New Ukraine - Ukraine Mới - Tân Ukraina theo phương án hiện nay của Nhân vật quyền lực số 2 ở Nga - ông D. Medvedev
Lời dẫn: Theo tác giả một bài báo mới trên tờ báo có ảnh hưởng trên thế
giới là tờ Politico thì rất có thể sẽ xảy ra An ‘October Surprise’ From ‘New’Ukraine Is Possible – Dịch: Có thể xảy ra 'bất ngờ tháng 10' từ Ukraine 'mới'. “Bất
ngờ tháng 10” là một thành ngữ mà người Mỹ quen dùng chỉ một sự kiện có
thể ảnh hưởng đến kết quả của cuộc bầu cử tháng 11 sắp tới, dù được lên kế hoạch
có chủ ý hay xảy ra tự phát. Đọc bài báo này, Google.tienlang cũng thấy có nhiều
ý hay. Nhưng, như nhiều có quan báo chí thế giới gần đây đã chỉ ra: Sau khi Giải
phóng một cứ điểm phòng thủ kiên cố nhất ở Ukraina là thành phố Avdeevka, quân đội
Ukraina gần như đã sụp đổ, Nga đang hùng dũng tiến lên áp sát Kharkov, Odessa và
thậm chí là Kiev. Người quyền lực số 2 ở Nga là ông D. Medvedev vừa mới trưng
ra một tấm bản đồ cho Ukraina như hình dưới:
Vậy liệu phía Nga có đồng ý với phương án 'bất ngờ tháng 10' của
Politico không?
Kính mời những ai biết tiếng Anh, xin hãy đọc bản gốc bài trên báo
Politico (Mỹ) với tiêu đề An ‘October Surprise’ From ‘New’ Ukraine Is Possible
– Dịch: Có thể xảy ra 'bất ngờ tháng 10' từ Ukraine 'mới'
https://spectator.org/new-an-october-surprise-from-ukraine-is-possible/
Dưới đây, Google.tienlang xin dịch bài báo này…
*****
An ‘October Surprise’ From ‘New’ Ukraine Is Possible – Dịch: Có thể xảy ra 'bất ngờ tháng 10' từ Ukraine 'mới'
Ảnh chụp màn hình tiêu đề bài trên báo Politico (Mỹ)
Ukraine có thể chính thức công nhận sự phân chia trên thực tế ở sườn
phía đông của mình.
Chiến tranh Ukraine-Nga đã kết thúc chưa? Trong một “bất ngờ tháng mười”,
Ukraine, quốc gia độc lập vào ngày 24 tháng 8 năm 1991, sẽ bị giải thể và một New
Ukraine - Ukraine Mới - Tân Ukraina sẽ ra đời
nhờ vào tuyên bố đơn phương của Chính phủ Ukraine hiện tại, với sự hỗ trợ của bộ
chỉ huy quân sự cấp cao. Các ranh giới pháp lý của Tân Ukraina sẽ
phản ánh và là điểm chung với lãnh thổ hiện nằm dưới sự kiểm soát hành chính
trên thực tế của Chính phủ Ukraina hiện tại. Ukraine mới sẽ nhỏ gọn; gắn kết và
hội nhập tốt về mặt chính trị, kinh tế và xã hội (tức là về mặt dân tộc, ngôn
ngữ và văn hóa); và sẽ có biên giới có thể phòng thủ được. Theo đó, Ukraine mới
sẽ có quyền tự chủ chiến lược để tách khỏi phạm vi ảnh hưởng của Nga mà không cần
gia nhập các khối kinh tế và quân sự như EU và NATO.
Sắp đặt sân khấu
Sự thất thủ của thành phố Bakhmut thuộc tỉnh Donetsk phía đông Ukraine
vào tháng 5/2023 báo hiệu sự kết thúc các hoạt động quân sự tấn công lớn của
Nga ở Ukraine. Kể từ khi chiếm được Bakhmut, trọng tâm là bảo vệ sườn phía tây
nam của Liên bang Nga: vũ khí hạt nhân chiến thuật dưới sự kiểm soát của quân đội
chính quy Nga đã được chuyển đến Belarus, và những đội quân mới, được huấn luyện
tốt đang cố thủ trong các khu vực phòng thủ, được chuẩn bị kỹ lưỡng và dễ thấy các vị trí trên toàn bộ vùng lãnh thổ phía đông Ukraine hiện nằm dưới sự kiểm soát
của Nga: Crimea, Kherson, Zaporizhzhia, Donetsk và Luhansk. Điều quan trọng là
không có dấu hiệu nào về một cuộc tấn công lớn mới của Nga nhằm giành thêm lãnh
thổ quan trọng về mặt chiến lược do Ukraine kiểm soát, chẳng hạn như cảng
Odessa trên Biển Đen. Các cuộc tấn công chiến thuật nhằm làm thẳng các tuyến phòng thủ của Nga và chuyển hướng lực lượng
Ukraine khỏi các hoạt động phản công chính của họ không làm thay đổi hiện trạng
chiến lược.
Câu hỏi trọng tâm là “Ukraine nào” sẽ nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng
của Nga.
Nói một cách đơn giản, từ góc độ chính trị thực tế, Nga đã đạt được các
mục tiêu an ninh quốc gia quan trọng cần và đủ đối với sườn phía tây nam của
mình nhờ việc tiếp quản và sáp nhập Crimea trước đó cũng như căn cứ hải quân
quan trọng chiến lược Sevastopol vào tháng 3 năm 2014, và sau đó là sáp nhập (tháng 9 năm 2022) và chinh phục (trong khoảng thời gian từ tháng 2 năm 2022 đến
tháng 5 năm 2023) các phần của các tỉnh Kherson, Zaporizhzhia, Donetsk và
Luhansk để tạo thành một hàng rào vệ sinh mạnh mẽ nhằm bảo vệ Crimea. (ĐỌC THÊM
từ Samir Tata: Coca-Cola đối mặt với thách thức tại thị trường Trung Quốc )
Hơn nữa, theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nền kinh tế Nga đã tăng trưởng
3% vào năm 2023 và dự kiến sẽ tăng lần lượt 2,6 và 1,1% vào năm 2024 và
2025, tương đương với tốc độ tăng trưởng của Mỹ trong cùng kỳ và tốt hơn nhiều, hơn thành quả kinh tế của Đức. Thách thức đối với Nga là bảo vệ những lợi ích
an ninh quốc gia khó giành được và có sự kiên nhẫn chiến lược để cho phép Chính
phủ Ukraine nhận ra rằng việc theo đuổi con đường quân sự là một ngõ cụt.
Nhà hát Kabuki của cuộc phản công Ukraine
Chính phủ Ukraine đã phát động cuộc phản công được báo trước nhiều vào
tháng 6 năm 2023. Trong vòng ba tháng, người ta thấy rõ rằng cuộc phản công
mang tính chất sủa hơn là cắn - nhà hát Kabuki nhằm mục đích không phải là để chiếm
lại nhiều lãnh thổ rộng lớn đã bị mất và khôi phục tình trạng lãnh thổ trước
tháng 3 năm 2014 mà chỉ là để thoát khỏi tình trạng lấp lửng của những lời hứa
chưa được thực hiện về việc cuối cùng trở thành thành viên EU và NATO.
Tuyên bố của Hội nghị thượng đỉnh NATO 2023 diễn ra từ ngày 11 đến 12
tháng 7 tại Vilnius xác nhận rằng Ukraine đang phải đối mặt với hai nhóm
“Catch-22” đảm bảo tư cách thành viên của nước này sẽ vẫn trong tình trạng lấp
lửng trong tương lai gần. Thứ nhất, các thành viên NATO khuyến
khích Ukraine sử dụng lực lượng quân sự để giành lại các vùng lãnh thổ bị Nga
chiếm giữ và khôi phục nguyên trạng lãnh thổ trước tháng 3/2014. Tuy nhiên,
trong khi Ukraine đang tham gia vào một cuộc xung đột quân sự thì không thể cân
nhắc khả năng trở thành thành viên của NATO. Thứ hai, ngay cả khi
không có xung đột quân sự, không có thỏa thuận nào giữa các thành viên NATO rằng
Ukraine đã đáp ứng tất cả các yêu cầu để trở thành thành viên, và hơn nữa,
không có thỏa thuận nào giữa các thành viên NATO về khung thời gian dự kiến
mà Ukraine sẽ trở thành thành viên. yêu cầu. Thật hợp lý khi cho rằng Ukraine
sẽ phải đối mặt với một loạt “Catch-22” tương tự liên quan đến tư cách thành
viên tiềm năng của nước này trong Liên minh Châu Âu.
Ngay từ tháng 8 năm 2023, lãnh đạo cấp cao của NATO , ít nhất là một
cách không chính thức, đã gợi ý rằng sự xuất hiện của một New Ukraine
thu nhỏ sẽ được hoan nghênh . Vào ngày 1 tháng 11 năm 2023, trong một cuộc phỏng vấn và bài báo kèm theo , Tướng Valery Zaluzhny, lúc đó là người đứng đầu bộ chỉ
huy cấp cao của quân đội Ukraine, đã thừa nhận thực tế quân sự khắc nghiệt – bế
tắc. Quá trình chính trị Ukraina thích nghi với thực tế mới đang diễn ra giữa
“bộ ba” Rada (quốc hội), Tổng thống và chỉ huy quân sự cấp cao - vì vậy một “bất
ngờ tháng 10” có thể sắp xảy ra: Tuyên bố đơn phương về một Ukraine mới sẽ phản
ánh sự đồng thuận của bộ ba.
Chính sách thực tế của sự phân chia
Rõ ràng, điều quan trọng theo quan điểm của Nga là “Ukraine nào” sẽ nằm
ngoài vùng một phần phạm vi ảnh hưởng của Liên bang Nga. Theo đề xuất của
Vladimir Putin trong bài phát biểu quan trọng năm 2008 tại Hội nghị thượng đỉnh
NATO ở Bucharest, Ukraine khi đó được thành lập sẽ tan rã nếu có nỗ lực nghiêm
túc chấp nhận lời mời gia nhập liên minh quân sự. Như Putin đã chỉ ra trong
cùng một bài phát biểu, các vùng lãnh thổ cốt lõi của miền Tây Ukraine đã được
tách ra khỏi Ba Lan và sáp nhập vào một Ukraine mở rộng vào năm 1939. Đông
Ukraine (Crimea và các phần chiến lược quan trọng của các tỉnh Kherson,
Zaporizhzhia, Donetsk và Luhansk) là hiện nay trên thực tế nằm dưới sự kiểm
soát của Nga. Tuyên bố đơn phương về việc thu hẹp quy mô của New Ukraine
khó có thể gặp phải sự phản đối của Nga.
Tương tự như vậy, đối với Chính phủ Ukraine, câu hỏi trọng tâm là
“Ukraine nào” sẽ nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng của Nga. Trên thực tế, kể từ năm
2015, các chương trình của IMF dành cho Ukraine đã không bao gồm miền
đông Ukraine trong phạm vi của họ. Như báo cáo của nhân viên IMF năm 2015 về
Ukraine đã thừa nhận: “Sự khác biệt giữa miền đông và phần còn lại của
Ukraine dường như phản ánh các mối liên kết trực tiếp giữa các khu vực còn hạn
chế”. Báo cáo cũng lưu ý rằng miền Tây Ukraine là quốc gia được hưởng lợi
chính từ việc miễn thuế của EU. Vì vậy, về mặt kinh tế, phần còn lại của
Ukraine sẽ tốt hơn nếu không có miền Đông Ukraine vào năm 2015 và kể từ đó mối
liên kết kinh tế giữa hai khu vực ở mức tối thiểu. Có thể cho rằng, việc chia cắt
mềm Ukraine đã là thực tế trên thực tế, vì vậy tuyên bố về Ukraine mới sẽ cấu
thành sự công nhận về mặt pháp lý đối với thực tế này.
Tác giả Samir Tata
Nguyễn Thị Huyền - Cộng tác viên Google.tienlang Dịch và Giới thiệu
1. JOE BIDEN THĂM VIỆT NAM VÀ CÁI NGU, CÁI HÈN CỦA BÁO CHÍ VIỆT NAM
8. Chuyện ngộ: ĐÔ ĐỐC TÂY BAN NHA KHUYÊN, ĐỂ THẮNG NGA, ZELENSKY CẦN NOI GƯƠNG HỒ CHÍ MINH!
10. Asia Times: ĐỨC QUỐC XÃ TỪNG GIẢI CỨU MUSSOLINI. NGƯỜI MỸ CÓ THỂ NOI GƯƠNG HỌ ĐỂ CỨU ZELENSKY
11. Politico (Hoa Kỳ): HOẠT ĐỘNG GIÁN ĐIỆP THÔNG MINH CỦA PUTIN KHIẾN SCHOLZ CHẾT RÉT
13. Tin nóng: CÓ THỂ Đ/C ZELENSKY ĐÃ HY SINH ANH DŨNG Ở ODESSA???
NHỮNG BÀI BÁO CŨ ĐÁNG TIN: VOV Thứ Ba, 07:00, 04/03/2014: Mỹ và phương Tây đạo diễn chính cuộc khủng hoảng ở Ukraine?
Trả lờiXóahttps://vov.vn/the-gioi/quan-sat/my-va-phuong-tay-dao-dien-chinh-cuoc-khung-hoang-o-ukraine-313406.vov
VOV.VN - Thông qua cuộc khủng hoảng ở Ukraine người ta đã nhận ra rằng “cuộc chiến Đông Tây” vẫn diễn ra ngày càng quyết liệt hơn.
Các cuộc chiến này diễn ra rất đa dạng: Từ các cuộc cách mạng mầu ở Đông Âu, chiến tranh ở Nam Tư, Iraq, Afghanistan đến mùa xuân Arab, và nay là Ukraine.
Giới phân tích cho rằng, tác giả đích thực của các cuộc biểu tình, chính biến, bạo lực và chiến tranh đều bắt nguồn từ phương Tây từ tham vọng tiếp tục lãnh đạo thế giới của Mỹ với sự hậu thuẫn của NATO.
Từ phản kháng phi bạo lực…
Cách mạng mầu (cam, nhung, hạt dẻ; hoa hồng, hoa cúc, hoa tulip, mùa xuân Arab…) là cụm từ chỉ những phong trào biểu tình quần chúng trong một số quốc gia thuộc Liên Xô, Đông Âu vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20 và cả ở Trung Đông - Bắc Phi trong những năm đầu của thế kỷ 21và hiện đang nóng bỏng là Ukraine.
Người biểu tình Ukraine tràn ngập đường phố Kiev (Ảnh AP)
Các cuộc “cách mạng màu” có đặc trưng chung là phe đối lập tổ chức đông đảo quần chúng, sinh viên, các tổ chức phi chính phủ tham gia với phương thức biểu tình lớn, dài ngày lúc đầu là đấu tranh bất bạo động nhằm lật đổ các chính thể mà họ cho là tham nhũng, độc tài…
Sự sụp đổ của LB Xô Viết và các nước Đông Âu năm 1989 được phương Tây gọi là “Mùa thu của Cộng sản”. Sự kiện bắt đầu từ Ba Lan vào năm 1989, kế đó là Hungary, CHDC Đức, Bulgaria, Tiệp Khắc và Romania.
“Cách mạng Mùa thu” đã sử dụng rộng rãi các chiến dịch của lực lượng đối lập, kích động quần chúng chống lại chế độ đương quyền, gây áp lực đòi có sự thay đổi. Bức tường Berlin sụp đổ là sự ghi nhận thắng lợi lớn của phương Tây vào năm 1990.
Cuối năm 1991, Liên Xô tan rã đã tạo điều kiện cho 15 quốc gia mới hình thành, đánh dấu sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh. Điểm nhấn của các cuộc cách mạng nêu trên mà phương Tây gắn với tính chất màu sắc là cách mạng 5/10/2000 ở Serbia, Cách mạng Hoa hồng ở Gruzia (2003), Cách mạng Cam ở Ukraine (2004), và Cách mạng Hoa Tulip ở Kyrgyzstan (2005) vì nó tương đối “thuần khiết” không có bạo lực vũ trang và là hình mẫu để có thể mở rộng ra các chế độ phi cộng sản nhưng trái với lợi ích của phương Tây.
… Đến can thiệp bằng bạo lực
Mặc dù chủ thuyết “cách mạng mầu” coi phản ứng phi bạo lực là phương thức chủ yếu, nhưng trên thực tế trong những trường hợp cụ thể họ còn kết hợp với sự hỗ trợ bên ngoài, tạo dựng phái đối lập, dùng vũ lực để thay đổi chính quyền. Vào những năm 90 của thế kỷ trước Romania là nước Đông Âu duy nhất bị lật đổ chế độ bằng bạo lực.
Đến “Mùa Xuân Arab” là một biến thể nằm trong phạm trù “cách mạng mầu” khởi phát từ Tunisia vào tháng 12/2010, tiếp đến là Ai Cập và đẫm máu nhất là ở Libya, Syria và đang tái diễn trong cuộc đấu tranh giáo phái ở Iraq. Sự ra đi của Zine El-Abidine Ben Ali của Tunisia và Hosni Mubarak của Ai Cập, hay sau cái chết của nhà độc tài Gaddafi và giờ đây đang diễn ra ở Ukraine với sự tiếm quyền của phái đối lập đối với chính phủ hợp hiến của ông Yanukovych.
Cảnh sát chống bạo động Kiev đụng độ với người biểu tình (Ảnh AFP)
Với “Mùa Xuân Arab” đã không đưa lại trái ngọt cho quần chúng nhân dân mà chỉ thấy đói nghèo, bạo lực và chết chóc. Căn bệnh “giáo phái” giữa dòng Shia và Sunni được phương Tây và các nhóm cực đoan hậu thuẫn đã đẩy Syria, Ai Cập vào vòng xoáy bạo lực, Tình hình còn phức tạp hơn khi Tehran có nhiều dấu hiệu gia tăng ảnh hưởng trong khu vực.
Thỏa thuận Mỹ - Nga về vấn đề vũ khí hóa học ở Syria và hội nghị Gieneva 2 đã diễn ra nhưng vẫn không chấm dứt cuộc nội chiến hai phe trong khu vực Trung Đông - Bắc Phi. Mỹ vốn là đồng minh lâu năm của Ai Cập đã bật đèn xanh cho quân đội nước này lật đổ Tổng thống được dân bầu, nhưng lại là người của tổ chức Anh em Hồi giáo, vốn là mối đe dọa các lợi ích của Mỹ tại đây.
Gần đây tại Ukraine, sự can thiệp của Mỹ và phương Tây càng thô bạo hơn, bất chấp các nguyên tắc của Liên hợp quốc là tôn trọng chủ quyền của các quốc gia độc lập. Cùng với việc ủng hộ, hô hào, cổ súy, các chính trị gia phương Tây còn trực tiếp đến diễn thuyết và phân phát bành mì cho những người tham gia biểu tình ủng hộ phe đối lập chống đối chính phủ hợp hiến. Hơn thế nữa, người đứng đầu Nhà trắng ông Barack Obama còn đe dọa rằng, nếu nước Nga can thiệp quân sự vào Ukraine sẽ phải trả giá đắt…
XóaVà sử dụng cả lực lượng khủng bố
Sự can thiệp của nước ngoài không chỉ thể hiện ở việc cung cấp vũ khí, trang bị, tình báo, huấn luyện quân sự cho phái đối lập mà còn sử dụng cả các lực lượng cực đoan–khủng bố để lật đổ chính quyền đương nhiệm. Tại Trung Đông - Bắc Phi các cuộc nội chiến đã tạo chỗ đứng cho các phần tử cực đoan và khủng bố tung hoành. Al-Qaeda và hệ thống chân rết của nó, nhất là Jabhat al-Nusra. Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant, và chi nhánh al-Qaeda ở Bán đảo Arab hoạt động tích cực hơn bao giờ hết, chúng đang mở rộng các cơ sở cả về vật chất và tinh thần của mình trong toàn khu vực.
Các tay súng thuộc mạng lưới khủng bố al-Qaeda (Ảnh Reuters)
Năm 2011, các phần tử khủng bố đã tiến hành một cuộc tấn công vào lãnh sự quán Mỹ ở Benghazi làm Đại sứ Mỹ bị thiệt mạng, buộc Mỹ phải đóng cửa 19 đại sứ quán trong khu vực này. Tiếp sau là Đại sứ quán Nga, Lãnh sự quán Thụy Điển tại thủ đô của Libya cũng đã bị tấn công. Tình hình an ninh còn nghiêm trọng hơn khi Thủ tướng Libya Zeidan bị bắt cóc từ một khách sạn ở ngay trung tâm thủ đô Tripoli đến mức Mỹ buộc phải đưa lực lượng sang hợp tác với Libya để vãn hồi an ninh.
Được biết, “al-Qaeda muốn gom 3 nước (Iraq, Syria, Lebanon) vào thành một nhà nước Hồi giáo Khalifah”. Mạng lưới khủng bố này giờ đây đã kiểm soát được nhiều vùng lãnh thổ và tuyển mộ được nhiều chiến binh hơn. Tổng thống Mỹ Obama đã phải thừa nhận rằng: lực lượng khủng bố đang “trên đường tới thất bại”, nhưng cũng đang “tự hồi sinh” trong một Trung Đông bất ổn. Trong cuộc khủng hoảng ở Ukraine hiện nay phương Tây còn sử dụng cả các lực lượng cực đoan – Phát xít mới trong cuộc bạo động lật đổ chính quyền của Tổng thống Ukraine Yanukovych.
Các chuyên gia nghiên cứu nhận xét, nếu như ở “cách mạng Mùa thu” vấn đề chỉ mới bắt đầu của chủ nghĩa dân tộc, sắc tộc ở mức độ “ly khai” khỏi sự phụ thuộc vào LB Xô Viết và hướng Tây, thì đến “Mùa xuân Arab” gam mầu chủ đạo của cuộc “cách mạng mầu” là cuộc chiến giữa những giáo phái, dân tộc khác nhau với sự hỗ trợ của phương Tây và sự góp mặt của các nhóm cực đoan.
Cuộc “cách mạng màu cam” lần hai ở Ukraine càng chứng tỏ chiến lược “Đông tiến” của NATO ngày càng quyết liệt hơn. Vì lợi ích của mình phương Tây đã bất chấp các nguyên tắc quốc tế và vội vã công nhận một chính thể tạm quyền mà thành phần của nó bao gồm cả nhóm cực đoan – “phát xít mới” khiến Nga không thể công nhận một chính phủ ở Kiev. Vì thế, khủng hoảng ở không gian “hậu Xô viết” thực chất là cuộc chiến “Đông-Tây” với chủ thuyết “phản kháng phi bạo lực” dưới chiêu bài “cách mạng mầu” được Mỹ và phương Tây khởi xướng và ủng hộ nhiệt tình./.
Nguyễn Nhâm/VOV online
NHỮNG BÀI BÁO CŨ ĐÁNG TIN: Công an Nhân dân Thứ Hai, 28/04/2014, 10:41:Ai đứng đằng sau cuộc nội chiến ở Ukraine?
Trả lờiXóahttps://cand.com.vn/Quoc-te/Ai-dung-dang-sau-cuoc-noi-chien-o-Ukraine-i259064/
Cuộc khủng hoảng Ukraine đã leo thang tới mức nội chiến giữa một bên là lực lượng do chính phủ tạm quyền ở Kiev kiểm soát đang tiến hành cái gọi là “cuộc chiến chống khủng bố” nhằm vào hàng triệu người dân nước này, còn bên kia là lực lượng tự vệ của chính quyền các tỉnh Đông-Nam kiên quyết bảo vệ công dân của họ đứng lên đòi được hưởng những lợi ích chính đáng của mình.
Hai chuyến thăm ngẫu nhiên hay hữu ý?
Qua theo dõi tình hình cuộc khủng hoảng ở Ukraine trong những ngày vừa qua thấy có hai sự kiện khá trùng hợp. Sự kiện gần đây nhất là ngày 21/4, Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden thăm Ukraine. Ngay sau khi ông Joe Biden kết thúc chuyến thăm, Chính quyền ở Kiev lại phát động giai đoạn 2 của cái gọi là “chiến dịch chống khủng bố” ở mức cao hơn, mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn. Trước đó chưa đầy 10 ngày, vào ngày 12/4, Giám đốc Cục Tình báo trung ương Mỹ (CIA) John Brennan có chuyến thăm bất ngờ tới Ukraine.
Trong khi người phát ngôn CIA cho biết, cũng giống như các quan chức cấp cao khác của Mỹ, Giám đốc Brennan tin rằng cách duy nhất để giải quyết khủng hoảng giữa Nga và Ukraine là thông qua một giải pháp ngoại giao, thì báo “The Los Angeles Times” (Mỹ) đưa tin, ông John Brennan tới Kiev là để “cố vấn cho chính quyền lâm thời Ukraine cách thức đối phó với các phần tử đòi ly khai ở miền Đông”.
Ngay sau khi ông John Brennan rời Kiev, “ý kiến cố vấn” của Giám đốc CIA đã biến thành quyết định của chính quyền ở Kiev phát động giai đoạn 1 của cái gọi là “chiến dịch chống khủng bố” trấn áp những người biểu tình ở Đông-Nam Ukraine. Động thái này chẳng có gì giống với “giải pháp ngoại giao” mà người phát ngôn CIA tiết lộ.
Theo giới phân tích thạo tin tình báo, hai sự kiện này không phải là trùng hợp ngẫu nhiên với hai giai đoạn của “chiến dịch chống khủng bố” mà chỉ là thêm một lần nữa khẳng định chính Mỹ là bên đã từng đứng đằng sau giật dây các lực lượng phát xít mới và dân tộc cực đoan thực hiện cuộc đảo chính vi hiến lật đổ Tổng thống Ukraine Victor Yanukovych, xé toạc thỏa thuận hòa bình ngày 21/2 vừa được ký chưa ráo mực giữa 3 thủ lĩnh các lực lượng đối lập Ukraine và Bộ trưởng Ngoại giao ba nước EU là Pháp, Đức và Ba Lan, với sự chứng kiến của đại diện chính phủ Nga.
Hiện nay, chính Mỹ đang “bảo kê” cho chính quyền mới dựng lên ở Kiev thực hiện “chiến dịch chống khủng bố” nhằm vào chính người dân của họ. Và do được Mỹ “chống lưng”, chính quyền tạm thời ở Ukraine mới dám huy động quân đội và cảnh sát cùng với máy bay và xe tăng trấn áp hàng triệu người dân Ukraine đang đòi những yêu cầu thuộc về phạm trù nhân quyền.
Nhân đây, dư luận quốc tế có lý khi đặt câu hỏi: Do đâu ông Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden trước đó liên tục gọi điện thoại cho cựu Tổng thống Ukraine Vichtor Yanukovych yêu cầu không được sử dụng vũ lực để chống lại các phần tử phát xít mới gây bạo loạn ở Kiev và dùng bom xăng tấn công cảnh sát, thì nay lại khuyến khích chính phủ tạm quyền ở Kiev sử dụng cả xe tăng và máy bay chiến đấu đàn áp người dân biểu tình hòa bình?
XóaNhìn rộng ra, do đâu Mỹ cáo cuộc hành động hợp pháp của Tổng thống Egypt Hosni Mubarak, Tổng thống Libya Moammar Gadhafi hay Tổng thống Syria Bashar al-Assad dùng lực lượng an ninh trấn áp bọn khủng bố trong làn sóng bạo lực mang tên “Mùa xuân Arab”, là “phạm tội ác chống lại loài người”, thì nay lại làm ngơ trước hành động tội ác khủng khiếp của chính phủ tạm quyền ở Kiev sử dụng vũ khí hạng nặng tàn sát người dân tay không?
Câu trả lời ở đây là Mỹ đang áp dụng tiêu chuẩn kép trong quan hệ quốc tế, theo đó quy định pháp lý nào đáp ứng lợi ích của Mỹ thì Washington cho là đúng, còn gì đi ngược lại thì họ cho là sai.
Gây ra cuộc nội chiến ở Ukraine, Mỹ muốn gì?
Phân tích kết quả chuyền thăm Ukraine của Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden, các chuyên gia phân tích nhận thấy sự cách biệt quá xa giữa những gì Washington tuyên bố và những gì họ đang làm với Ukraine. Trên lời nói, Washington tuyên bố ủng hộ chính quyền mới ở Kiev xây dựng một Ukraine phát triển ổn định, cải cách và hướng đến dân chủ. Nhưng trên thực tế hoàn toàn không như vậy.
Trong bối cảnh Ukraina đang cận kề bờ vực phá sản quốc gia, thì Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden thăm Ukraine chỉ hứa sẽ viện trợ cho Ukraine 50 triệu USD để cải cách và 10 triệu USD để hiện đại hóa quân đội. Lời hứa này của ông Joe Biden khiến cho ngay cả những kẻ cầm quyền ở Kiev hiện nay dù có tin Mỹ tới đâu cũng cảm thấy bị xúc phạm và bị lừa dối.
Theo tính toán của các chuyên gia tài chính, số tiền mà ông Joe Biden hứa giúp Ukraine cũng chỉ đủ để trả tiền công cho các chuyên gia và cố vấn quân sự của Mỹ cũng như vài trăm tên lính đánh thuê nước ngoài tới giúp chính phủ Kiev “chống khủng bố”, nên sẽ chẳng còn đồng tiền nào cho “cải cách” hay “hiện đại hóa quân đội”. Con số so sánh có ý nghĩa: Nga đã viện trợ cho Ukraine 250-300 tỷ USD kể từ khi giành độc lập năm 1991 vì Moskva thực sự muốn đất nước láng giềng anh em này phát triển ổn định và bền vững.
Vậy, Mỹ muốn gì ở Ukraine?
XóaChúng ta hãy nghe chính người Mỹ trả lời câu hỏi này. Theo Paul Craig Roberts, nguyên cố vấn kinh tế cho Tổng thống Mỹ Ronald Reagan, hiện là chuyên gia nghiên cứu chính trị ở Mỹ, trong bài viết với nhan đề “Nước Nga vị tấn công”, trong đó đưa ra nhận định, Mỹ đứng sau đạo diễn làn sóng bạo lực ở Ukraine từ cuối năm 2013 tới nay là nhằm các mục đích: (1) đẩy Nga ra khỏi căn cứ quân sự của Hạm đội Biển Đen ở cảng Sevastopol; (2) gây ra chiến dịch thanh lọc nhằm vào những người dân Nga và người Ukraine nói tiếng Nga, dẫn tới cuộc di cư ồ ạt người Nga từ Ukraine về phía Liên bang Nga; (3) phá hủy tiềm năng sản xuất công nghiệp quân sự cực kỳ quan trọng ở các thành phố Kiev, Dnepropetrovsk và Kharkov hiện đang thực hiện các đơn đặt hàng quân sự của Nga; (4) Mỹ và NATO sẽ triển khai căn cứ quân sự ở Ukraine, trong đó có căn cứ quân sự ở Crimea; (5) biến Ukraine thành trung tâm huấn luyện khủng bố để tấn công vào các mục tiêu tại khu vực Bắc Caucacus, Siberia và nhiều khu vực khác ở Nga; (6) kịch bản bạo loạn ở Kiev sẽ được áp dụng ở các khu vực trên lãnh thổ Nga.
Hiện nay, sau khi không đạt được mục tiêu chiến lược hàng đầu và quan trọng nhất là kiểm soát vùng Crimea, Mỹ đang ráo riết thực hiện kịch bản gây ra cuộc nội chiến ở Ukraine, buộc Nga phải can thiệp quân sự để bảo vệ hàng triệu công dân Ukraine nói tiếng Nga ở miền Đông-Nam. Theo tính toán của các mưu sỹ ở Washington, Mỹ đang thực hiện âm mưu biến Ukraina thành “Afghanistan thứ hai”. Trong những năm 1980, Washington đã cài bẫy để buộc Moskva phải đưa quân vào Afghanistan, sau đó sa lầy ở đó, buộc phải rút quân và đây là một trong những yếu tố dẫn tới sự tan rã Liên Xô. Hiện nay, Washington cũng đang cài bẫy để buộc Nga phải can thiệp quân sự vào Ukraine...
Theo báo chi Phương Tây tiết lộ, tổ chức phát xít mới ở Ukraine “Pravy Sector” là một chi nhánh của mạng lưới khủng bố bí mật mang tên “Gladio” từng được dựng lên từ thời Chiến tranh lạnh và vẫn còn phát triển đến tận ngày nay. Ngoài ra, trong hàng ngũ “đội quân thứ năm” của ai đó ở Ukraine có cả các lực lượng khủng bố đã từng được tôi luyện trong các hoạt động tàn sát đẫm máu nhất ở Afghanistan, Iraq và gần đây nhất ở Syria. Báo chí nước ngoài ví các lực lượng khủng bố ở Ukraine là “Al-Qaeda trắng” để phân biệt với “Al-Qaeda đen” ở các nước Bắc Phi - Trung Đông.
Cuộc khủng hoảng Ukraine và cuộc khủng hoảng Syria, trong đó các mạng lưới khủng bố quốc tế chiếm tới 80% cái gọi là “lực lượng đối lập”, đã rọi ánh sáng vào câu chuyện thâm cung bí sử về cái gọi là “cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố” do Tổng thống Mỹ G.W.Bush phát động từ năm 2001. Đến đây thì đã rõ, ai đứng sau nội chiến ở Ukraine.
NHỮNG BÀI BÁO CŨ ĐÁNG TIN: Nghiên cứu quốc tế 24/09/2014: Tại sao cuộc khủng hoảng Ukraine là do lỗi của phương Tây
Trả lờiXóahttps://nghiencuuquocte.org/2014/09/24/khung-hoang-ukraine-do-loi-phuong-tay/
Nguồn:John J. Mearsheimer, “Why the Ukraine Crisis Is the West’s Fault”, Foreign Affairs, September/October 2014 Issue.
Biên dịch và Hiệu đính: Lương Khánh Ninh
Bài liên quan: Sự tan vỡ của dàn xếp hậu Chiến tranh Lạnh
Theo lối tư duy hiện đang thịnh hành ở phương Tây, cuộc khủng hoảng tại Ukraine có thể gần như được đổ lỗi hoàn toàn cho cuộc tấn công của Nga. Theo như mạch lập luận này, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã sáp nhập Crimea để hiện thực hóa khát khao khôi phục lại đế chế Xô Viết đã tồn tại từ lâu, và ông ta rốt cuộc có thể làm điều tương tự với phần còn lại của Ukraine cũng như những quốc gia Đông Âu khác. Cũng theo quan điểm đó, việc Tổng thống Ukraine Viktor Yanukovych bị lật đổ vào tháng 2/2014 chỉ mang lại một cái cớ cho Putin quyết định đưa lực lượng quân đội Nga chiếm giữ một phần lãnh thổ Ukraine.
Tuy nhiên cách lý giải trên là không đúng: Mỹ và các đồng minh phương Tây phải chịu hầu hết trách nhiệm trong cuộc khủng hoảng này. Gốc rễ của vấn đề nằm ở sự mở rộng của NATO, nhân tố trung tâm của một chiến lược bao trùm hơn nhằm đưa Ukraine ra khỏi quỹ đạo kiểm soát của Nga và đưa quốc gia này gia nhập phương Tây. Trong khi đó, sự mở rộng của EU về hướng đông và việc phương Tây chống lưng cho phong trào ủng hộ dân chủ ở Ukraine – bắt đầu với cuộc Cách mạng Cam năm 2004 – cũng là những nhân tố then chốt. Kể từ giữa thập niên 1990, giới lãnh đạo Nga đã phản đối mạnh mẽ sự mở rộng của NATO, và trong những năm gần đây họ cũng nêu rõ quan điểm rằng Nga sẽ không đứng nhìn quốc gia láng giềng có tầm quan trọng chiến lược bị biến thành thành trì của phương Tây. Đối với Putin, cuộc lật đổ bất hợp pháp vị Tổng thống đắc cử một cách dân chủ và thân Nga của Ukraine – cái mà ông gọi một cách chính xác là cuộc “đảo chính” – là giọt nước làm tràn ly. Putin đáp lại bằng cách chiếm Crimea, một bán đảo mà ông e rằng sẽ là nơi đặt căn cứ hải quân của NATO, và bằng cách làm bất ổn tình hình ở Ukraine cho tới khi quốc gia này từ bỏ nỗ lực gia nhập phương Tây.
Đòn đáp trả của Putin lẽ ra không có gì đáng ngạc nhiên. Rốt cuộc thì phương Tây đã xâm phạm đến sân sau của Nga và đe dọa đến lợi ích chiến lược cốt lõi của nước này, một điều mà Putin đã nhấn mạnh và lặp lại nhiều lần. Giới tinh hoa của Mỹ và Châu Âu bị các sự kiện giáng cho những đòn bất ngờ chỉ bởi vì họ tin vào một quan điểm sai lầm về chính trị quốc tế. Họ có xu hướng tin rằng logic của chủ nghĩa hiện thực không còn phù hợp trong thế kỷ 21 và châu Âu có thể được duy trì một cách toàn vẹn và tự do dựa trên nền tảng các nguyên lí của chủ nghĩa tự do như pháp quyền, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và nền dân chủ.
Dẫu vậy, đại kế hoạch này đã thất bại ở Ukraine. Cuộc khủng hoảng tại đây cho thấy rằng chính trị hiện thực vẫn còn thích hợp ở thời đại này – và những quốc gia nào chối bỏ nó sẽ phải chấp nhận đối mặt với những nguy hiểm và rủi ro. Các nhà lãnh đạo của Hoa Kỳ và châu Âu đã phạm phải sai lầm ngớ ngẩn khi nỗ lực biến Ukraine thành một thành trì của phương Tây ngay trên biên giới nước Nga. Giờ đây, khi mà hậu quả của hành động này đã hiện ra rõ ràng, việc tiếp tục theo đuổi chính sách nhiều sai sót này sẽ là một sai lầm còn trầm trọng hơn nữa.
Sự sỉ nhục từ phương Tây
XóaKhi Chiến tranh Lạnh tiến đến hồi kết, các nhà lãnh đạo của Liên Xô muốn rằng lực lượng của Mỹ ở lại châu Âu và khối NATO giữ nguyên hiện trạng, đó là một thỏa thuận mà họ cho rằng sẽ giữ cho một nước Đức vừa tái thống nhất trong tình trạng hòa bình. Tuy nhiên, họ và những lãnh đạo kế tục của Nga không muốn NATO mở rộng hơn nữa và cho rằng các nhà ngoại giao phương Tây hiểu được mối lo ngại này của họ. Chính quyền Clinton rõ ràng đã nghĩ khác, và đến giữa thập niên 90, chính quyền này bắt đầu thúc giục NATO tiến hành mở rộng.
Đợt mở rộng đầu diễn ra vào năm 1999 và kết nạp Cộng hòa Séc, Hungary và Ba Lan, và lần thứ hai vào năm 2004, thu nạp thêm Bulgaria, Estonia, Latvia, Litva, Romania, Slovakia và Slovenia. Moscow đã lên tiếng phàn nàn về hành động này ngay từ những ngày đầu tiên. Ví dụ, trong suốt chiến dịch đánh bom của NATO nhắm vào người Serbia ở Bosnia, Tổng thống Nga Boris Yeltsin đã nói: “Đây là dấu hiệu đầu tiên về điều có thể xảy ra khi NATO tiến gần đến biên giới của Liên bang Nga. … Ngọn lửa chiến tranh có thể bùng cháy và trải khắp châu Âu.” Nhưng người Nga tại thời điểm đó quá yếu ớt để làm trật bánh quá trình đông tiến của NATO –quá trình mà dù sao lúc đó cũng không có vẻ là mối đe dọa nghiêm trọng bởi không một quốc gia thành viên mới nào của NATO có chung đường biên giới với Nga, ngoại trừ các quốc gia vùng Baltic bé nhỏ.
Sau đó, NATO bắt đầu tìm cách tiến xa hơn nữa. Tại hội nghị thượng đỉnh diễn ra vào tháng 4/2008 tại Bucharest, liên minh này đã cân nhắc đến việc kết nạp Gruzia và Ukraine. Chính quyền G.W. Bush ủng hộ hành động này, nhưng Pháp và Đức thì phản đối bởi họ sợ rằng điều này sẽ làm Nga tức giận quá mức. Cuối cùng, các nước thành viên NATO đã đạt được một thỏa hiệp: liên minh không bắt đầu tiến hành quy trình kết nạp chính thức mà thay vào đó ban hành một tuyên bố ủng hộ nguyện vọng của Gruzia và Ukraine, đồng thời mạnh bạo tuyên bố rằng “Những quốc gia này sẽ trở thành thành viên của NATO.”
Tuy nhiên, Moscow không nhìn nhận kết quả này như một sự thỏa hiệp. Alexander Grushko, khi đó là Thứ trưởng Ngoại giao Nga, đã lên tiếng cho rằng, “Việc Gruzia và Ukraine trở thành thành viên NATO là một sai lầm chiến lược, sai lầm này sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng nhất tới an ninh toàn châu Âu.” Putin giữ vững lập trường cho rằng việc NATO kết nạp 2 quốc gia kể trên sẽ là một “mối đe dọa trực tiếp” đối với Nga. Một tờ báo Nga đưa tin, trong khi hội đàm với Bush, Putin “đưa ra tín hiệu rõ ràng rằng nếu Ukraine được nhận vào khối NATO, sự tồn tại của quốc gia này sẽ chấm dứt.”
Cuộc xâm lược của Nga vào Gruzia vào tháng 8/2008 đáng lẽ nên xua tan mọi mối ngờ vực còn sót lại về quyết tâm của Putin nhằm ngăn chặn Gruzia và Ukraine gia nhập NATO. Tổng thống Gruzia Mikheil Saakashvili, người quyết tâm cam kết đưa Gruzia vào NATO, trước đó đã quyết định tái sáp nhập hai vùng ly khai Abkhazia và Nam Ossetia trong mùa hè 2008. Vậy nhưng Putin tìm cách giữ cho Gruzia yếu ớt và chia rẽ – cũng như ngoài tầm với của NATO. Sau khi cuộc chiến nổ ra giữa chính quyền Gruzia và lực lượng ly khai Nam Ossetia, lực lượng quân đội Nga đã nắm quyền kiểm soát Abkhazia và Nam Ossetia. Moscow đã làm rõ quan điểm của họ. Vậy mà, bất chấp lời cảnh báo rõ ràng đó, NATO chưa bao giờ công khai tuyên bố từ bỏ mục tiêu đưa Gruzia và Ukraine vào khối này. Công cuộc mở rộng của NATO cứ tiếp tục diễn ra, với việc Anbani và Croatia trở thành thành viên vào năm 2009.
Giống như NATO, EU cũng đã và đang đông tiến. Tháng 5/2008, liên minh này hé lộ sáng kiến “Đối tác phương Đông”, một chương trình nhằm thúc đẩy sự thịnh vượng ở những quốc gia như Ukraine và đưa những quốc gia này hội nhập vào nền kinh tế EU. Không có gì đáng ngạc nhiên khi các nhà lãnh đạo Nga nhìn nhận kế hoạch này như một hành động thù địch chống lại lợi ích quốc gia của họ. Tháng Hai vừa qua, trước khi Yanukovych bị buộc rời nhiệm sở, Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov đã buộc tội EU nỗ lực tạo ra “phạm vi ảnh hưởng” ở Đông Âu. Trong con mắt các nhà lãnh đạo Nga, sự mở rộng của EU là bình phong cho sự bành trướng của NATO.
Công cụ cuối cùng của phương Tây để chia cắt Kiev khỏi Moscow là nỗ lực phổ biến các giá trị phương Tây và thúc đẩy dân chủ ở Ukraine và những quốc gia hậu Xô Viết khác – một kế hoạch bao gồm việc tài trợ cho các cá nhân và tổ chức ủng hộ phương Tây. Victoria Nuland, trợ lý Ngoại trưởng Mỹ về các vấn đề châu Âu và khu vực Á-Âu, đưa ra ước tính trong tháng 12/2013 rằng nước Mỹ đã đầu tư hơn 5 tỉ đô la kể từ năm 1991 để giúp Ukraine đạt được “tương lai mà quốc gia này xứng đáng được hưởng”. Như một phần của nỗ lực kể trên, chính phủ Hoa Kỳ cung cấp tài chính cho Quỹ Quốc gia vì Dân chủ (NED). Quỹ phi lợi nhuận này đã tài trợ cho hơn 60 dự án nhằm thúc đẩy xã hội dân sự ở Ukraine, và chủ tịch NED, Carl Gershman, gọi quốc gia này là “mục tiêu giá trị nhất”. Sau khi Yanukovych đắc cử tổng thống vào tháng 2/2010, NED quyết định rằng ông này đã phá hỏng các mục tiêu của họ, và do đó tổ chức này tăng cường nỗ lực để hỗ trợ phe đối lập và củng cố các thể chế dân chủ ở Ukraine.
XóaKhi các lãnh đạo của Nga nhìn vào công cuộc thiết kế xã hội của phương Tây ở Ukraine, họ lo ngại rằng đất nước của họ sẽ là nạn nhân kế tiếp. Những lo ngại này không phải là hoàn toàn không có cơ sở. Vào tháng 9/2013, Gershman viết trên tờ Washington Post, “Sự lựa chọn gia nhập vào châu Âu của Ukraine sẽ thúc đẩy sự suy tàn của tư tưởng đế quốc Nga mà Putin đang thể hiện.” Tác giả cũng thêm vào: “Nước Nga cũng đang đối mặt với một sự lựa chọn, và Putin có lẽ đang thấy mình ở thế thua cuộc, không chỉ ở bên ngoài mà còn ở bên trong nước Nga.”
Tạo ra một cuộc khủng hoảng
Ba gói chính sách của phương Tây – tăng cường NATO, mở rộng EU và thúc đẩy dân chủ – đã đổ thêm dầu vào ngọn lửa đang chực chờ bùng phát. Tia lửa lóe lên vào tháng 11/2013, khi Yanukovych hủy bỏ một thỏa thuận kinh tế lớn mà ông ta đã đàm phán với EU và thay vào đó quyết định chấp nhận lời đề nghị trị giá 15 tỉ đôla từ phía Nga. Quyết định này đã dẫn đến các cuộc biểu tình chống chính phủ leo thang trong suốt ba tháng sau đó, một số cuộc biểu tình vào giữa tháng Hai đã gây ra cái chết của hàng trăm người biểu tình. Các phái viên của phương Tây nhanh chóng bay đến Kiev để giải quyết cuộc khủng hoảng này. Ngày 21/2, chính phủ và phe đối lập thỏa thuận cho phép Yanukovych tại vị cho đến khi các cuộc bầu cử mới được tổ chức. Tuy nhiên, thỏa thuận này ngay lập tức thất bại, và Yanukovych chạy trốn sang Nga ngay ngày sau đó. Chính phủ mới ở Kiev là một chính phủ thân phương Tây và chống Nga đến tận gốc rễ, nó cũng có bốn thành viên cấp cao mà có thể được gắn mác là những người theo chủ nghĩa tân phát xít.
Mặc dù phạm vi dính líu của Hoa Kỳ vẫn chưa được phơi bày đầy đủ, nước Mỹ rõ ràng đã chống lưng cho vụ đảo chính này. Nuland và Thượng nghị sĩ John McCain tham dự cuộc biểu tình chống chính phủ, và Geoffrey Pyatt, đại sứ Mỹ tại Ukraine, tuyên bố sau khi Yanukovych bị lật đổ rằng đó là “một ngày đáng nhớ trong lịch sử.” Sau khi một đoạn ghi âm điện thoại được hé lộ, người ta biết được rằng Nuland đã chủ trương tán thành thay đổi chế độ và mong muốn chính trị gia người Ukraine Arseniy Yatsenyuk sẽ trở thành thủ tướng trong chính quyền mới, và sau đó đúng là ông ta đã đạt được vị trí này. Chẳng lấy gì làm ngạc nhiên khi những nhà lãnh đạo Nga cho rằng phương Tây đã đóng vai trò nào đó trong vụ Yanukovych bị hất cẳng.
Đối với Putin, thời điểm để hành động chống lại Ukraine và phương Tây đã tới. Ngay sau ngày 22/2, ông ra lệnh cho lực lượng quân đội Nga chiếm lấy Crimea từ Ukraine, và không lâu sau đó, ông sáp nhập tỉnh này vào nước Nga. Nhiệm vụ này tỏ ra tương đối dễ dàng nhờ vào việc hàng ngàn lính Nga đã đóng quân trước đó tại một căn cứ hải quân ở cảng Sevastopol thuộc Crimea. Crimea cũng là một mục tiêu dễ đạt được bởi người dân tộc Nga chiếm đến khoảng 60% dân số ở khu vực này. Đa số họ mong muốn thoát khỏi Ukraine.
Kế tiếp, Putin gây sức ép rất lớn lên chính quyền mới thành lập ở Kiev để khuyến khích họ không liên minh với phương Tây chống lại Moscow, tỏ rõ quan điểm rằng ông sẽ làm tan vỡ Ukraine và biến nó thành một nhà nước không hoạt động được trước khi cho phép quốc gia này trở thành một thành trì của phương Tây ngay trước ngưỡng cửa của Nga. Để thực hiện mục tiêu trên, Putin cung cấp cố vấn, vũ khí và hỗ trợ ngoại giao cho những phần tử ly khai người Nga ở miền đông Ukraine, những người hiện đang đẩy quốc gia này đến một cuộc nội chiến. Ông ta cũng đưa một đội quân lớn đến biên giới Ukraine, đe dọa xâm lược nếu như chính phủ Ukraine đàn áp những người nổi dậy. Và ông cũng tăng mạnh giá khí đốt mà Nga bán cho Ukraine cũng như yêu cầu Ukraine thanh toán cho những đợt xuất khẩu khí đốt trước đó. Putin đang chơi lá bài cứng rắn với đối thủ của mình.
XóaChẩn đoán nguyên nhân
Những hành động của Putin là dễ hiểu. Là một khu vực đất bằng rộng lớn mà nước Pháp thời Napoleon, Đế quốc Đức và Đức Quốc xã trước đây đã từng vượt qua để tấn công Nga, Ukraine có vai trò như một quốc gia vùng đệm có tầm quan trọng vô cùng lớn đối với Nga. Không một nhà lãnh đạo nào của Nga có thể chấp nhận một liên minh quân sự mà cho đến gần đây vẫn là kẻ tử thù của Moscow lại được phép tiến vào Ukraine. Cũng như không có một nhà lãnh đạo Nga nào khoanh tay đứng nhìn phương Tây xây dựng một chính quyền ở Ukraine mà chính quyền này được xác định nhằm đưa Ukraine sáp nhập vào thế giới phương Tây.
Washington có thể không thích thú gì với lập trường của Moscow, nhưng họ nên hiểu logic đứng sau lập trường này. Đây là bài học nhập môn Địa chính trị: các cường quốc luôn nhạy cảm với những hiểm họa tiềm tàng gần lãnh thổ của họ. Rốt cuộc, Hoa Kỳ cũng không thể chấp nhận việc các cường quốc ở xa triển khai các lực lượng quân sự tại bất kỳ đâu ở Tây Bán cầu, chứ chưa nói đến tại biên giới nước này. Cứ thử tưởng tượng cơn thịnh nộ của Washington nếu như Trung Quốc xây dựng một liên minh quân sự đầy hùng mạnh và cố gắng lôi kéo Canada và Mexico vào liên minh ấy thì biết. Tạm bỏ logic sang một bên, các nhà lãnh đạo phía Nga đã từng nhiều lần nói với những người đồng cấp phương Tây rằng họ coi sự mở rộng của NATO sang Gruzia và Ukraine là không thể chấp nhận được, tương tự với bất kỳ nỗ lực nào nhằm biến những quốc gia này chống lại Nga. Cuộc chiến Nga-Gruzia năm 2008 đã nêu lên thông điệp này một cách hết sức rõ ràng.
Giới chức Mỹ và các đồng minh châu Âu tranh luận rằng họ đã cố gắng hết sức để xoa dịu nỗi sợ hãi của người Nga và rằng Moscow nên hiểu một điều là NATO không có mưu đồ gì đối với họ cả. Bên cạnh việc liên tục phủ nhận sự mở rộng của của họ không nhằm mục đích kiềm chế Nga, liên minh quân sự này cũng chưa bao giờ triển khai lực lượng quân sự vĩnh viễn tại các nước thành viên mới. Năm 2002, tổ chức này thậm chí còn lập ra một cơ quan có tên gọi Hội đồng NATO-Nga trong một nỗ lực nhằm thúc đẩy hợp tác. Để xoa dịu Nga hơn nữa, Hoa Kỳ tuyên bố trong năm 2009 rằng quốc gia này sẽ lắp đặt hệ thống phòng thủ tên lửa mới trên các chiến hạm tại các vùng biển châu Âu, ít nhất là vào thời điểm ban đầu, thay vì tại Cộng hòa Séc hoặc Ba Lan. Tuy nhiên không biện pháp nào trong số kể trên đã thành công; người Nga vẫn trước sau như một phản đối sự bành trướng của NATO, đặc biệt đối với sự mở rộng ra Gruzia và Ukraine. Và chính người Nga, chứ không phải phương Tây, mới là những người sau cùng đưa ra quyết định điều gì được coi là mối hiểm họa đối với họ.
Để hiểu tại sao phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ, đã không hiểu được rằng chính sách Ukraine của họ đã tạo nền tảng cho cuộc xung đột lớn với nước Nga, ta cần phải quay trở lại thời điểm giữa thập niên 1990, khi chính quyền Bill Clinton bắt đầu chủ trương ủng hộ mở rộng NATO. Các chuyên gia tại thời điểm đó đưa ra nhiều loại lập luận cả ủng hộ lẫn bác bỏ sự bành trướng này, nhưng lại không nhất trí về những việc cần làm. Ví dụ, hầu hết những người di dân Mỹ gốc Đông Âu và những người thân của họ ủng hộ mạnh mẽ việc mở rộng, bởi họ muốn NATO bảo vệ những quốc gia như Hungary hoặc Ba Lan. Một vài người theo chủ nghĩa hiện thực cũng thiên về chính sách này vì họ cho rằng nước Nga vẫn cần phải bị kiềm chế.
