có thể chứng kiến cả đời sống của mặt trời (tác giả nhắc nhở: một quả cầu vĩ đại 866000 dặm đường kính đang cháy rực) . . . dưới bàn tay của Mẹ Mary. Mặt trời đã rung chuyển, toàn thân co giật, chuyển thành một hình ảnh của đời sống. . . trong một màn ngoạn mục của các chuyển động thiên giới . . . để truyền tải các thông điệp vô thanh mà hùng hồn đến Giáo hoàng.
Điều này đã không những xảy ra một lần, mà cả ba ngày liên tiếp: 30 và 31 tháng mười và 1 tháng mười một, năm 1950. Báo chí Ca-tô và hàng giáo phẩm đều hân hoan. Các nhà thần học Ca-tô, bao gồm cả Dòng Tên, đã cảm tạ Mẹ Đồng Trinh về đặc ân ấy. Lại nữa, vài người trong số họ, còn bình luận rằng Giáo hoàng Pius XII phải là một bậc đại thánh hơn là họ thường nghĩ, vì trong truyền thống Ca-tô dù đã có đầy những hiển thị (vision) trong đời của các tổ phụ, đồ đệ và tử đạo, nhưng không có nơi nào trong lịch sử Giáo hội hiện đại ghi lại trường hợp hiển thị của Giáo hoàng và được công bố trong khi Giáo hoàng còn sống.
Một triệu giáo dân hành hương trở nên mê sảng ngay khi ông hồng y tiết lộ. Vô số hàng triệu người Ca-tô trên thế giới cũng làm như thế. Nếu Mẹ Đồng Trinh đã xuất hiện trước Giáo hoàng, thì rõ ràng lời hứa của bà về việc Nga Bolshevik đang được cải đạo qua Giáo Hội Công Giáo đã sắp thành sự thật. Và làm thế nào các lời hứa đó được thành tựu nếu không phải thông qua "chiến tranh phòng ngừa" như các nhà lãnh đạo Ca-tô tại Hoa Kỳ đã rao giảng.

Tượng của Đức Mẹ Trái tim vô nhiễm trong hốc tường tiền diện tại đền thờ Fatima. Bức tượng trắng trong hốc tường trên lối vào của Thánh Đường Đức Mẹ Fatima là công trình của một tu sĩ người Mỹ. Ông đã tạc tượng bà theo các chỉ dẫn chi tiết của Xơ Lucia, một trong ba đứa trẻ thấy Mẹ Đồng Trinh năm 1917, cùng năm của cuộc cách mạng Bolshevik.
Khi Hồng y Spellman tích cực thúc đẩy Hoa Kỳ tham gia chiến tranh Việt Nam, giáo hội Ca-tô Hoa Kỳ nhấn mạnh đến thông điệp ý thức hệ của Fatima. Thông điệp này, hứa rằng nước Nga Soviet sẽ được cải  sang đạo Công giáo, đã được sử dụng để xây dựng cảm tính chống-Nga và chống-Cộng.
Nó giúp thêm hương vị thần bí vào chính sách chống-Soviet của Hồng y Spellman và Giáo hoàng Pius XII. Theo đó hàng triệu tín đồ Ca-tô đã được tuyển dụng vào việc thúc đẩy Chiến tranh Lạnh và cuộc xung đột Việt Nam.

