Thứ Sáu, 8 tháng 3, 2024

Báo Aamulehti (Phần Lan): GIẤC MƠ CHÂU ÂU KHIẾN PHẦN LAN NGÀY CÀNG CÓ NHIỀU NGƯỜI ĐÓI HƠN, SỐ NGƯỜI XẾP HÀNG XIN ĐỒ ĂN MIỄN PHÍ NGÀY CÀNG DÀI HƠN

 

 Bữa sáng của một em bé Phần Lan

Lời dẫn: Xưa nay, ở Việt Nam chúng ta thường nghe, Phần Lan là thiên đường du lịch của thế giới; Phần Lan chính là quốc gia đứng đầu trong danh sách các quốc gia hạnh phúc nhất… Thế nhưng, chỉ vài năm theo dụ khị của Mỹ, Phần Lan phải cắt đứt kinh tế với người hàng xóm cận kề là nước Nga để toàn tâm hướng về châu Âu, người dân nơi đây ngày càng khốn khó hơn.  ĐÂY, ‘LỢI ÍCH’ MÀ PHẦN LAN THU ĐƯỢC VÌ NGHE LỜI MỸ ĐỂ ĐÒI VÀO NATO: TRUNG TÂM THỦ ĐÔ HELSINKI VẮNG TANH, CÁC CỬA HÀNG LẦN LƯỢT ĐÓNG CỬA. Điều không thể ngờ được là từ một “quốc gia hạnh phúc nhất thế giới” mà ngày nay người dân thậm chí đang bị … đói ăn! Tampere là một thành phố ở tây nam Phần Lan bên con thác nối hai hồ Näsijärvi và Pyhäjärvi. Tampere là trung tâm chế tạo lớn và là thành phố lớn thứ 2 ở Phần Lan. Thành phố sản xuất: hàng giấy, da, kim loại.

Tampere là thành phố lớn thứ hai ở Phần Lan, sau Helsinki; cách Helsinki chỉ có 160 km

Hội chữ thập đỏ Phần Lan SPR trước đây đã phân phát viện trợ lương thực ở trung tâm Tampere. Nơi này được chuyển đến khu vực xung quanh Nhà thờ Aleksanteri vào mùa hè năm ngoái. Hoạt động vẫn ở vị trí hiện tại vì đây là một lựa chọn tốt hơn về mặt hậu cần và quản lý thời gian. Hình ảnh nhìn từ trên không cho thấy dòng hàng thực phẩm SPR uốn lượn phía trước nhà thờ từ Pirkankatu vào thứ Sáu, ngày 1 tháng Ba.

Kính mời những ai biết tiếng Phần Lan, xin hãy đọc bản gốc bài trên báo Báo Aamulehti (Phần Lan) với tiêu đề Apua tarvitsevien määrä on jatkanutkasvuaan Tampereella – Video näyttää satojen metrien ruokajonon – Dịch: Số người cần giúp đỡ tiếp tục tăng ở Tampere - Video cho thấy hàng trăm mét xếp hàng nhận đồ ăn.

https://www.aamulehti.fi/tampere/art-2000010269746.html

Aamulehti viết: Gần đây, hàng dài người xếp hàng nhận đồ ăn miễn phí ở Tampere Phần Lan đã đạt đến quy mô ấn tượng. Mọi người ở mọi lứa tuổi đang tìm kiếm sự hỗ trợ thực phẩm. Nhưng không thể cứu tất cả mọi người, ngay cả với một mong muốn mạnh mẽ. Thức ăn miễn phí thôi là chưa đủ. Tại Tampere, số người cần hỗ trợ lương thực tiếp tục tăng.

Dưới đây, Google.tienlang xin dịch bài báo này…

******

 Apua tarvitsevien määrä on jatkanutkasvuaan Tampereella – Video näyttää satojen metrien ruokajonon – Dịch: Số người cần giúp đỡ tiếp tục tăng ở Tampere - Video cho thấy hàng trăm mét xếp hàng nhận đồ ăn.

Ảnh chụp màn hình tiêu đề bài trên báo Aamulehti (Phần Lan) 

Trong các bức ảnh và video được quay vào ngày 1 tháng 3 gần Nhà thờ Alexander ở Tampere, Phần Lan (gần trung tâm thành phố), bạn có thể thấy một hàng dài người dân cần hỗ trợ lương thực. Theo Hội chữ thập đỏ Phần Lan, số người tìm kiếm sự giúp đỡ như vậy gần đây đã tăng lên đáng kể.

Hàng đợi nhận đồ ăn miễn phí tại Nhà thờ Alexander ở Tampere bắt đầu kéo dài một cách ấn tượng.

Marjo Mailund, tổng giám đốc Hội chữ thập đỏ Phần Lan (Suomen Punainen Risti (SPR)) ở Tampere, nói rằng dòng người xếp hàng nhận thực phẩm miễn phí kéo dài hàng trăm mét là một cảnh tượng đáng buồn và thường xuyên có thể được nhìn thấy vào thứ Tư và thứ Sáu hàng tuần. Chính trong những ngày này, Hội chữ thập đỏ Phần Lan phân phát viện trợ lương thực ở Tampere.

Số người cần hỗ trợ lương thực tiếp tục tăng. Năm ngoái, Hội chữ thập đỏ Phần Lan đã cung cấp thực phẩm miễn phí cho trung bình 380 cư dân Tampere trong một ngày. Trong 5 ngày hoạt động gần đây nhất của Hội chữ thập đỏ Phần Lan ở Tampere, trung bình có 410 người xếp hàng.

Hiện chưa rõ nguyên nhân đằng sau sự gia tăng số lượng người cần hỗ trợ lương thực. Maylund gợi ý rằng đối với nhiều người, sự hỗ trợ như vậy đã trở thành trụ cột trong thời gian dài hơn dự kiến ​​ban đầu, dẫn đến danh sách chờ đợi dài hơn.

Giả định của Marjo Mailund được xác nhận qua quan sát của các tình nguyện viên rằng một loại "khách thường xuyên" đã xuất hiện trong số những người nộp đơn xin hỗ trợ lương thực.

Mọi người ở mọi lứa tuổi đều có thể nộp đơn xin hỗ trợ lương thực nhưng hiện nay số lượng người trong độ tuổi lao động đã tăng lên. Ngoài ra còn có rất nhiều người nhập cư, khoảng 60%. Majlund ước tính rằng tỷ lệ người nhập cư đang tăng lên, chẳng hạn do khó tìm được việc làm.

Mời xem video clip xếp hàng chờ đồ ăn miễn phí:

Người mới

Nhu cầu viện trợ lương thực ngày càng tăng cũng có thể được nhận thấy ở các giáo xứ ở Tampere. Chuyên gia hỗ trợ thực phẩm Marja Palkonen cho biết những thay đổi đã được nhận thấy vào đầu năm, vì các gói thực phẩm miễn phí không còn cần phải hẹn trước để nhận hỗ trợ.

Palkonen giải thích rằng nhu cầu thay đổi mô hình hỗ trợ thực phẩm nảy sinh do thực tế là trước đây hầu như cứ ba bộ thực phẩm đặt trước thì một người nhận không thấy đến nhưng lại có những người mới, đến nhận. “Chúng tôi muốn đảm bảo rằng tất cả các gói hàng được thu thập sẽ đến nơi chúng thực sự cần thiết, để không sợ chúng không được nhận.”

Các giáo xứ Tampere phân phát thực phẩm hàng tuần trong khu vực Hervant. Hai tuần một lần, viện trợ lương thực được cung cấp ở các vùng Linnainmaa, Tesoma, Lielahti và Härmälä.

Palkonen cho biết: "Chúng tôi đến Hervanta hàng tuần. Tại đây, chúng tôi phân phối 1.400 gói thực phẩm mỗi tháng, đây là sự trợ giúp đáng kể cho một khu vực".

Không có đủ thức ăn

Vào cuối tháng 1, báo Aamulehti đưa tin khoảng 30-40 người đến nhận hỗ trợ lương thực ở khu vực Hervant đã không nhận được gói thực phẩm. Chuyên gia viện trợ lương thực Marja Palkonen coi tình hình là tồi tệ.

Cô cho rằng tình trạng này là do lượng thực phẩm nhận được từ các tổ chức từ thiện và số người cần giúp đỡ không tương xứng. Palkonen tin rằng không thể giúp đỡ tất cả mọi người, ngay cả khi có mong muốn mạnh mẽ.

Ảnh chụp từ trên cao cho thấy hàng trăm người xếp hàng

Người dân Tampere bình luận về tình trạng thiếu viện trợ lương thực. Palkonen cho biết nhiều người muốn những túi hàng tạp hóa nhỏ hơn để tiếp cận được nhiều người hơn. Nội dung của các hiệp định lương thực đôi khi cũng gây ra làn sóng chỉ trích. Theo Palkonen, không phải ai cũng biết rằng hỗ trợ lương thực là hoạt động của các tổ chức từ thiện độc lập, không phải do chính quyền thành lập.

Túi thực phẩm chứa các mặt hàng thực phẩm được quyên góp, bao gồm cả những mặt hàng bị lỗi nhẹ hoặc gần hết hạn sử dụng. Những món ăn không được nhà hàng bán cũng đóng một vai trò quan trọng - vào năm 2023, 60 nghìn kg thực phẩm đã được thu gom theo cách này.

"Đây là một sự trợ giúp lớn. Nếu không có những bộ dụng cụ như vậy từ các nhà hàng thì chắc chắn sẽ không có đủ thức ăn."

Ngoài các giáo xứ và Hội chữ thập đỏ Phần Lan, 40 tổ chức cũng tham gia cung cấp viện trợ lương thực ở Tampere, như Via Dia và Nauha. Bạn có thể tìm thấy các điểm hỗ trợ thực phẩm và giờ mở cửa trên trang web ruoka-apu.fi.

Nạn đói không chỉ ở thành phố Tampere mà còn ở ngay Thủ đô Helsinki

https://svspb.net/novosti/v-finlyandii-ocheredi-za-besplatnoy-edoy/

Ngày càng có nhiều người Helsinki đến nhận đồ ăn miễn phí. Những hàng người xếp hàng mua bánh mì ngày càng nhiều và giờ đây họ xếp hàng dài với những người mà trước đây không cần đến sự giúp đỡ của các tổ chức từ thiện.

Xếp hàng nhận đồ ăn miễn phí ở Helsinki

Nhóm người mới xếp hàng nhận đồ ăn miễn phí là những người đi làm không có đủ tiền mua đồ ăn. Tình hình bắt đầu trở nên tồi tệ hơn sau khi việc thanh toán trợ cấp sinh hoạt được chuyển từ các chính quyền thành phố sang Cơ quan Hưu trí Nhân dân Kela, cơ quan này không thể đảm đương được các trách nhiệm mới. Đặc biệt, việc thanh toán phúc lợi bị chậm trễ rất nhiều.

Xếp hàng nhận đồ ăn miễn phí ở Helsinki

Ví dụ, ở Kuopio, số người xếp hàng đã tăng gần gấp đôi. Ở Kuopio, đồ ăn miễn phí được phân phát vào thứ Hai và thứ Năm, với hàng trăm người xếp hàng. Tại Helsinki vào thứ Sáu tuần trước trong hàng đợi của tổ chức từ thiện Veikko ja Lahja Hurstin laupeudentyö r. có 3128 người đang đứng.

Theo Sinikka Backman, giám đốc tổ chức từ thiện Helsingin Myllypuron elintarvikeapu, chìa khóa để giảm bớt dòng bánh mì là công việc: những người thất nghiệp dài hạn phải có việc làm và công việc phải có thật, không phải tưởng tượng, giống như những công việc được trợ cấp liên tiếp.

Tác giả: Satu Peltola

Nguyễn Thu Giang - Cộng tác viên Google.tienlang Dịch và Giới thiệu

Kính mời xem bài liên quan:

1JOE BIDEN THĂM VIỆT NAM VÀ CÁI NGU, CÁI HÈN CỦA BÁO CHÍ VIỆT NAM 

2. BÁO CROATIA NHẮC LẠI CUỘC PHỎNG VẤN CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH CỦA NỮ NHÀ BÁP PHÁP NĂM 1964 ĐỂ SO SÁNH VỚI CUỘC PHỎNG VẤN V.PUTIN CỦA NHÀ BÁO MỸ CARLSON HIỆN NAY

3. Báo Mỹ: CŨNG Y CHANG NHƯ THỜI CHIẾN TRANH Ở VIỆT NAM, TOÀN BỘ CUỘC XUNG ĐỘT UKRAINA TRÀN NGẬP SỰ DỐI TRÁ CỦA CHÍNH PHỦ MỸ

4. The Telegraph (Anh) đưa tin nóng hổi: NGA ĐANG GIÀNH LẠI NGÔI LÀNG TỪNG ĐƯỢC COI LÀ “THÀNH CÔNG CHÍNH” CỦA CUỘC PHẢN CÔNG NĂM NGOÁI Ở PHÍA UKRAINA

5. Tin vui đầu tháng 3: THỦ TƯỚNG ÁO KARL NEHAMMER SẴN SÀNG SANG NGA ĐỂ ĐÀM PHÁN VỚI V.PUTIN V/V LẬP LẠI HOÀ BÌNH CHO UKRAINA

6. Báo Mỹ: NGƯỜI UKRAINA CÓ QUYỀN TỰ DO CHIẾN ĐẤU MÃI MÃI, NẾU MUỐN, NHƯNG HỌ KHÔNG CÓ QUYỀN ĐÒI HỎI HOA KỲ PHẢI VIỆN TRỢ MÃI MÃI!

7. TOÀN VĂN CUỘC TRÒ CHUYỆN ĐIỆN THOẠI GIỮA CÁC TƯỚNG LĨNH ĐỨC BÀN CHUYỆN PHÁ HOẠI CẦU CRƯM

8. Chuyện ngộ: ĐÔ ĐỐC TÂY BAN NHA KHUYÊN, ĐỂ THẮNG NGA, ZELENSKY CẦN NOI GƯƠNG HỒ CHÍ MINH!

9. Tiến sĩ Luật David Sacks: CUỘC CHIẾN Ở UKRAINA DỰA TRÊN SỰ DỐI TRÁ- DỐI TRÁ VỀ VIỆC NÓ ĐÃ BẮT ĐẦU NHƯ THẾ NÀO, NÓ ĐANG DIỄN RA NHƯ THẾ NÀO VÀ NÓ SẼ KẾT THÚC RA SAO

10. Asia Times: ĐỨC QUỐC XÃ TỪNG GIẢI CỨU MUSSOLINI. NGƯỜI MỸ CÓ THỂ NOI GƯƠNG HỌ ĐỂ CỨU ZELENSKY

11. Politico (Hoa Kỳ): HOẠT ĐỘNG GIÁN ĐIỆP THÔNG MINH CỦA PUTIN KHIẾN SCHOLZ CHẾT RÉT

12. Báo Thuỵ Điển, Nhân 10 năm Maidan: CUỘC CÁCH MẠNG MÀU EUROMAIDAN 2014 DO MỸ ĐẠO DIỄN LÀ KHỞI NGUỒN CUỘC XUNG ĐỘT Ở UKRAINA HIỆN NAY

13. Tin nóng: CÓ THỂ Đ/C ZELENSKY ĐÃ HY SINH ANH DŨNG Ở ODESSA???

14. Breitbart (Hoa Kỳ): ‘NƠI CỦA CÔ ẤY LÀ TRONG TÙ’. ĐỘC GIẢ BREITBART PHẢN ỨNG TRƯỚC TIN VICTORIA NULAND TỪ CHỨC

15. Báo Aamulehti (Phần Lan): GIẤC MƠ CHÂU ÂU KHIẾN PHẦN LAN NGÀY CÀNG CÓ NHIỀU NGƯỜI ĐÓI HƠN, SỐ NGƯỜI XẾP HÀNG XIN ĐỒ ĂN MIỄN PHÍ NGÀY CÀNG DÀI HƠN

11 nhận xét:

  1. NHỮNG BÀI BÁO CŨ ĐÁNG TIN: VOV Thứ Ba, 07:00, 04/03/2014: Mỹ và phương Tây đạo diễn chính cuộc khủng hoảng ở Ukraine?
    https://vov.vn/the-gioi/quan-sat/my-va-phuong-tay-dao-dien-chinh-cuoc-khung-hoang-o-ukraine-313406.vov
    VOV.VN - Thông qua cuộc khủng hoảng ở Ukraine người ta đã nhận ra rằng “cuộc chiến Đông Tây” vẫn diễn ra ngày càng quyết liệt hơn.
    Các cuộc chiến này diễn ra rất đa dạng: Từ các cuộc cách mạng mầu ở Đông Âu, chiến tranh ở Nam Tư, Iraq, Afghanistan đến mùa xuân Arab, và nay là Ukraine.

    Giới phân tích cho rằng, tác giả đích thực của các cuộc biểu tình, chính biến, bạo lực và chiến tranh đều bắt nguồn từ phương Tây từ tham vọng tiếp tục lãnh đạo thế giới của Mỹ với sự hậu thuẫn của NATO.

    Từ phản kháng phi bạo lực…

    Cách mạng mầu (cam, nhung, hạt dẻ; hoa hồng, hoa cúc, hoa tulip, mùa xuân Arab…) là cụm từ chỉ những phong trào biểu tình quần chúng trong một số quốc gia thuộc Liên Xô, Đông Âu vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20 và cả ở Trung Đông - Bắc Phi trong những năm đầu của thế kỷ 21và hiện đang nóng bỏng là Ukraine.


    Người biểu tình Ukraine tràn ngập đường phố Kiev (Ảnh AP)
    Các cuộc “cách mạng màu” có đặc trưng chung là phe đối lập tổ chức đông đảo quần chúng, sinh viên, các tổ chức phi chính phủ tham gia với phương thức biểu tình lớn, dài ngày lúc đầu là đấu tranh bất bạo động nhằm lật đổ các chính thể mà họ cho là tham nhũng, độc tài…

    Sự sụp đổ của LB Xô Viết và các nước Đông Âu năm 1989 được phương Tây gọi là “Mùa thu của Cộng sản”. Sự kiện bắt đầu từ Ba Lan vào năm 1989, kế đó là Hungary, CHDC Đức, Bulgaria, Tiệp Khắc và Romania.

    “Cách mạng Mùa thu” đã sử dụng rộng rãi các chiến dịch của lực lượng đối lập, kích động quần chúng chống lại chế độ đương quyền, gây áp lực đòi có sự thay đổi. Bức tường Berlin sụp đổ là sự ghi nhận thắng lợi lớn của phương Tây vào năm 1990.

    Cuối năm 1991, Liên Xô tan rã đã tạo điều kiện cho 15 quốc gia mới hình thành, đánh dấu sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh. Điểm nhấn của các cuộc cách mạng nêu trên mà phương Tây gắn với tính chất màu sắc là cách mạng 5/10/2000 ở Serbia, Cách mạng Hoa hồng ở Gruzia (2003), Cách mạng Cam ở Ukraine (2004), và Cách mạng Hoa Tulip ở Kyrgyzstan (2005) vì nó tương đối “thuần khiết” không có bạo lực vũ trang và là hình mẫu để có thể mở rộng ra các chế độ phi cộng sản nhưng trái với lợi ích của phương Tây.

    … Đến can thiệp bằng bạo lực

    Mặc dù chủ thuyết “cách mạng mầu” coi phản ứng phi bạo lực là phương thức chủ yếu, nhưng trên thực tế trong những trường hợp cụ thể họ còn kết hợp với sự hỗ trợ bên ngoài, tạo dựng phái đối lập, dùng vũ lực để thay đổi chính quyền. Vào những năm 90 của thế kỷ trước Romania là nước Đông Âu duy nhất bị lật đổ chế độ bằng bạo lực.

    Đến “Mùa Xuân Arab” là một biến thể nằm trong phạm trù “cách mạng mầu” khởi phát từ Tunisia vào tháng 12/2010, tiếp đến là Ai Cập và đẫm máu nhất là ở Libya, Syria và đang tái diễn trong cuộc đấu tranh giáo phái ở Iraq. Sự ra đi của Zine El-Abidine Ben Ali của Tunisia và Hosni Mubarak của Ai Cập, hay sau cái chết của nhà độc tài Gaddafi và giờ đây đang diễn ra ở Ukraine với sự tiếm quyền của phái đối lập đối với chính phủ hợp hiến của ông Yanukovych.