XóaTuy vậy, hầu hết những người theo thuyết hiện thực phản đối sự bành trướng này, bởi họ tin rằng một cường quốc đang đi xuống với dân số đang ngày càng già cỗi và một nền kinh tế một chiều không cần thiết phải bị đặt trong vòng kiềm tỏa. Họ cũng sợ rằng việc mở rộng này sẽ chỉ khiến Nga có động cơ để gây rắc rối cho khu vực Đông Âu. Nhà ngoại giao Mỹ George Kennan nêu rõ quan điểm này trong một cuộc phỏng vấn năm 1998, không lâu sau khi Thượng viện Mỹ phê chuẩn đợt mở rộng NATO lần đầu tiên. Ông nói: “Tôi cho rằng người Nga sẽ dần có phản ứng tiêu cực hơn và điều này sẽ gây tác động xấu đến chính sách của họ. Tôi nghĩ đây là một sai lầm khủng khiếp. Dù gì đi chăng nữa, không có bất kỳ lí do gì có thể biện hộ cho chuyện này. Không ai đang đe dọa ai ở đây cả.”
Mặt khác, đại đa số những người ủng hộ quan điểm tự do lại ủng hộ việc mở rộng của NATO, trong số đó có nhiều nhân vật chủ chốt trong chính quyền Clinton. Họ tin rằng sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh đã làm chuyển đổi một cách cơ bản nền chính trị quốc tế và rằng một trật tự hậu quốc gia mới đã thay thế logic của chủ nghĩa hiện thực thống trị châu Âu trước đây. Nước Mỹ không chỉ là “một quốc gia không thể thiếu được”, như Ngoại trưởng Madeleine Albright tuyên bố, mà còn là một quốc gia bá quyền nhân từ, và do đó khó có thể bị coi là một mối hiểm họa đối với Moscow. Về bản chất, mục tiêu ở đây là biến cả lục địa châu Âu trông giống như Tây Âu vậy.
Do đó, Mỹ và đồng minh tìm cách thúc đẩy dân chủ ở các nước Đông Âu, tăng cường sự phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế giữa các nước này, và gắn họ vào các tổ chức quốc tế. Sau khi giành chiến thắng trong cuộc thảo luận trong nước Mỹ, những người theo thuyết tự do chẳng gặp khó khăn trong việc thuyết phục các đồng minh của họ ở châu Âu ủng hộ sự mở rộng của NATO. Sau cùng, vin vào những thành tựu của EU trong quá khứ, những người châu Âu thậm chí còn trung thành hơn cả người Mỹ với ý tưởng rằng địa chính trị không còn đóng vai trò quan trọng và rằng một trật tự tự do bao gồm tất cả các quốc gia sẽ có thể duy trì hòa bình ở châu Âu.
Trả lờiXóaVậy là những người chủ trương đường lối tự do đã lấn áp hoàn toàn trong cuộc tranh luận về vấn đề an ninh của châu Âu trong suốt thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 đến mức mà, trong khi liên minh theo đuổi chính sách tăng trưởng dựa trên mở cửa thì sự mở rộng của NATO cũng hầu như không gặp phải phản đối gì từ những người theo chủ nghĩa hiện thực. Thế giới quan của học thuyết tự do được chấp nhận như một thứ giáo điều trong nội bộ giới chức Mỹ. Điển hình như trong tháng 3 vừa qua, trong bài phát biểu của Tổng thống Obama về vấn đề Ukraine, ông thường xuyên nói về “những lý tưởng” tạo động lực cho chính sách của phương Tây và cái cách mà những lý tưởng này “thường bị đe dọa bởi quan điểm cũ kỹ, mang tính truyền thống hơn về quyền lực.” Phản ứng của Ngoại trưởng John Kerry về vấn đề khủng hoảng tại Crimea cũng phản ánh góc nhìn tương tự: “Trong thế kỷ 21 bạn không thể hành xử giống như cách của thế kỷ 19 bằng việc xâm lược quốc gia khác dựa trên cái cớ tự tạo.”
Về bản chất, hai bên hoạt động với hai chiến lược khác nhau: Putin và những đồng chí của ông tư duy và hành động theo tiếng gọi của chủ nghĩa hiện thực, trong khi những người đồng cấp phương Tây của ông thì tuân theo những ý tưởng của chủ nghĩa tự do về chính trị quốc tế. Kết quả là nước Mỹ và đồng minh đã vô tình gây ra một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng ở Ukraine.
Báo Ý: Ukraine: Zelensky considers the removal of Foreign Minister Kuleba- Ukraine: Zelensky cân nhắc việc cách chức Ngoại trưởng Kuleba
Trả lờiXóaNgày 8 Tháng 3 Năm 2024
https://www.agenzianova.com/en/news/Ukraine%27s-Zelensky-considers-removal-of-Foreign-Minister-Kuleba/
Điều này được cổng thông tin Ukraine "Strana" đưa tin, trích dẫn các nguồn tin thân cận với chính quyền tổng thống.
Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky đang xem xét khả năng cách chức Bộ trưởng Ngoại giao Dmytro kuleba . Điều này đã được cổng thông tin Ukraine "Strana" đưa tin, trích dẫn các nguồn tin thân cận với chính quyền tổng thống. Theo những bản dựng lại, Kuleba có thể đã đảm nhận vai trò đại sứ tại London, một vai trò mà Tướng Valeriy Zaluzhny, cựu lãnh đạo Lực lượng vũ trang Ukraine, đã được bổ nhiệm thay thế.
Để thay thế kuleba , theo nguồn tin của “Strana”, “ứng cử viên có khả năng nhất” sẽ là phó chánh văn phòng tổng thống Igor Zhovkva, người giám sát chính sách đối ngoại. Trong khi đó, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Ukraine Oleh Nikolenko hôm nay đã tuyên bố từ chức.
"Это знак": в Германии раскрыли, что ждет Украину после отставки Нуланд - “Đây là dấu hiệu”: Đức tiết lộ điều gì chờ đợi Ukraine sau khi Nuland từ chức
Trả lờiXóa09:33 08/03/2024(cập nhật: 17:06 03/08/2024)
https://ria.ru/20240308/nuland-1931870621.html
Doanh nhân Đức Dotcom: Sự ra đi của Nuland báo hiệu sự kết thúc xung đột ở Ukraine
MOSCOW, ngày 8 tháng 3 – RIA Novosti. Doanh nhân người Đức gốc Phần Lan và cựu chủ sở hữu của công ty lưu trữ tệp lớn nhất Megaupload, Kim Dotcom, đã viết trên mạng xã hội X rằng việc Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Victoria Nuland từ chức cho thấy cuộc xung đột ở Ukraine sắp kết thúc.
Ông nói : “Đây là dấu hiệu rõ ràng cho thấy xung đột ủy nhiệm của Mỹ ở Ukraine sắp kết thúc. Nga thắng. Phương Tây thua”.
Tổng thống Ukraine Vladimir Zelensky và Tổng thống Mỹ Joe
Dotcom nhấn mạnh rằng dự án Nuland của Ukraine đã thất bại và dẫn đến hàng nghìn nạn nhân ở nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ này, đồng thời còn tàn phá đất nước này. Ngoài ra, ông nói thêm, bản thân Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ sẽ được mọi người nhớ đến với tư cách là người tổ chức cuộc đảo chính ở Ukraine.
“Con chuột đang rời khỏi con tàu đang chìm. <…> Vicky và người chồng gây chiến của cô ấy đã kiếm được hàng triệu USD từ cuộc xung đột ủy quyền của Hoa Kỳ ở Ukraine,” doanh nhân kết luận.
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken hôm thứ Ba cho biết cấp phó của ông, Nuland, đã thông báo cho ông về ý định từ chức của bà trong những tuần tới.
Victoria Nuland, được coi là kiến trúc sư chính của đường hướng chống Nga và chính sách ngoại giao của Mỹ đối với Ukraine, sắp kết thúc sự nghiệp kéo dài 35 năm. Cô được biết đến nhiều nhất khi tham gia các sự kiện Euromaidan. Sau đó, Trợ lý Ngoại trưởng thường xuyên đến thăm Kiev và nói chuyện với những người biểu tình. Cụm từ nổi tiếng “bánh quy của Bộ Ngoại giao ” gắn liền với bà : nhà ngoại giao cùng với Đại sứ Mỹ tại Ukraine Geoffrey Pyatt đã phân phát bánh mì và bánh mì kẹp cho những người tham gia cuộc đảo chính ở Kiev, đồng thời tham gia vào việc bổ nhiệm chính phủ sau đó. lật đổ Tổng thống Ukraina Viktor Yanukovych .
Между США и Украиной произошел раскол из-за Зеленского, пишут СМИ - Truyền thông viết đã có sự chia rẽ giữa Hoa Kỳ và Ukraine về Zelensky.
Trả lờiXóa02:00 8 tháng 3 2024
https://ria.ru/20240308/nedovolstvo-1931849169.html?in=t
MOSCOW, ngày 8 tháng 3 – RIA Novosti. Tờ New York Times viết: Giới lãnh đạo Mỹ đang ngày càng tỏ ra không hài lòng với chiến lược quân sự của Tổng thống Ukraine Vladimir Zelensky .
"
Tài liệu viết: “Sau hơn hai năm thống nhất, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Ukraine đang có dấu hiệu mệt mỏi và bất hòa, nhường chỗ cho sự thất vọng lẫn nhau”.
Ấn phẩm lưu ý rằng Washington chỉ trích giới lãnh đạo Ukraine về thất bại của Lực lượng vũ trang Ukraine gần Avdiivka . Theo quan chức Mỹ, việc bảo vệ lâu dài khu vực kiên cố đã khiến Ukraine tổn thất quá nhiều. Lầu Năm Góc , theo tờ báo, không thích việc Vladimir Zelensky chi tiêu nguồn lực của Kiev vào các thành phố nhỏ “không có giá trị chiến lược”.