Nhiều buổi lễ cầu nguyện, chín-ngày-cầu-nguyện (novenas), và nói chuyện về sự "giải phóng" nước Nga gần kề lại được tái tục ở Fatima và trong hàng trăm nhà thờ ở nhiều quốc gia. Báo chí Ca-tô, trong khi đó, tiếp tục nhắc nhở độc giả về lời tiên tri thứ hai của Mẹ Đồng Trinh liên quan đến cái đất nước nghèo khổ và vô thần ấy. Huy động sự cuồng tín tôn giáo, Pius XII và bạn bè của mình ở Hoa Kỳ bắt tay làm việc trong nhiều lĩnh vực thực tiễn về ngoại giao và chính trị công khai và bí mật. Chỉ một tuần sau khi việc tiết lộ phép lạ lớn nhất của Pius XII, Hoa Kỳ ngỡ ngàng trước thông báo rằng vị đại sứ Mỹ đầu tiên đã được bổ nhiệm đến Vatican (21 tháng mười, 1951) – điều cấm kỵ bởi điều khoản tách biệt giữa giáo hội và quốc gia của Hiến pháp Mỹ.
Ai là đại sứ? Tướng Mark Clark, một người bạn của Hiệp sĩ tối cao của Columbus, Bộ trưởng Hải quân Mỹ Matthews, cũng là bạn thân của Hồng y Spellman và Giáo hoàng Pius XII. Còn quan ngại hơn nữa, tướng Clark là Tham mưu trưởng của các lực lượng quân đội Mỹ. [3]
Mười ngày sau trong tháng mười một, năm 1951, đại sứ Mỹ đầu tiên tại Vatican lại là một trong những người lãnh đạo quân sự bận rộn chỉ đạo các thao diễn nguyên tử trong sa mạc Nevada, những buổi tập luyện đầu tiên chiến tranh hạt nhân trong lịch sử, trong đó nhiều đội quân đã đóng gần nơi nổ bom nguyên tử loại mới.
Gần như đồng thời, một nhân vật hàng đại sứ khác không kém quan trọng được giao một công tác mới. Ông George Kennan được bổ nhiệm làm đại sứ Mỹ tại Moscow. Ông Kennan không ai khác hơn là thủ lãnh của Ủy ban Giải cứu Nga, một cơ sở, như tên của nó ngụ ý, thiết lập để thúc đẩy việc giải phóng Nga khỏi chủ nghĩa Cộng sản – mà hầu hết các ủng hộ viên tất nhiên, là giáo dân Ca-tô hàng đầu.
Tân đại sứ mới không phải là người duy nhất chỉ đạo các cơ sở như thế. Vị đại sứ Mỹ, hồi đầu năm 1950 đã chào đón tượng Đức Bà Fatima hành hương đến Moscow, Đô đóc Kirk, sau đó là chủ tịch của Ủy ban Mỹ giải phóng dân tộc Nga.
Trong khi Pius XII bảo giáo chúng Ca-tô rằng Mẹ Đồng Trinh đã thông truyền với ông về việc nước Nga, và trong khi các tướng và đại sứ tạp nhạp của Mỹ chuẩn bị cho cuộc "giải phóng", một sự kiện ngoạn mục khác xảy ra. Trong tháng mười, 1951 (lưu ý cùng một tháng mà Pius tiết lộ các phép lạ của ông ta), các sạp báo ở Mỹ và Châu Âu đã tràn ngập hơn bốn triệu bản của một tạp chí hàng đầu Hoa Kỳ, tờ Colliers. Toàn bộ nội dung đến hơn 130 trang in hẹp, đã được dành riêng cho . . . chuyện gì? Cho cuộc chiến tranh nguyên tử chống Nga Soviet sắp đến. Cuộc chiến tranh, mà nó dự đoán, sẽ bắt đầu trong năm 1952. Nga sẽ bị đánh bại và chiếm đóng. Sau khi "giải phóng", có thể xảy ra vào năm 1955, trong khi công việc tái dựng kinh tế sẽ được giao cho các tập đoàn tài phiệt Hoa Kỳ, nền tự do tôn giáo sẽ được công bố. [4]
Tất nhiên, tự do tôn giáo có nghĩa là Giáo Hội Công Giáo, mà nó đã từng chuẩn bị cho việc ấy, sẽ có những miếng chia chát lớn, và do sự giúp đỡ của Mẹ Đồng Trinh Fatima và của giáo dân Ca-tô Mỹ, thì rõ ràng sẽ dành độc quyền (tự do tôn giáo). “Sự cãi đạo” của Nga, như dự đoán của Mẹ Đồng Trinh như thế sẽ trở thành hiện thực.