    Cảnh sát chống bạo động Kiev đụng độ với người biểu tình (Ảnh AFP)
    Với “Mùa Xuân Arab” đã không đưa lại trái ngọt cho quần chúng nhân dân mà chỉ thấy đói nghèo, bạo lực và chết chóc. Căn bệnh “giáo phái” giữa dòng Shia và Sunni được phương Tây và các nhóm cực đoan hậu thuẫn đã đẩy Syria, Ai Cập vào vòng xoáy bạo lực, Tình hình còn phức tạp hơn khi Tehran có nhiều dấu hiệu gia tăng ảnh hưởng trong khu vực.

    Thỏa thuận Mỹ - Nga về vấn đề vũ khí hóa học ở Syria và hội nghị Gieneva 2 đã diễn ra nhưng vẫn không chấm dứt cuộc nội chiến hai phe trong khu vực Trung Đông - Bắc Phi. Mỹ vốn là đồng minh lâu năm của Ai Cập đã bật đèn xanh cho quân đội nước này lật đổ Tổng thống được dân bầu, nhưng lại là người của tổ chức Anh em Hồi giáo, vốn là mối đe dọa các lợi ích của Mỹ tại đây.

    Trả lờiXóa
  2. Gần đây tại Ukraine, sự can thiệp của Mỹ và phương Tây càng thô bạo hơn, bất chấp các nguyên tắc của Liên hợp quốc là tôn trọng chủ quyền của các quốc gia độc lập. Cùng với việc ủng hộ, hô hào, cổ súy, các chính trị gia phương Tây còn trực tiếp đến diễn thuyết và phân phát bành mì cho những người tham gia biểu tình ủng hộ phe đối lập chống đối chính phủ hợp hiến. Hơn thế nữa, người đứng đầu Nhà trắng ông Barack Obama còn đe dọa rằng, nếu nước Nga can thiệp quân sự vào Ukraine sẽ phải trả giá đắt…

    Và sử dụng cả lực lượng khủng bố

    Sự can thiệp của nước ngoài không chỉ thể hiện ở việc cung cấp vũ khí, trang bị, tình báo, huấn luyện quân sự cho phái đối lập mà còn sử dụng cả các lực lượng cực đoan–khủng bố để lật đổ chính quyền đương nhiệm. Tại Trung Đông - Bắc Phi các cuộc nội chiến đã tạo chỗ đứng cho các phần tử cực đoan và khủng bố tung hoành. Al-Qaeda và hệ thống chân rết của nó, nhất là Jabhat al-Nusra. Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant, và chi nhánh al-Qaeda ở Bán đảo Arab hoạt động tích cực hơn bao giờ hết, chúng đang mở rộng các cơ sở cả về vật chất và tinh thần của mình trong toàn khu vực.


    Các tay súng thuộc mạng lưới khủng bố al-Qaeda (Ảnh Reuters)
    Năm 2011, các phần tử khủng bố đã tiến hành một cuộc tấn công vào lãnh sự quán Mỹ ở Benghazi làm Đại sứ Mỹ bị thiệt mạng, buộc Mỹ phải đóng cửa 19 đại sứ quán trong khu vực này. Tiếp sau là Đại sứ quán Nga, Lãnh sự quán Thụy Điển tại thủ đô của Libya cũng đã bị tấn công. Tình hình an ninh còn nghiêm trọng hơn khi Thủ tướng Libya Zeidan bị bắt cóc từ một khách sạn ở ngay trung tâm thủ đô Tripoli đến mức Mỹ buộc phải đưa lực lượng sang hợp tác với Libya để vãn hồi an ninh.