Theo tờ báo, chính quyền Kiev cũng bày tỏ sự không hài lòng với chính sách của Mỹ.
Các nhà báo viết : “Ukraine ngày càng mất tinh thần do sự tê liệt chính trị của Mỹ , dẫn đến tình trạng thiếu đạn dược ở tiền tuyến”.
Avdeevka là vùng ngoại ô phía bắc của Donetsk , nơi Lực lượng vũ trang Ukraine đã biến thành khu vực kiên cố và kể từ năm 2014, thường xuyên pháo kích vào thủ đô của DPR và các khu định cư khác của Donbass từ đó . Quân đội Nga đã giải phóng hoàn toàn thành phố vào ngày 17/2. Điều này giúp có thể di chuyển tiền tuyến ra khỏi Donetsk và bảo vệ nó khỏi các cuộc tấn công của kẻ thù một cách đáng kể.
Quốc hội Mỹ, do vị thế của đảng Cộng hòa chiếm đa số tại Hạ viện, nên vẫn chưa ủng hộ yêu cầu của chính quyền Biden về nguồn tài trợ mới cho Kyiv. Việc phân bổ trước đây đã kết thúc vào tháng 12 năm ngoái, một phần của gói hỗ trợ quân sự đã công bố trước đó sẽ đến Ukraine để thực hiện các hợp đồng trước đó.
08:00 03/07/2024(cập nhật: 08:01 03/07/2024)
Trả lờiXóaОбсуждать нечего. В НАТО отворачиваются от Зеленского и Байдена
- Không có gì để thảo luận. NATO đang quay lưng lại với Zelensky và Biden
https://ria.ru/20240307/nato-1931412505.html
Thủ tướng Hungary Orban phớt lờ Biden khi gặp Trump
Tổng thống Ukraine Vladimir Zelensky và Tổng thống Mỹ Joe
MOSCOW, ngày 7 tháng 3 – RIA Novosti, Renat Abdullin. Viktor Orban bắt đầu chuyến thăm Hoa Kỳ. Mục đích chính của chuyến đi là trò chuyện với cựu Tổng thống Donald Trump. Nhưng không có kế hoạch gặp nguyên thủ quốc gia hiện tại. Và không chỉ mình ông, trái ngược với đường lối của tập thể phương Tây, Thủ tướng Hungary né tránh. Về vị trí và quy hoạch của Budapest - trong tài liệu của RIA Novosti.
Chế độ bỏ qua
Orban và Biden chưa bao giờ có cuộc đàm phán song phương. Mặc dù Hoa Kỳ rất quan tâm đến Hungary. Thật vậy, đây là quốc gia NATO duy nhất cho đến gần đây không chấp thuận việc Thụy Điển gia nhập liên minh. Nghị sĩ thậm chí còn bị đe dọa bằng một nghị quyết chống Hungary. Và tại Budapest, phái đoàn thượng nghị sĩ Mỹ đơn giản là không được tiếp đón ở cấp chính thức.
Tuy nhiên, vào tháng 2, quốc hội Hungary đã phê chuẩn đơn đăng ký của Thụy Điển. Nhưng không có sự gia tăng sự hiểu biết lẫn nhau với Washington. Và khi thông báo về chuyến công du nước ngoài vào tháng 3 của Orban, cơ quan báo chí của thủ tướng cảnh báo : cuộc gặp với Biden không có trong chương trình. Thay vào đó, sẽ có một cuộc thảo luận nhóm về "Tương lai của mối quan hệ Mỹ-Hungary" với Kevin Roberts, người đứng đầu tổ chức tư vấn bảo thủ Heritage Foundation. Và sau đó Orban sẽ được cựu Tổng thống Trump tiếp đón tại khu bất động sản Mar-a-Lago ở Florida của ông.
Đây là một cuộc họp không chính thức. Ở Hoa Kỳ có Đạo luật Logan, cấm các cá nhân tiến hành đàm phán quốc tế. Nhưng việc Orban chọn Trump thay vì Biden là rất có ý nghĩa.
Trao đổi niềm vui
Họ có sự đồng cảm lẫn nhau và rất lâu dài. Lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau là vào năm 2022, tại câu lạc bộ golf của Trump ở New Jersey. Sau cuộc trò chuyện, cựu tổng thống hết lời khen ngợi. "Tôi đã có khoảng thời gian tuyệt vời với người bạn Viktor Orban của mình. <...> Chúng tôi đã thảo luận nhiều chủ đề thú vị: rất ít người biết nhiều về những gì đang xảy ra trên thế giới ngày nay", Trump viết trên mạng xã hội.
Ngược lại, Hungary đã tổ chức các cuộc họp của Hội nghị Hành động Chính trị Bảo thủ (CPAC, một phong trào chính trị của Mỹ có lịch sử nửa thế kỷ), và hai năm trước Orban đã phát biểu tại một sự kiện như vậy ở Texas. Câu nói của ông "Mẹ là đàn bà, bố là đàn ông, hãy để con cái chúng ta yên. Chấm dứt, kết thúc cuộc thảo luận" đã gây ra sự hoan nghênh nhiệt liệt .
“Ở châu Âu có một con người vĩ đại, một nhà lãnh đạo vĩ đại - Viktor Orban,” - đây là bài phát biểu của Trump vào tháng 1 năm 2024. Và đây là lời của thủ tướng Hungary trong một cuộc phỏng vấn gần đây: “Hôm nay, tôi không thấy ai khác ngoài ông ấy, dù ở châu Âu hay châu Mỹ, có đủ ảnh hưởng để ngăn chặn chiến tranh. Thế giới có một cái tên - Donald Trump.”
Orban ủng hộ người bạn trong cuộc đua tổng thống: "Chúng tôi không thể can thiệp vào các cuộc bầu cử ở nước ngoài, nhưng chúng tôi muốn thấy Donald Trump trở lại Nhà Trắng và mang lại hòa bình ở Đông Âu. Đã đến lúc cho một nhiệm kỳ tổng thống 'Làm nước Mỹ trở lại' vĩ đại khác ."
Ở Mỹ, những lời trao đổi vui vẻ này đã gây ra sự báo động rõ ràng. Nhà báo nổi tiếng của chuyên mục MSNBC Joy Ride thừa nhận rằng Orban có thể trở thành một nhà tư vấn cho Trump. Bà nói: “Rốt cuộc, nhà lãnh đạo Hungary, nắm quyền từ năm 2010, đã củng cố quyền cai trị của mình theo những cách có vẻ giống một cách kỳ lạ với các chiến thuật mà đảng Cộng hòa ở đây đã sử dụng”.
Zelensky cũng quá nhiệt tình mời Orban nhưng ...
XóaSong song với thông báo về chuyến thăm Mỹ của Orban, quan chức Budapest nói về tương tác với Kiev. Không có sự xích lại gần nhau trên con đường này, cũng như với Biden. Theo Ngoại trưởng Peter Szijjarto, các cuộc đàm phán cấp cao sẽ không diễn ra trong thời gian tới. Mặc dù Zelensky đã mời Orban đến thăm từ tháng 4 năm 2022. Szijjártó giải thích : “Đối với một cuộc họp như vậy, một số điều kiện tiên quyết là cần thiết, nhưng hiện tại chúng chưa được đáp ứng” .
Các điều kiện đã được biết từ lâu. Trước hết là việc khôi phục mọi quyền của người Hungary ở Transcarpathian, những người đã bị luật pháp Ukraine xâm phạm từ lâu. Những người theo chủ nghĩa dân tộc công khai đe dọa người dân tộc thiểu số, Kiev không phản ứng. Mặc dù Budapest đã thỏa hiệp vào tháng 2 về vấn đề Liên minh châu Âu hỗ trợ Ukraine.
Vì vậy, khá dễ hiểu tại sao Orban không vội gặp Zelensky. Và nó tiếp tục tương tác với Moscow, gây ra sự phẫn nộ ở các thủ đô châu Âu và nước ngoài. Nhưng ông ấy không hề thân Nga chút nào. Như chính Thủ tướng và Tổng thống Putin đã nhiều lần nhấn mạnh, Orban là một chính trị gia thân Hungary . Mối quan hệ của chúng tôi là chủ nghĩa thực dụng thuần túy.
Vào tháng 3, Szijjarto sẽ tham quan Atomexpo 2024 ở Sochi. Ông lưu ý: “Tất nhiên, tôi rất vui vì điều này vì sự hợp tác giữa Nga và Hungary trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân rất thành công”. Và vào tháng 6, ông sẽ đến Diễn đàn kinh tế quốc tế St. Petersburg.
Ngoài ra còn có Slovakia trong NATO, quốc gia này cũng hoài nghi Ukraine và kêu gọi đảm bảo an ninh cho Nga. Ở Pháp, nơi dân quân Emmanuel Macron vẫn đang nắm quyền, Marine Le Pen ngày càng có uy tín, củng cố các nhân vật cánh hữu châu Âu khác không quá trung thành với Kiev. Với điều này và cơ hội đắc cử thực sự của Trump, chuyến thăm của Orban có vẻ như là một nỗ lực kịp thời để xây dựng cầu nối với vị tổng thống Mỹ tương lai. Và đây là tín hiệu đáng báo động đối với chế độ Kiev.