Ở Đông Âu, các nhà thờ Ca-tô tràn đầy giáo dân cầu nguyện cho một "cuộc chiến tranh giải phóng." Ở phương Tây, giáo dân Ca-tô cũng làm như thế. "Có cái gì đó thật quái gỡ khi cầu nguyện cho chiến tranh," một cơ quan lãnh đạo Ca-tô bình luận, "nhưng chúng ta sẽ không hiểu được lịch sử hiện đại, nếu chúng ta quên mất rằng đó là những gì hàng triệu “người Ca-tô tốt" đang làm.” [5]
Để thúc đẩy hơn nữa nhiệt huyết Công Giáo cho một "cuộc chiến tranh giải phóng", vài tháng sau “phép lạ” của Pius XII, cơ quan chính thức của Vatican, tờ Osservatore Romano, đăng lại với tất cả thẩm quyền to lớn là như thế nào mà Pius XII đã thực sự chứng kiến một "phép lạ của mặt trời," như lời nói của Hồng y Tedeschini khi ông kể lại câu chuyện ở Fatima, Bồ Đào Nha, ngày 13 tháng mười, 1951.
Và để chứng minh sự xác thực của phép lạ, tờ báo của Giáo hoàng đã công bố trên trang đầu hai tấm ảnh "đúng đắn nghiêm túc" cho thấy điều kỳ diệu ở Fatima. Các chú thích còn chắc như đinh đóng cột rằng: "Vào lúc 12 giờ sự hiển thị bắt đầu. Hai mươi phút sau, mưa tạnh dần và ngay sau đó có tiếng la lên: ‘Hãy nhìn mặt trời!’ Hai tấm ảnh 'đáng tin’ rõ ràng cho thấy một đốm đen trong mặt trời gây ra bởi sự quay nhanh của nó, và mặc dù những hình ảnh đã được chụp lúc 12:30 chiều, vị trí của mặt trời đã nằm hầu như ngang với chân trời," "Vị trí này," tờ Osservatore Romano tỉnh táo nhận xét, "khó có thể có được vào giờ mà các hình ảnh đã được chụp lúc 12:30 chiều."
Nói cách khác, mặt trời đã nằm trên đường chân trời cho một mặt trời bình thường đang ở giữa trưa. Ngay cả một phép lạ to lớn hơn mà tờ Osservatore, thiếu chứng cớ, đã không đề cập đến, là phần còn lại của nhân loại không hề thấy mặt trời rơi xuống đến đường chân trời vào giữa trưa ngày 13 tháng mười, năm 1917, trừ ông phó nhòm.
Tờ Osservatore sau đó còn kể lại "một sự kiện khác đáng kinh ngạc" đã xảy ra tại Vatican ba mươi năm sau (đó là, trong năm 1950): "Vào thời điểm khi toàn gia đình Công giáo vui mừng, hiệp làm một với Giáo hoàng, trong định nghĩa giáo điều về Đức Mẹ lên trời” (đó là, giáo điều thân xác lên trời của Mẹ Mary, định nghĩa của Pius XII trong năm 1950) - tờ Osservatore nhận định trong một tóm lược ngắn gọn đầy thẩm quyền: "Đó không phải là nhiệm vụ của chúng tôi để đưa ra sự suy diễn cho những sự kiện tương tợ ... nhưng những sự can thiệp của Đức Mẹ thường xuyên xảy ra trong những ngày đen tối nhất của lịch sử Giáo Hội, bằng với các chỉ dấu dàng riêng cho kẻ kế vị thánh Peter." [6]

[Hết Chương 5]

Ghi chú:
1. Hồng y Tedeschini, Đặc sứ của Giáo hoàng, trong chuyện kể chính thức với giáo dân hành hương Fatima, Bồ Đào Nha, 31 tháng 10, 1951. Xem bài chi tiết trong Osservatore Romano. Xem thêm Báo chí thế giới, Các ngày 14, 15, 16 tháng 10, năm 1951.
2. Xem Daily Mail, 15 tháng 10, 1951.
3. Tổng thống Truman sau đó đã phải hủy bỏ việc bổ nhiệm, dưới áp lực của công chúng.
4. Xem Colliers (Số đặc biệt) tuần cuối của tháng mười 1951.
5. Lãnh đạo của Vũ trụ, 30 tháng ba, 1951.
6. Xem số ấn hành bất thường của Osservatore Romano, 17 tháng 11, 1951. Xem thêm Viên thuốc và các cơ quan Công giáo. Hình ảnh của mặt trời đã được tái tạo bởi báo chí Mỹ; ví dụ, Time Magazine, 3 tháng mười hai, 1951.

Tác giả: Avro Manhattan
Người Dịch: Trần Thanh Lưu
=========
Mục lục:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét