Lời dẫn: Dưới đây là một trong những bài đầu tiên trên blog Google.tienlang cũ. Thú vị là đến nay nó lại được lưu ở một blog không mấy thân thiện với chính quyền là blog ttngbt.blogspot.com!
Chúng tôi xin chép về nguyên văn bài này gồm cả những lời dẫn của chủ blog đó:
Chúng tôi xin chép về nguyên văn bài này gồm cả những lời dẫn của chủ blog đó:
Thứ Tư, ngày 28 tháng 3 năm 2012
-Google.TIENLANG có gửi còm thế này:
-ttngbt: vậy là cái nv 'mèo mả gà đồng' đó là Kami. Gần đây ttngbt blog cũng hân hạnh được tiếp chuyện các bạn thuộc lề phải. Mọi người đọc và cho ý kiến nha.
Ông BaSam đang nghi ngờ nhà cháu cùng ông Kami mạo ra bức thư TomCat gửi Cu Vinh đấy! Hu Hu!!!Các bác đọc và cho ý kiến khách quan nhá!basam : - Một độc giả vừa gửi email (từ địa chỉ tienlangcong…@gmail.com) cho biết mình là một trong những thành viên tham gia blog Google.tienlang, nhưng đã phải từ bỏ vì những việc làm mờ ám, mang dụng ý xấu của chủ trang này. Email đồng gửi cho cả hai blogger Nguyễn Quang Vinh và Quê Choa. Hy vọng sẽ được 2 trang đó đăng lại toàn văn. Ở đây chỉ xin trích một đoạn liên quan tới nghi vấn của BS trước đây về nhân vật cùng loài “mèo mả gà đồng” với Tom Cat: “… Một quyết định của chủ blog là tự viết một bức thư mạo danh Tom Cat, và đã viết, học kiểu hành văn của Tom Cat để cảnh báo Cu Vinh. Các bác đọc thư cảnh báo này trên trang khác mà không phải trang Tom Cat vẫn gửi, và hành văn dù có đi theo mấy cũng không thể chấm câu đúng như các bức trước mà Tom Cat làm. Đây là chuyện thật mà cháu biết, vì chủ blog GOOGLE.TIENLANG đưa cho nhóm cùng đọc và yêu cầu [giữ] bí mật … Có thể bức thư này đánh mất một tình bạn, còn khổ đau nào hơn thế nữa khi mất bạn, nhưng cháu chấp nhận việc này vì cháu không bằng lòng với việc làm của GOOGLE.TIENLANG.“ Mời xem lại: Chuyện hài thế kỷ: Blog Google.tienlang nói Cu Vinh bị Tom Cat sờ gáy.
Cảm ơn!
GS ĐẶNG HÙNG VÕ NÊN XIN LỖI HẢI PHÒNG http://googletienlang.blogspot.com/2012/03/gs-ang-hung-vo-nen-xin-loi-hai-phong.html
-ttngbt: vậy là cái nv 'mèo mả gà đồng' đó là Kami. Gần đây ttngbt blog cũng hân hạnh được tiếp chuyện các bạn thuộc lề phải. Mọi người đọc và cho ý kiến nha.
Nguyễn Thị Hoài (Tiên Lãng)
------------
Lời
dẫn: Có ý kiến cho rằng chủ blog đang cố "vạch lá tìm sâu", "công kích
cá nhân" GS.TS Đặng Hùng Võ và nhà văn- nhà báo Nguyễn Quang Vinh nhằm
bênh che cho những sai lầm, khuyết điểm, thậm chí vi phạm pháp luật của
Ban lãnh đạo TP Hải Phòng và huyện Tiên Lãng. Xin nói rõ, chủ blog cùng
các cộng tác viên không "bút chiến" với ai mà chỉ mong muốn sự công
bằng, lẽ phải, đúng pháp luật. Trước khi phê phán blog, xin các bạn, kể
cả GS.TS Đặng Hùng Võ, kể cả các chuyên gia ở Bộ TN-MT cùng bạn đọc nói
chung hãy bình tĩnh tham khảo bài viết dưới đây của tác giả Nguyễn Thị
Hoài. Xin cảm ơn cộng tác viên Nguyễn Thị Hoài, cảm ơn các thày cô ở Đại
học Luật HN, ở Học viện Tư pháp đã cố vấn pháp luật trong quá trình
hoạt động của blog này.
==================================
THÔNG BÁO TUYỂN CỘNG TÁC VIÊN
Do
nhu cầu phát triển, GOOGLE.TIENLANG cần tuyển cộng tác viên là các luật
gia, nhà báo chuyên nghiệp. Thư đăng ký dự tuyển xin gửi về
gooogle.tienlang@gmail.com. Xin cảm ơn.
==================================
Ba
tháng qua, vụ cưỡng chế ở Tiên Lãng, TP Hải Phòng gây dư luận trong và
ngoài nước bức xúc rất lớn. Trước hết, lỗi này thuộc về Ban lãnh đạo
huyện Tiên Lãng trong việc quyết định cưỡng chế, tổ chức cưỡng chế như
Kết luận của Thủ tướng và của Thường vụ Thành ủy Hải Phòng đã chỉ ra.
Nguyên nhân tiếp theo là do lãnh đạo TP Hải Phòng đã có thiếu sót trong
quá trình xử lý sự cố. Thế nhưng, sự cố không đến nỗi quá căng thẳng nếu
như không có những bài báo quy chụp vội vàng của GS.TS Đặng Hùng Võ...
Phần I- Quan điểm không thống nhất của một chuyên gia
- Trước khi có Kết luận của Thủ tướng:
Chúng
ta đã biết, tổng diện tích đất ông Đoàn Văn Vươn được giao ở bãi bồi
ven biển xã Vinh Quang là 40,3 ha, được chia ra làm 2 mảnh: Một mảnh 21
ha được giao ngày 04/10/1993 bằng
Quyết định 447; Một mảnh 19,3 ha giao ngày 9/4/1997 bằng Quyết định
220. Cả 2 mảnh được giao với thời hạn 14 năm và đều tính từ ngày
4/10/1993.
Chỉ ít ngày ngày sau sự kiện nổ súng, ngày 11/01 trên báo Tuổi trẻ TP HCM, GS. Đặng Hùng Võ khẳng định:
“Với
các quyết định giao đất cho ông Vươn, phải khẳng định không thuộc
trường hợp đất công ích do cấp xã đứng ra đấu thầu, cho thuê trực tiếp
để tạo ngân sách xã. Đây là việc giao đất cho hộ gia đình cá nhân, theo
Luật đất đai năm 1993, cụ thể là theo nghị định 64 về việc giao đất sản
xuất đối với đối tượng ở đây là giao đất sản xuất trồng cây hằng năm,
nuôi trồng thủy sản, làm muối thì thời hạn giao đất được Luật đất đai
quy định là 20 năm.
Cách
tính thời hạn được xác định nếu quyết định đó giao sau ngày 15-10-1993
thì được tính từ thời hạn ban hành quyết định giao đất. Nếu giao đất từ
trước thời điểm trên thì bắt đầu tính thời hạn từ 15-10-1993. Như vậy,
thời hạn mà huyện Tiên Lãng giao đất cho ông Vươn quy định 14 năm là
trái luật, mà phải giao 20 năm mới đúng.” (http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/473467/UBND-huyen-Tien-Lang-co-nhieu-cai-sai.html)
Trên báo vnexpress ngày 13/01, G.S Đặng Hùng Võ nói rõ hơn: “Đất giao năm 1993 thì đến 2013 hết hạn, đất giao năm 1997 thì tới 2017 hết hạn”.
Quan điểm này ông nhắc đi nhắc lại hầu như trên tất cả các tờ báo ở VN, liên tục cho đến tận sát ngày Thủ tướng kết luận 10/2.
- Sau Kết luận của Thủ tướng:
Trên website Chính phủ, ngày 11/2, G.S Đặng Hùng Võ khẳng định: “Thủ tướng đã kết luận rất đầy đủ, cặn kẽ dựa trên cơ sở pháp lý chặt chẽ.”
Thế nhưng, ngày 19/02, trong bài “Tiên Lãng phải sửa sai như thế nào?”trên báo Thanh niên, G.S Đặng Hùng Võ nói:
“Thủ
tướng Chính phủ đã kết luận: (1) Quyết định (QĐ) số 447/QĐ-UB ngày
4.10.1993 của UBND H.Tiên Lãng (giao 21 ha đất) là phù hợp với quy định
của pháp luật đất đai tại thời điểm ban hành; (2) QĐ 220/QĐ-UB ngày
9.4.1997 của UBND H.Tiên Lãng (giao bổ sung 19,3 ha đất) là đúng thẩm
quyền và phù hợp với thực tế sử dụng đất nhưng không đúng với quy định
của pháp luật đất đai về giao đất, cho thuê đất, về thời hạn giao đất và
thời điểm tính thời hạn giao đất.
Khi
QĐ 447 là đúng, thì hết thời hạn giao đất ghi trên QĐ phải chuyển sang
chế độ cho thuê đất trả tiền thuê đất hằng năm được quy định tại điều 80
(đất bãi bồi ven sông, ven biển) của luật Đất đai 2003. Tức là nay phải
làm thủ tục chuyển sang thuê đất.”
