Lời dẫn: Ward Wilson là nhà phân tích chính sách hạt nhân, đã sống và làm việc tại Trenton , New Jersey- Hoa Kỳ. Từ năm 2007 đến nay Ward Wilson nổi tiếng trên toàn thế giới về những nghiên cứu chính sách hạt nhân. Những tác phẩm của ông đã đoạt được nhiều giải thưởng quốc tế.
Ward Wilson
Wilson đã được mời đến thuyết trình tại Bộ Ngoại giao, Lầu Năm Góc, các viện Anh Commons, Nghị viện châu Âu, Viện Brookings, Trung tâm Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế, Naval War College cùng nhiều trường đại học danh tiếng như Harvard, Princeton, Stanford, Georgetown và Đại học Chicago. Wilson được mời đến giới thiệu cuốn sách của mình “Năm thần thoại về vũ khí hạt nhân” tại Văn phòng Liên Hợp Quốc về giải trừ quân bị giao vào tháng Hai năm 2013…
Google.tienlang giới thiệu bài viết "The Bomb Didn’t Beat Japan… Stalin Did”- "Nhật đầu hàng không phải vì bom nguyên tử, mà... vì Stalin" của Ward Wilson đăng trên Tạp chí Foreign Policy- Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ.
****************************
Nguồn: Ward Wilson, “The Bomb Didn’t Beat Japan… Stalin Did”, Foreign
Policy, 30/5/2013.
Biên dịch: Lê Hoàng Giang
Bài liên quan:
Ý nghĩa chiến lược
Nếu các lãnh đạo Nhật Bản không
lo ngại gì trước những vụ ném bom thành thị nói chung và vụ ném bom nguyên tử
xuống Hiroshima
nói riêng, thì họ lo ngại điều gì? Câu trả lời rất đơn giản: Liên Xô.
Nhật Bản khi đó đang ở trong một
tình thế chiến lược tương đối khó khăn. Họ đang tiến gần đến kết thúc điểm của
một cuộc chiến mà họ đang thua. Tình hình rất tồi tệ. Tuy nhiên, lực lượng Lục
quân vẫn còn mạnh và quân nhu còn đầy đủ. Gần 4 triệu binh sĩ còn được vũ trang
và 1,2 triệu binh sĩ trong số đó đang canh gác những hòn đảo chính của Nhật
Bản.[1]
Thậm chí những nhà lãnh đạo cứng
rắn nhất trong chính phủ Nhật Bản cũng biết rằng cuộc chiến không thể tiếp
diễn. Câu hỏi đặt ra không phải là có nên tiếp tục hay không, mà là làm thế nào
để kết thúc cuộc chiến với những điều kiện tốt nhất có thể. Quân Đồng Minh (Hoa
Kỳ, Anh Quốc, và các nước khác – hãy nhớ rằng Liên Xô khi đó vẫn còn trung lập)
yêu cầu Nhật phải “đầu hàng vô điều kiện”. Các lãnh đạo Nhật Bản đã hy vọng
rằng họ có thể tìm được cách để tránh bị xét xử vì tội ác chiến tranh, giữ được
hình thức tổ chức chính quyền, và giữ lại một số vùng lãnh thổ mà họ đã chiếm
được: Triều Tiên, Việt Nam, Miến Điện, một phần Malaysia và Indonesia, một phần
lớn miền đông Trung Quốc, và hàng loạt hòn đảo trên Thái Bình Dương.
Họ có hai kế hoạch để đạt được
những điều kiện đầu hàng tốt hơn; nói cách khác, họ có hai lựa chọn chiến lược.
Lựa chọn thứ nhất là ngoại giao. Nhật Bản đã từng ký một thỏa thuận trung lập
hiệu lực 5 năm với Liên Xô vào tháng 4 năm 1941, và sẽ hết hạn vào năm 1946.
Một nhóm gồm phần lớn là các lãnh đạo dân sự, đứng đầu là Ngoại trưởng Togo
Shigenori, đã hy vọng có thể thuyết phục Stalin làm trung gian dàn xếp thỏa
thuận giữa một bên là Hoa Kỳ và các đồng minh, bên kia là Nhật Bản. Mặc dù kế
hoạch này là một ván cược đầy rủi ro, song nó vẫn thể hiện tư duy chiến lược vững
vàng. Sau cùng thì Liên Xô sẽ có lợi nếu đảm bảo những điều kiện trong thỏa
thuận không quá có lợi cho Hoa Kỳ; tăng cường ảnh hưởng hay quyền lực của Hoa
Kỳ ở châu Á ở bất kỳ mức độ hay hình thức nào sẽ đồng nghĩa với suy giảm quyền
lực và ảnh hưởng của Nga.
Lựa chọn thứ hai là quân sự, và
phần lớn những người ủng hộ lựa chọn này là quân nhân, đứng đầu là Bộ trưởng Bộ
Chiến tranh Anami Korechika. Những người này hy vọng sẽ dùng bộ binh Lục quân
Đế Quốc để gây thương vong lớn cho các lực lượng Hoa Kỳ khi họ đổ bộ. Họ cho
rằng nếu thành công thì sẽ có thể buộc Hoa Kỳ phải đưa ra những điều kiện có
lợi hơn cho Nhật Bản. Chiến lược này cũng là một ván cược đầy rủi ro. Hoa Kỳ có
vẻ rất cương quyết với yêu cầu đầu hàng vô điều kiện. Nhưng vì trên thực tế là
đã có những lo ngại trong giới lãnh đạo quân sự của Hoa Kỳ rằng thương vong
trong cuộc đổ bộ vào Nhật Bản sẽ là rất lớn, nên chiến lược này của giới cầm
quyền Nhật Bản không phải là không có cơ sở.
Một cách để đánh giá xem nguyên
nhân Nhật Bản đầu hàng là vì vụ ném bom Hiroshima hay vì cuộc đổ bộ và tuyên
chiến của Liên Xô là so sánh cách mà hai sự kiện này tác động đến tình hình
chiến lược. Tính đến ngày 8 tháng 8, sau khi Hiroshima bị ném bom, cả hai lựa chọn trên
đều vẫn còn khả thi. Khi đó vẫn còn có thể đề nghị Stalin làm trung gian thỏa
thuận (những ghi chép trong nhật ký của Takagi trong ngày 8 tháng 8 cho thấy ít
nhất một số lãnh đạo Nhật Bản vẫn còn nghĩ đến việc cố gắng lôi kéo Stalin tham
gia). Khi đó cũng vẫn còn có thể cố gắng đánh một trận quyết định cuối cùng và
gây được tổn thất lớn. Việc Hiroshima bị hủy diệt không làm giảm đi sự sẵn sàng
của những binh lính đang trấn thủ trên các bờ biển của bốn hòn đảo chính của
Nhật Bản. Lúc ấy phía sau họ đã mất đi một thành phố, nhưng họ vẫn còn ở nguyên
vị trí, vẫn còn đạn dược, và sức mạnh quân sự của họ không bị tổn hại theo bất
kỳ cách đáng kể nào. Vụ ném bom Hiroshima
không làm mất đi bất kỳ lựa chọn chiến lược nào trong số hai lựa chọn của Nhật
Bản.
Tuy nhiên, tác động của việc Liên
Xô tuyên chiến với Nhật Bản và đưa quân xâm nhập vào Mãn Châu & quần đảo Sakhalin lại rất khác. Ngay khi Liên Xô tuyên chiến,
Stalin không còn có thể làm trung gian thỏa thuận nữa – giờ thì ông ta đã trở
thành địch thủ. Vì vậy bước đi này của Liên Xô đã gạt bỏ đi lựa chọn ngoại giao
của Nhật Bản. Tác động đối với tình hình quân sự cũng nặng nề không kém. Phần
lớn những binh sĩ thiện chiến nhất của Nhật Bản đã được điều chuyển xuống phía
nam của bốn hòn đảo chính. Quân đội Nhật Bản đã đoán đúng rằng nơi dễ là mục
tiêu đầu tiên mà người Mỹ đổ bộ sẽ là đảo Kyushu nằm ở cực nam Nhật Bản. Đạo
quân Quan Đông của Nhật Bản ở Mãn Châu chỉ còn là cái bóng của mình ngày xưa,
bởi vì những binh lính giỏi nhất trong quân đoàn này đã được đưa về Nhật Bản để
bảo vệ chính quốc. Khi Nga đưa quân vào Mãn Châu, họ dễ dàng cắt xuyên qua thứ
mà ngày trước từng là một đội quân tinh nhuệ bấc nhất, nhiều đơn vị Nga chỉ
phải dừng lại mỗi khi hết nhiên liệu. Tập đoàn quân 16 của Liên Xô – với quân
số 100.000 binh sĩ – đã đổ bộ lên phía nam đảo Sakhalin. Lệnh của họ là quét
sạch toàn bộ những lực lượng của Nhật Bản trên đảo và sau đó – trong vòng 10
hay 14 ngày – chuẩn bị đổ bộ lên Hokkaido, đảo cực bắc trong bốn hòn đảo chính
của Nhật Bản. Lực lượng của Nhật có nhiệm vụ bảo vệ Hokkaido, Quân Khu 5, đã suy
yếu khi chỉ còn hai sư đoàn và hai lữ đoàn, và được dồn về phía đông trên đảo.
Kế hoạch tấn công của Liên Xô là đổ bộ lên đảo từ phía tây.
Chẳng cần phải là thiên tài quân
sự mới thấy được rằng, mặc dù có thể đánh một trận quyết định chống lại một đại
cường quốc tiến công từ một hướng, song không thể nào đánh lui hai đại cường
quốc tiến công từ hai hướng khác nhau. Cuộc đổ bộ của Liên Xô đã vô hiệu hóa
chiến lược đánh một trận quyết định, cũng như đã vô hiệu hóa chiến lược ngoại
giao. Chỉ với một đòn đánh, tất cả lựa chọn của Nhật Bản đều đã tan biến. Cuộc
đổ bộ của Liên Xô có ý nghĩa chiến lược quyết định còn vụ ném bom Hiroshima thì
không – cuộc đổ bộ đã làm mất đi cả hai lựa chọn của Nhật Bản, trong khi vụ ném
bom thì không làm mất đi lựa chọn nào.
Lời tuyên chiến của Liên Xô cũng
đã thay đổi những tính toán về việc còn bao nhiêu thời gian để ứng phó. Tình
báo Nhật Bản dự tính rằng các lực lượng Hoa Kỳ sẽ không đổ bộ trong suốt nhiều
tháng. Mặc khác, các lực lượng Liên Xô có thể tiến sâu vào Nhật Bản trong thời
gian rất ngắn là 10 ngày. Cuộc đổ bộ của Liên Xô đã khiến cho việc quyết định
chấm dứt chiến tranh là vô cùng cấp bách.
Và các nhà lãnh đạo Nhật Bản đã
đi đến kết luận này trước đó vài tháng. Trong một cuộc họp của Hội đồng Tối cao
vào tháng 6 năm 1945, họ đã nói rằng sự tham gia của Liên Xô vào cuộc chiến “sẽ
quyết định số phận của cả Đế Quốc”. Cũng trong cuộc họp đó, Phó Tổng Tham mưu
Lục quân Kawabe đã nói rằng “Duy trì tuyệt đối hòa bình trong quan hệ của chúng
ta với Liên Xô là hết sức quan trọng nếu muốn tiếp tục cuộc chiến”.
Giới lãnh đạo Nhật Bản từ đầu đến
cuối đã tỏ ra không quan tâm gì đến những vụ ném bom đang tàn phá các thành phố
của họ. Và mặc dù điều này có thể không đúng khi những vụ ném bom bắt đầu diễn
ra vào tháng 3 năm 1945, đến khi Hiroshima bị tấn công thì họ chắc chắn đã
không coi những vụ ném bom thành thị là quan trọng, xét về khía cạnh tác động
chiến lược. Khi Truman đưa ra lời đe dọa nổi tiếng là sẽ đổ xuống các thành phố
Nhật Bản một “cơn mưa hủy diệt” nếu Nhật Bản không chịu đầu hàng, có ít người ở
Mỹ nhận ra được là không còn gì nhiều để hủy diệt. Đến ngày 7 tháng 8, khi
Truman đưa ra lời đe dọa, chỉ còn 10 thành phố trên 100.000 dân là chưa bị ném
bom. Khi Nagasaki
bị ném bom vào ngày 9 tháng 8, chỉ còn lại chín thành phố. Bốn trong số đó nằm
trên đảo Hokkaido phía cực bắc Nhật Bản, một
vị trí rất khó bị ném bom vì cách quá xa đảo Tinian
nơi các máy bay ném bom của Mỹ đồn trú. Kyoto ,
cố đô của Nhật Bản, đã được Bộ trưởng Chiến tranh Henry Stimson loại ra khỏi
danh sách mục tiêu vì thành phố này có ý nghĩa biểu tượng và tôn giáo quan
trọng. Vì vậy mặc dù đe dọa của Truman nghe rất đáng sợ, song sau khi Nagasaki bị ném bom thì
chỉ còn lại bốn thành phố lớn có thể bị tấn công bằng bom nguyên tử.
Có thể thấy rõ sự tỉ mỉ và phạm
vi của những chiến dịch không kích thành thị của Không lực Lục quân Hoa Kỳ qua
thực tế là họ đã đánh bom nhiều thành phố của Nhật Bản đến nỗi họ về sau phải
đánh đến cả những “thành phố” chỉ có khoảng 30.000 dân hoặc ít hơn. Trong thế
giới hiện đại, 30.000 dân chỉ tương đương với một thị trấn lớn.
Tất nhiên là luôn có thể đánh bom
lại những thành phố đã bị đánh bom từ trước bằng bom thông thường. Nhưng những
thành phố này tính trung bình đều đã bị phá hủy 50%. Hoặc là Hoa Kỳ có thể ném
bom nguyên tử xuống những thành phố nhỏ hơn. Tuy nhiên, khi đó chỉ còn có sáu
thành phố nhỏ hơn (với dân số từ 30.000 đến 100.000 người) là chưa bị đánh bom.
Xét đến việc Nhật Bản đã có 68 thành phố bị đánh bom nặng nề, và nhìn chung là
đã không mấy để tâm đến chúng, thì có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên rằng các
lãnh đạo Nhật Bản đã không mấy ấn tượng gì trước đe dọa tiếp tục đánh bom. Đe
dọa đó không có tính thuyết phục về chiến lược.
Một câu chuyện thuận tiện
Bất chấp sự tồn tại của ba phản
biện mạnh mẽ trên, cách diễn giải truyền thống vẫn đứng vững được trong tư duy
của rất nhiều người, đặc biệt ở Hoa Kỳ. Người ta thực sự phản đối mạnh mẽ việc
xem xét lại các dữ kiện thực tế. Nhưng có lẽ điều này không hề đáng ngạc nhiên.
Chúng ta nên nhớ rằng cách diễn giải truyền thống về vụ ném bom Hiroshima là
thuận tiện về mặt cảm tính đến thế nào – cho cả Nhật Bản lẫn Hoa Kỳ. Các ý
tưởng có thể tồn tại lâu vì chúng đúng sự thật, song không may là chúng cũng có
thể tồn tại lâu vì chúng tạo ra sự thỏa mãn về cảm xúc: Chúng thỏa mãn một nhu
cầu tâm linh quan trọng. Chẳng hạn, vào cuối cuộc chiến, cách diễn giải truyền
thống về vụ ném bom Hiroshima đã giúp các nhà lãnh đạo Nhật Bản đạt được một số
mục tiêu chính trị quan trọng, cả về đối nội và đối ngoại.