Như
vậy, sau Kết luận của Thủ tướng, quan điểm của G.S Đặng Hùng Võ đã thay
đổi 180 độ đối với mảnh 21 ha mà huyện giao cho ông Vươn từ năm 1993
bằng Quyết định 447: Trước đây ông khăng khăng phải đến năm 2013 mới hết
hạn giao; nay thì ông nói đã hết hạn giao và phải chuyển sang cho thuê!
(Xem
các bài viết và nói của GS Đặng Hùng Võ về vụ Tiên Lãng ở đây:
http://googletienlang.blogspot.com/2012/03/giao-su-tien-sy-ang-hung-vo-viet-ve-vu.html)
Phần II - Những quy chụp nặng nề
Trước
Kết luận của Thủ tướng, GS Đặng Hùng Võ luôn khẳng định toàn bộ 40,3 ha
đầm vùng của ông Vươn là đất nông nghiệp được giao cho nông dân sử dụng
ổn định, lâu dài theo Nghị định 64/1993 (gọi tắt là đất 64) với thời
hạn 20 năm. Từ nhận định này, trên rất nhiều tờ báo, GS Đặng Hùng Võ đưa
ra những kết tội nặng nề đối với Ban lãnh đạo huyện Tiên Lãng. Ví dụ,
trên tuanvietnamnet ngày 13/01 ông kết luận:
“Việc thu hồi đất sản xuất giao cho hộ gia đình nông dân trước thời hạn 20 năm là một cái sai "tầy đình". Vấn
đề lớn như vậy mà huyện Tiên Lãng coi như chuyện "vặt", làm sai hết.
Tôi có cảm giác như huyện Tiên Lãng không biết địa phận của mình đang
nằm trong lãnh thổ Việt Nam.”
Rồi G.S suy diễn:
“Theo
những nghiên cứu về các nguy cơ tham nhũng trong quản lý đất đai ở nước
ta hiện nay, cơ chế Nhà nước thu hồi đất chứa các nguy cơ tham nhũng
cao nhất. Đằng sau quyết định thu hồi đất là quyết định sẽ giao đất đó
cho ai? Về bản chất, quyết định thu hồi đất là việc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quyết định lấy đất của người này giao cho người khác. Đằng
sau quyết định hành chính này thường chứa chất những mối quan hệ kinh tế
phức tạp, dễ gắn với tư lợi của người có thẩm quyền, của cơ quan có
thẩm quyền. Vậy thì ai sẽ là người chờ phía sau của quyết định thu hồi
đất của UBND huyện Tiên Lãng để chờ được giao đất đã thu hồi của dân.”
Cũng trong ngày 13/1, trên báo vnexpress G.S Võ kết tội:
“Điều
này thể hiện có cái gì lẩn khuất phía sau các quyết định thu hồi đất.
UBND huyện Tiên Lãng cố tình tước bỏ quyền lợi của người dân trong khi
hai bên đã thỏa thuận giải quyết thỏa đáng. Ở đây, nguy cơ là chính
quyền có thể thấy vùng đất đó sau khi được cải tạo là quá màu mỡ và muốn
chuyển đổi cho đối tượng khác.”
Phần III- Tại sao Thủ tướng kết luận không như quan điểm G.S Đặng Hùng Võ?
Thủ tướng kết luận vụ Tiên Lãng ngày 10/2
Trong
vụ Tiên Lãng, hẳn ai cũng biết câu nói nổi tiếng của G.S Đặng Hùng Võ:
“Tôi sẵn sàng đối chất với Tiên Lãng”. Tiếc rằng Ban lãnh đạo TP Hải
Phòng không tạo điều kiện mời G.S về Tiên Lãng để G.S “đối chất” như ông
mong muốn. Khi phát ngôn, GS không hề biết rằng ông Đoàn Văn Vươn có hộ
khẩu thường trú ở xã Bắc Hưng và đã được giao ruộng 64 ở đây. Đến nay,
cũng như ở các địa phương trong cả nước, ruộng 64 của ông Vươn tại xã
Bắc Hưng chưa hề bị thu hồi. Vì thiếu thông tin này nên G.S Võ
luôn luôn nhầm lẫn khi cho rằng 40,3 ha đầm của ông Vươn ở xã Vinh
Quang là đất nông nghiệp được giao ổn định lâu dài (20 năm) theo Nghị
định 64/1993.