Hãy đặt mình vào vị trí của Thiên
Hoàng. Bạn vừa dẫn đất nước của mình qua một cuộc chiến thảm khốc. Nền kinh tế
bị tiêu tan. Tám mươi phần trăm các thành phố của bạn đã bị đánh bom và thiêu
hủy. Lục quân đã liên tiếp bị đánh gục trên chiến trường. Hải quân đã bị tiêu
diệt phần lớn và không thể rời khỏi cảng. Nạn đói đang dần đến. Nói ngắn gọn là
cả cuộc chiến đã là một thảm họa và, tệ hại nhất, là bạn đã nói dối thần dân
của mình về việc tình hình thực sự tệ hại đến mức nào. Họ sẽ bị sốc trước tin
đầu hàng. Vậy thì liệu bạn sẽ chọn làm gì? Thừa nhận rằng mình đã thất bại thảm
hại? Đưa ra tuyên bố rằng bạn đã tính toán sai lầm nhiều đến mức khó tin, liên
tiếp phạm sai sót, và gây thiệt hại khủng khiếp cho cả đất nước? Hay liệu bạn
sẽ đổ thừa thất bại này lên một bước đột phá khoa học phi thường mà không ai có
thể dự đoán? Chỉ với một hành động là đổ lỗi thất bại trong cuộc chiến cho bom
nguyên tử đã quét sạch tất cả những nhận định và tính toán sai lầm. Bom nguyên
tử là cái cớ hoàn hảo cho việc bại trận. Không cần phải phân bổ trách nhiệm, không
cần tổ chức tòa án điều trần. Các nhà lãnh đạo Nhật Bản có thể nói rằng họ đã
làm hết sức mình. Vậy là ở mức độ chung nhất, bom nguyên tử đã có tác dụng giúp
các lãnh đạo Nhật Bản không bị đổ lỗi.
Nhưng việc quy sự bại trận của
Nhật Bản cho bom nguyên tử cũng phục vụ cho ba mục đích chính trị cụ thể khác.
Trước hết, nó giúp bảo vệ tính chính danh của Thiên Hoàng. Nếu thua trận không
phải vì lỗi lầm của thiên hoàng mà là vì vũ khí thần kỳ bất ngờ của kẻ địch,
thì chức Thiên Hoàng vẫn có thể tiếp tục được ủng hộ ở trong nước Nhật.
Thứ hai, nó thu hút sự cảm thông
của cộng đồng quốc tế. Nhật Bản đã gây chiến một cách hung hăng, và hết sức tàn
bạo đối với những dân tộc bị họ chế ngự. Hành vi của Nhật Bản nhiều khả năng sẽ
bị các quốc gia khác lên án. Việc tái xây dựng hình ảnh cho Nhật Bản như là một
nước nạn nhân – một nạn nhân bị đánh bom một cách bất công bằng một thứ vũ khí
đáng sợ và tàn nhẫn – sẽ giúp bù trừ cho một số hành động vô đạo đức mà quân
đội Nhật Bản đã làm. Hướng sự chú ý đến những vụ ném bom nguyên tử giúp vẽ lại
hình ảnh Nhật Bản với màu sắc đầy cảm thông hơn và xua đi những kêu gọi trừng
phạt nặng nề.
Cuối cùng, nói rằng bom nguyên tử
đã giành phần thắng sẽ làm người Mỹ hài lòng. Hoa Kỳ chỉ chính thức ngừng chiếm
đóng Nhật Bản vào năm 1952, và trong thời gian đó họ đã có quyền thay đổi hoặc
tái lập xã hội Nhật Bản tùy ý. Trong những ngày đầu chiếm đóng, nhiều quan chức
Nhật Bản đã lo sợ rằng người Mỹ định sẽ bãi bỏ chức Thiên Hoàng. Và họ còn một
mối lo khác. Nhiều quan chức hàng đầu trong chính phủ Nhật Bản biết rằng họ sẽ
phải ra trước tòa án tội phạm chiến tranh (những phiên tòa xử tội phạm chiến
tranh chống lại các lãnh đạo Đức đang được tiến hành ở châu Âu khi Nhật Bản đầu
hàng). Sử gia Nhật Bản Asada Sadao đã nói rằng trong nhiều cuộc thẩm vấn sau
chiến tranh, “các quan chức Nhật Bản… tỏ ra rất nóng lòng muốn làm hài lòng
những người Mỹ thẩm vấn họ”. Nếu người Mỹ muốn tin rằng bom nguyên tử đã giúp
giành phần thắng, thì tại sao lại làm họ thất vọng?