Điều
14 Luật Đất đai 2003 quy định căn cứ đầu tiên để xác định loại đất là
hiện trạng sử dụng đất. Vì không về Tiên Lãng nên G.S Đặng Hùng Võ không
hề biết rằng tại thời điểm 1992- 1994 khu vực Nam Cống Rộc xã Vinh
Quang còn là vùng nước mênh mông. Thành phố Hải Phòng phải đầu tư không
biết bao nhiêu tiền của khi triển khai thực hiện Dự án Vinh Quang II, Dự
án Đầu tư khai thác vùng bãi bồi ven biển, phát triển nuôi trồng thủy
sản huyện Tiên Lãng. Cùng với nhà nước, bản thân ông Vươn cũng đã phải
đầu tư khá nhiều tiền của, mồ hôi, công sức. Sau 6- 7 năm trời, khu vực
này mới trở thành khu nuôi trồng thủy sản ổn định với hệ thống đường
công vụ, đê chắn sóng, rừng ngập mặn bảo vệ đê. Vì không có thực tế nên
G.S Võ luôn nhầm lẫn, rằng khi ông Vươn cầm quyết định giao đất ghi mục
đích “để nuôi trồng thủy sản” trong tay thì khu vực này từ đất hoang
chưa sử dụng ngay lập tức biến thành đất nông nghiệp. Ai nói khác ý G.S
là ông mắng “nói linh tinh, lăng nhăng”!
Phần IV - Trong rừng văn bản nhưng lại thiếu văn bản về bãi bồi
- Thừa vẫn thừa
Để tăng tính đanh thép trong những lời kết tội lãnh đạo Tiên Lãng, trên báo VnMedia ngày 7/2 G.S Đặng Hùng Võ nói:
“Có
thể pháp luật đất đai trong giai đoạn xa xưa nào đó còn viết chưa thật
rõ hoặc chưa điều chỉnh hết các tình huống. Các tiêu chí xử lý cũng
thiếu cụ thể. Khi xây dựng Luật Đất đai 2003 và Nghị định 181, chúng tôi
cố gắng khắc phục cao nhất những kiểu diễn luật thiếu mạch lạc, các quy
định cố gắng rất cụ thể. Theo hệ thống pháp luật đất đai hiện hành,
không thể hiểu khác đối với cái sai của Quyết định thu hồi đất và cưỡng
chế thu hồi đất.”
Thế nhưng, tại Kết luận ngày 10/2, Thủ tướng lại đưa ra nhận định ngược lại: “Những năm qua, chính sách pháp luật về đất đai có rất nhiều thay đổi. Từ
năm 1987 đến nay, Luật Đất đai đã được ban hành mới 3 lần (1987, 1993,
2003) và sửa đổi 2 lần (1998, 2001). Hàng trăm văn bản dưới luật cũng
được ban hành, sửa đổi nhưng vẫn còn không ít vấn đề chưa đủ rõ, thậm
chí trùng chéo, mâu thuẫn.”
“Hàng trăm”, cụ thể là bao nhiêu, chắc không ai có thể thống kê chính
xác được. Nhà báo Đào Tuấn cho rằng con số này là 400. Ngay từ năm
2008, Viện Nghiên cứu quản lý
kinh tế Trung ương đã đưa ra một con số thống kê cho biết, cứ 1 trang
Luật Đất đai thì phải “cõng” tới 19,5 trang văn bản hướng dẫn thi hành!
Ai chịu trách nhiệm chính trong việc làm ra cái hệ thống pháp luật về
đất đai rối rắm, trùng chéo, mâu thuẫn như Thủ tướng kết luận nếu không
phải là Bộ TN-MT, trong đó có phần rất lớn của chính GS Đặng Hùng Võ?
Chỉ
tính riêng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định về cơ chế
chính sách "bồi thường, hỗ trợ, tái định cư” khi Nhà nước thu hồi đất,
trong Luật Đất đai đã có 7 điều - từ điều 38 đến điều 44, (trong tổng số
146 điều thuộc 7 Chương Luật Đất đai). Để hướng dẫn thực hiện các quy
định tại 7 điều này, từ 2004 đến nay Chính phủ và các bộ ngành đã ban
hành 5 Nghị định hướng dẫn với vô số nhóm vấn đề, (từ phạm vi điều chỉnh
khung chính sách tới hàng trăm điều quy định các nguyên tắc bồi thường
hỗ trợ...).
Đó
là Nghị định 181/NĐ-CP ngày 29-10-2004 về thi hành Luật Đất đai có 16
chương 186 điều; Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 3-12-2004 về bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất có 7 chương 51 điều; Nghị
định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/1/2006 về sửa đổi, bổ sung một số điều
của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số
187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần, có
7 điều; Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25-5-2007 quy định bổ sung về việc
cấp Giấy chứng nhận, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, giải
quyết khiếu nại về đất đai, có 68 điều; Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày
13-8-2009 quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi
đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, có 41 điều, trong đó có 14 điều
sửa đổi, bổ sung...