Việc cho rằng bom nguyên tử đã
kết thúc cuộc chiến phục vụ cho lợi ích của Nhật Bản theo nhiều cách. Nhưng nó
còn phục vụ cho cả lợi ích của Hoa Kỳ. Nếu bom nguyên tử đã giúp giành chiến
thắng, thì nhận thức về sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ sẽ được tăng cường, ảnh
hưởng ngoại giao của Hoa Kỳ ở châu Á và trên cả thế giới sẽ lớn hơn, và an ninh
của Hoa Kỳ sẽ được củng cố. Hai tỷ USD dành để chế tạo quả bom sẽ không bị uổng
phí. Mặt khác, nếu sự tham gia của Liên Xô vào cuộc chiến mới là điều khiến
Nhật Bản đầu hàng, thì Liên Xô có thể tuyên bố rằng họ đã làm được trong bốn
ngày điều mà Hoa Kỳ không thể làm được trong bốn năm, và nhận thức về sức mạnh
quân sự và ảnh hưởng ngoại giao của Liên Xô sẽ được tăng cường. Và một khi
Chiến tranh Lạnh diễn ra, khẳng định rằng sự tham gia của Liên Xô là yếu tố
quyết định sẽ giống như hỗ trợ cho kẻ thù.
Xét đến những câu hỏi đặt ra ở
trên, thật không hay khi chúng ta phải cân nhắc thực tế rằng những bằng chứng
về Hiroshima và Nagasaki là trọng tâm của tất cả những gì
chúng ta nghĩ về vũ khí hạt nhân. Sự kiện này là nền tảng cho quan niệm về tầm
quan trọng của vũ khí hạt nhân. Nó là tối quan trọng đối với trạng thái độc
nhất vô nhị của vũ khí hạt nhân, tức ý niệm rằng những quy luật bình thường
không áp dụng được cho chúng. Nó là một thước đo quan trọng cho những mối đe
dọa hạt nhân: Đe dọa của Truman về việc trút “mưa hủy diệt” lên Nhật Bản là đe
dọa hạt nhân công khai đầu tiên. Nó là mấu chốt của hào quang uy quyền khủng
khiếp bao quanh vũ khí hạt nhân và khiến cho chúng quan trọng đến vậy trong
quan hệ quốc tế.
Nhưng chúng ta sẽ phải nghĩ thế
nào về những kết luận đó nếu như câu chuyện truyền thống về Hiroshima bị nghi ngờ? Hiroshima là trung tâm, là điểm xuất phát của
tất cả những tuyên bố và khẳng định khác. Nhưng câu chuyện mà chúng ta đang tự
kể cho mình có vẻ khá xa rời thực tế. Chúng ta phải nghĩ gì về vũ khí hạt nhân
nếu thành tựu to lớn đầu tiên này – sự đầu hàng đột ngột và kỳ diệu của Nhật
Bản – hóa ra chỉ là chuyện hoang đường?
Ward Wilson là học giả cấp cao
tại Hội đồng Thông tin An ninh Mỹ – Anh (British American Security Information
Council – BASIC). Bài viết này được xây dựng trên nội dung cuốn sách của ông là Five
Myths About Nuclear Weapons (Mariner Books, 2013).
- See more at:
http://nghiencuuquocte.org/2016/01/05/nhat-dau-hang-vi-stalin-khong-phai-bom-nguyen-tu-p2/#sthash.9oqbxGyM.dpuf
Nguồn: Ward Wilson, “The Bomb Didn’t Beat Japan… Stalin Did”, Foreign Policy, 30/5/2013.
Biên dịch: Lê Hoàng Giang
Ko phải vì stalin mad là vì ...Việt Nam. Nhật nhục vì thua Việt Nam nên ...đầu hàng.
Trả lờiXóaĐó cũng là một lập luận khá logic. Sau khi tiêu diệt Đức, Liên Xô đã dồn quân sang mặt trận phía đông chuẩn bị vượt qua biển tiến vào đảo Hokkaido. Lựa chọn đầu hàng vô điều kiện là lựa chọn tuy có phần mất thể diện so với lối hành động và suy nghĩ của người Nhật nhưng là vì đại cục thì đó là một lựa chọn tốt nhất. Nếu kiên quyết chống cự thì Nhật sẽ bị Mỹ và Liên Xô sẻ làm đôi, hình ảnh của Triều Tiên ngay sau chiến tranh thế giới thứ 2. Đầu hàng thì họ sẽ vẫn tự chủ mặc dù phải chịu nhiều thiệt hại về kinh tế, chính trị.
Trả lờiXóa