Từ
sau ngày ban hành Luật Đất đai năm 2003 Chính phủ có quá nhiều Nghị
định quy định việc thi hành Luật Đất đai nhưng cũng có nhiều quy định đã
bị bãi bỏ. Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27-1-2006 của Chính phủ đã
sửa đổi, bổ sung và bãi bỏ nhiều điều quy định trong Nghị định số
181/2004/NĐ-CP và sửa đổi một số Nghị định khác làm cho người thực hiện không biết đâu mà lần.
Có lẽ trong lịch sử lập pháp lập quy Việt Nam chưa ở đâu có sự cẩu thả, tùy tiện như ở Bộ TN-MT. Văn
bản mới nhất và có giá trị thực thi cao nhất trong việc thu hồi đất là
Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định bổ sung
về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư. Ngày 13/8/2009 Chính phủ ban hành Nghị định 69 thì đến ngày
23/10/2009 Bộ trưởng Bộ TN-MT có văn bản đính chính số 181/ĐC-CP đính chính Nghị định số 69/2009. Nghị định 69/2009 có 41 điều thì có sai sót ở 8 điều cùng hàng chục khoản phải đính chính sửa đổi!
Quan trọng hơn nữa, theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì
Nghị định là loại văn bản quy phạm pháp luật của tập thể chính phủ chứ
không phải của cá nhân thủ tướng. Tức là dự thảo nghị định phải được tập
thể các thành viên chính phủ thảo luận, biểu quyết. Thủ tướng chỉ là
người thay mặt tập thể chính phủ ký ban hành. Ấy vậy mà 1 bộ trưởng lại
đi ký 1 văn bản sửa đổi 1 văn bản đã được tập thể chính phủ thảo luận,
thông qua, Thủ tướng đã ký ban hành!? Cũng theo Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật thì chẳng có loại văn bản nào với tên gọi “Đính
chính” như cái Đính chính số 181/ĐC-CP mà Bộ trưởng Bộ TN-MT ký ngày
23/10/2009!
- Nhưng thiếu vẫn thiếu
Trong cả rừng văn bản như vậy nhưng rất tiếc, lại thiếu 1 văn bản quan trọng về đất bãi bồi ven biển. Việt Nam là một quốc gia ven biển có bờ biển dài trên 3.200 km, hàng trăm ngàn km dọc các bờ sông, quanh hồ, đầm, từ Bắc chí Nam nên diện tích đất bãi bồi rất lớn.
Luật Đất đai 1993 có Điều 50 với vẻn vẹn 14 chữ: “Việc quản lý, sử dụng đất mới bồi ven biển do Chính phủ quy định.”
Với quy định này bắt buộc phải hiểu rằng vì tính chất đặc thù, chưa ổn
định nên đất bãi bồi phải chịu sự điều chỉnh riêng biệt của Chính phủ
chứ không theo quy định chung của Luật Đất đai 1993. Thế nhưng, từ đó
đến nay, Chính phủ chưa có văn bản nào cụ thể hóa Điều 50 Luật Đất đai
1993. Chính phủ chỉ “cài” được 1 khoản trong Điều 5 Nghị định 64/1993
khi ban hành 1 văn bản về giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sử dụng đất Nông nghiệp: “3.
Đối với đất trống, đồi núi trọc, đất khai hoang, lấn biển thì hạn mức
của hộ, cá nhân sử dụng do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương quyết định, căn cứ vào quỹ đất của địa phương và khả năng sản
xuất của họ, đảm bảo thực hiện chính sách khuyến khích, tạo điều kiện
thuận lợi để sử dụng các loại đất này vào mục đích sản xuất nông nghiệp”.
GS Đặng Hùng Võ có viện dẫn đến Quyết định 773/1994-TTg ngày 21/12/1994 của Thủ tướng về “Chương trình khai thác, sử dụng đất hoang hoá, bãi bồi ven sông, ven biển và mặt nước ở các vùng đồng bằng”
để khẳng định cần áp dụng cho trường hợp của ông Đoàn Văn Vươn mức hạn
điền theo Điều 13 là từ 2 đến 10 ha. Theo chúng tôi, đòi hỏi này của GS
Võ khá khiên cưỡng vì ngay tên gọi của Quyết định trên đã thể hiện rằng
việc giao đất ở đây chỉ thực hiện theo các dự án trong khuôn khổ một
Chương trình quốc gia. Các dự án phải được lập, trình, thẩm định, phê
duyệt trước khi đưa ra triển khai. Trên
báo Thanh niên ngày 19/2 GS Võ cũng thừa nhận những bất hợp lý nếu áp
dụng Quyết định 773/1994 cho trường hợp ông Vươn vì tại Quyết định này
không hề có chế định thuê đất. (Xem Quyết định 773/1994- Ttg ở đây:http://googletienlang.blogspot.com/p/thu-vien-phap-luat.html) Ngoài
ra, như chúng ta đã rõ, quyền lợi của người sử dụng đất khác nhau một
trời một vực nếu như đất sử dụng là đất được GIAO hay là đất THUÊ. Thế
nhưng, cùng với 1 câu hỏi nếu bây giờ sửa sai thì ông Vươn sẽ được GIAO
bao nhiêu, THUÊ bao nhiêu, mỗi lúc GS nói mỗi khác. Trên báo Tuổi trẻ TP
HCM ngày 11/2, GS Võ nói:
“Việc
sửa chữa những cái sai của cơ quan chức năng bây giờ là muộn. Tuy
nhiên, tôi nghĩ công và tội cần nên rạch ròi. Cái gì áp dụng sai thì
phải sửa.Nếu theo
luật thì huyện Tiên Lãng phải quyết định lại việc giao đất đối với ông
Vươn kéo dài thời hạn đúng 20 năm, nhưng diện tích giao đất chỉ tối đa
2ha, còn lại là chuyển sang cho thuê.”
Nhưng chỉ 2 hôm sau, ngày 13/1 trên vnexpress GS Võ lại cho rằng:
“Vấn đề của ông Đoàn Văn Vươn theo tôi giải quyết đơn giản. Đất
giao năm 1993 thì đến 2013 hết hạn, đất giao năm 1997 thì tới 2017 hết
hạn. Còn về hạn mức diện tích, nếu đất giao vượt hạn mức quy định của
Chính phủ, chốt diện tích 10ha của dân không phải nộp nghĩa vụ tài
chính, và diện tích còn lại về nguyên tắc phải chuyển sang thuê đất.”
Cuối
cùng, trên báo Thanh niên ngày 19/2, GS Võ khẳng định, toàn bộ diện
tích nay phải chuyển hết sang cho THUÊ chứ ông Vươn không được GIAO:
“Khi
QĐ 447 là đúng, thì hết thời hạn giao đất ghi trên QĐ phải chuyển sang
chế độ cho thuê đất trả tiền thuê đất hằng năm được quy định tại điều 80
(đất bãi bồi ven sông, ven biển) của luật Đất đai 2003. Tức là nay phải
làm thủ tục chuyển sang thuê đất”
Chỉ một khái niệm “đất bãi bồi” thôi mà mỗi năm có hàng trăm vụ khiếu kiện liên quan đến những tranh chấp trên loại đất này. Ở
cơ quan tố tụng cấp cao nhất đất nước, “đất bãi bồi” của ông Lê Đình
Thảo đã gây tranh cãi căng thẳng giữa VKSND Tối cao với TAND Tối cao, cả
2 lần kháng nghị của Viện trưởng VKSND Tối cao đều bị TAND Tối cao bác
bỏ.
Đất
bãi bồi được đưa vào Luật Đất đai 2003, tại Chương 3, mục đất nông
nghiệp. Theo điều 80 của Luật này, đất bãi bồi ven sông, ven biển bao
gồm đất bãi bồi ven sông, đất cù lao trên sông, đất bãi bồi ven biển và
đất cù lao trên biển. Nhà nước cho thuê thu tiền thuê đất này hàng năm
đối với tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân để sử dụng vào mục đích
sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối.
Thế nhưng
Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn chưa có định nghĩa, hướng dẫn cụ
thể về đặc điểm loại hình, chức năng quản lý đất bãi bồi một cách rõ
ràng, nên đã gây nhiều tranh cãi và thực tế phát sinh nhiều hệ lụy,
tranh chấp, khiếu kiện…
Đất bãi bồi có đến trên 80% là đất hoang hóa, đất mới do phù sa bồi lấp nên.Cùng
với sự bồi lắng tự nhiên, phải có sức người quai đê lấn biển, trồng
rừng chắn sóng mới có thể biến đất hoang hóa thành đất nông nghiệp nuôi
trồng thủy sản. Công việc này đòi hỏi cả 1 quá trình gian nan vất vả. Từ
đất hoang hóa, khi đã trở thành đất nông nghiệp thì địa vị pháp lý của
đất phải được thay đổi. Trong luật pháp cần có những điều khoản quy định rõ trình tự, thủ tục, các điều kiện ghi nhận sự chuyển
đổi từ đất hoang, chưa sử dụng sang đất nông nghiệp nuôi trồng thủy sản
đối với riêng loại đất mới bồi ven biển cùng địa vị pháp lý của chúng
sau khi chuyển đổi.
Bộ
TN&MT mới đây có Công văn số 371 gửi UBND các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương về việc kiểm tra, rà soát việc sử dụng đất bãi bồi ven
sông, ven biển, yêu cầu báo cáo kết quả kiểm tra, xử lý về Bộ TN&MT
trước ngày 29-2-2012 để Bộ tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong
tháng 3-2012.
Phần V - Giáo sư Đặng Hùng Võ nên xin lỗi Hải Phòng
Đương
nhiên, Thủ tướng đã kết luận rõ ràng: Hành vi ra quyết định cưỡng chế,
tổ chức thực hiện cưỡng chế, đặc biệt là cưỡng chế sai địa điểm, phá nhà
trông đầm... có dấu hiệu hình sự. Người ra quyết định, người thực hiện
sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự. Nhưng việc nào ra việc đó. Khi ra
quyết định thu hồi chỉ là lỗi nhận thức về pháp luật khác nhau mà thôi
chứ không phải cố ý “cướp đất của dân” như GS cùng 1 số cơ quan báo chí
đã quy chụp.
Trên
cơ sở xem xét thực tế, các bộ ngành đã tham mưu cho Thủ tướng ra kết
luận không giống như quan điểm của GS Đặng Hùng Võ. GS cũng đã đồng tình
rằng Kết luận của Thủ tướng là đúng pháp luật, rằng với mảnh 21 ha của
ông Vươn được giao năm 1993 đến nay đã hết hạn chứ không phải đến năm
2013 như quan điểm của ông. Vậy thì, thiết nghĩ, GS cũng nói rõ ràng vấn
đề này để mọi người hiểu. Đồng thời, GS cũng nên xin lỗi Hải Phòng vì
sự lỡ lời trong những suy diễn, quy chụp nặng nề trước đây. Xin lỗi
không chỉ vì Hải Phòng mà là vì sự ổn định chung trên địa bàn cả nước.
Ngoài ra, xin lỗi còn vì chính uy tín của một chuyên gia, một nhà khoa
học. Một người như vậy không thể "nói hai lời" mà không có sự lý giải
đàng hoàng, công khai.
Nếu GS
không nói rõ ràng, công khai vấn đề này thì e rằng những cơ quan chức
năng, kể cả ở cấp trung ương chịu trách nhiệm xử lý vụ Tiên Lãng sẽ tiếp
tục gặp khó khăn. GS-TS Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ TN-MT, một
trong những tác giả quan trọng của Dự thảo Luật Đất đai hiện hành. Do
vậy, thật dễ hiểu khi thấy ảnh hưởng của GS lên công luận là vô cùng
lớn. Nhiều cán bộ cao cấp, nhiều chuyên gia pháp luật khả kính, nhiều cơ
quan báo chí khi bàn về vụ Tiên Lãng hoàn toàn yên tâm, không cần tìm
hiểu thêm vì đã có những ý kiến, nhận định, kết luận đanh thép của một
chuyên gia hàng đầu về pháp luật đất đai. Sau khi Thủ tướng kết luận, GS
Đặng Hùng Võ đã thay đổi quan điểm 180 độ nhưng không phải ai cũng có
thể nhận ra. Bởi những phát biểu vô cùng mạnh mẽ, vô cùng ấn tượng ngày
nào của GS đã đóng đinh vào công luận...
Phần VI - Kiến nghị lời giải bài toán Tiên Lãng
Tại Kết luận ngày 10/2, Thủ tướng yêu cầu Hải Phòng “làm thủ tục cho ông Đoàn Văn Vươn sử dụng đất theo đúng quy định của Luật Đất đai”. Hiện nay Hải Phòng đang nóng lòng chờ hướng dẫn bằng văn bản của Bộ TN-MT.
Ở
Tiên Lãng, ngoài trường hợp của ông Đoàn Văn Vươn còn có trên 30 trường
hợp khác cũng đã hết hạn sử dụng theo quyết định giao; cũng đã có quyết
định thu hồi của huyện nhưng các ông chủ đầm cũng vẫn chưa chịu trả.
Cũng đã có 1 trường hợp của ông Lê Đình Thảo ở xã Tiên Thắng đã qua cấp
xét xử cao nhất bằng 1 bản án giám đốc thẩm của HĐTP TAND Tối cao từ năm
2007 với sự công nhận quyết định thu hồi đất của UBND huyện khi hết
thời hạn giao (12 năm). Và do vậy, năm 2008 UBND huyện đã cưỡng chế thu
hồi. Vậy cần “làm thủ tục” thế nào cho trường hợp của ông Vươn cũng cần đặt trong bối cảnh chung như các chủ đầm khác.
Thực
tế, theo quy định của Luật thuế, UBND huyện Tiên Lãng đã không thu thuế
từ ông Vươn trong 7 năm, từ 1993 đến năm 2000. Thời gian này là thời
gian đang diễn ra quá trình quai đê lấn biển, trồng rừng chắn sóng. Từ
năm 2001 khu đầm này đã hình thành khu nuôi trồng thủy sản ổn định, nó
đã trở thành đất nông nghiệp nuôi trồng thủy sản. Nếu như khi còn hoang
hóa, khi diễn ra quá trình quai đê lấn biển, cải tạo đất khu đất này còn
chịu sự điều chỉnh theo các quy định riêng của địa phương thì từ năm
2001, khi đã trở thành đất nông nghiệp, nó phải chịu sự điều chỉnh chung
của các điều luật về đất nông nghiệp. Tức là nó phải chịu sự khống chế
về hạn điền với đất nông nghiệp. Ông Vươn đã được giao đất nông nghiệp
theo Nghị định 64/1993 ở xã Bắc Hưng. Theo khoản 4 Điều 70 Luật Đất đai
2003 thì: Trường
hợp hộ gia đình, cá nhân được giao nhiều loại đất bao gồm đất trồng cây
hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối thì tổng hạn mức giao
đất không quá năm héc ta.
Do
vậy, tôi đề xuất phương án giao ổn định lâu dài cho ông Vươn 5 ha trừ
đi phần diện tích đất nông nghiệp đã được giao ở xã Bắc Hưng 2900 m2,
còn lại bằng 47.100 m2. Số diện tích còn lại cần được coi là đất vượt
hạn mức, chuyển sang cho thuê.
Lưu ý, thời hạn sử dụng đất vượt hạn mức theo
khoản 2 Điều 67 Luật Đất đai 2003 quy định chỉ có 10 năm: “2. Thời hạn
sử dụng đối với diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức do được giao
trước ngày 01 tháng 01 năm 1999 bằng một phần hai thời hạn quy định tại
khoản 1 Điều này, sau đó phải chuyển sang thuê đất."
Như vậy, quan điểm của GS Đặng Hùng Võ rằng mảnh 19,3 ha được giao năm
1997 phải đến năm 2017 mới hết hạn giao là không có cơ sở. Thời hạn đã
hết từ năm 2007. Như vậy, toàn bộ khu này trừ đi phần được giao, số còn
lại phải chuyển sang thuê.
NGUYỄN THỊ HOÀI (Tiên Lãng)
Bà con ơi, lão Đông La vừa có bài: QUỲ PHỤC TRƯỚC LINH THIÊNG vẫn giọng điệu tâng bốc bọn đồng cốt và gọi chúng ta là: 'rận chủ'. Lão này hình như có vấn đề tâm lý thật rồi!
Trả lờiXóaHa ha!!! Tôi chả bao giờ thèm liếc qua trang Đông La.
XóaThấy ông Nặc danh 09:39 Ngày 08 tháng 01 năm 2014 nói, tôi thử liếc qua!
Tên Đông La quả thực là tâm thần cmnr!
Mới đây, ngay tại Hà Nội, vì mê tín dị đoan tin vào thầy bà nào đó mà một ng đàn ông cắt chân chị gái, báo ng đưa tin làm được phóng sự mấy kỳ, anh Đoàn Tân giật giải Vua Kền Kền
http://googletienlang2014.blogspot.com/2014/01/oan-tan-pv-nguoi-ua-tin-giat-giai-vua.html
Bây giờ đến lượt Đông La, đập bàn thờ gia tiên để xoay hướng!
Tên này nếu gặp Giáo chủ Đạo "HOÀNG THIÊN LONG" thì chắc tên này sẵn sàng vứt hết đồ thờ ông bà tổ tiên...
Mụ Vũ Thị Hòa này chắc còn ít tuổi hơn Đông La mà sao hắn lại xưng Con với Hòa?
Đề nghị cô chủ nhà khôi phục lại bài Xem "nhà ngoại cảm" Vũ Thị Hòa tìm mộ liệt sĩ và loạt bài về Nguyễn Thị Điền Giáo chủ đạo Thiên Long Hoàng!