    Được biết, “al-Qaeda muốn gom 3 nước (Iraq, Syria, Lebanon) vào thành một nhà nước Hồi giáo Khalifah”. Mạng lưới khủng bố này giờ đây đã kiểm soát được nhiều vùng lãnh thổ và tuyển mộ được nhiều chiến binh hơn. Tổng thống Mỹ Obama đã phải thừa nhận rằng: lực lượng khủng bố đang “trên đường tới thất bại”, nhưng cũng đang “tự hồi sinh” trong một Trung Đông bất ổn. Trong cuộc khủng hoảng ở Ukraine hiện nay phương Tây còn sử dụng cả các lực lượng cực đoan – Phát xít mới trong cuộc bạo động lật đổ chính quyền của Tổng thống Ukraine Yanukovych.

    Các chuyên gia nghiên cứu nhận xét, nếu như ở “cách mạng Mùa thu” vấn đề chỉ mới bắt đầu của chủ nghĩa dân tộc, sắc tộc ở mức độ “ly khai” khỏi sự phụ thuộc vào LB Xô Viết và hướng Tây, thì đến “Mùa xuân Arab” gam mầu chủ đạo của cuộc “cách mạng mầu” là cuộc chiến giữa những giáo phái, dân tộc khác nhau với sự hỗ trợ của phương Tây và sự góp mặt của các nhóm cực đoan.

    Cuộc “cách mạng màu cam” lần hai ở Ukraine càng chứng tỏ chiến lược “Đông tiến” của NATO ngày càng quyết liệt hơn. Vì lợi ích của mình phương Tây đã bất chấp các nguyên tắc quốc tế và vội vã công nhận một chính thể tạm quyền mà thành phần của nó bao gồm cả nhóm cực đoan – “phát xít mới” khiến Nga không thể công nhận một chính phủ ở Kiev. Vì thế, khủng hoảng ở không gian “hậu Xô viết” thực chất là cuộc chiến “Đông-Tây” với chủ thuyết “phản kháng phi bạo lực” dưới chiêu bài “cách mạng mầu” được Mỹ và phương Tây khởi xướng và ủng hộ nhiệt tình./.

    Nguyễn Nhâm/VOV online

    Trả lờiXóa
  3. NHỮNG BÀI BÁO CŨ ĐÁNG TIN: Công an Nhân dân Thứ Hai, 28/04/2014, 10:41:Ai đứng đằng sau cuộc nội chiến ở Ukraine?
    https://cand.com.vn/Quoc-te/Ai-dung-dang-sau-cuoc-noi-chien-o-Ukraine-i259064/

    Cuộc khủng hoảng Ukraine đã leo thang tới mức nội chiến giữa một bên là lực lượng do chính phủ tạm quyền ở Kiev kiểm soát đang tiến hành cái gọi là “cuộc chiến chống khủng bố” nhằm vào hàng triệu người dân nước này, còn bên kia là lực lượng tự vệ của chính quyền các tỉnh Đông-Nam kiên quyết bảo vệ công dân của họ đứng lên đòi được hưởng những lợi ích chính đáng của mình.
    Hai chuyến thăm ngẫu nhiên hay hữu ý?

    Qua theo dõi tình hình cuộc khủng hoảng ở Ukraine trong những ngày vừa qua thấy có hai sự kiện khá trùng hợp. Sự kiện gần đây nhất là ngày 21/4, Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden thăm Ukraine. Ngay sau khi ông Joe Biden kết thúc chuyến thăm, Chính quyền ở Kiev lại phát động giai đoạn 2 của cái gọi là “chiến dịch chống khủng bố” ở mức cao hơn, mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn. Trước đó chưa đầy 10 ngày, vào ngày 12/4, Giám đốc Cục Tình báo trung ương Mỹ (CIA) John Brennan có chuyến thăm bất ngờ tới Ukraine.

    Trong khi người phát ngôn CIA cho biết, cũng giống như các quan chức cấp cao khác của Mỹ, Giám đốc Brennan tin rằng cách duy nhất để giải quyết khủng hoảng giữa Nga và Ukraine là thông qua một giải pháp ngoại giao, thì báo “The Los Angeles Times” (Mỹ) đưa tin, ông John Brennan tới Kiev là để “cố vấn cho chính quyền lâm thời Ukraine cách thức đối phó với các phần tử đòi ly khai ở miền Đông”.

    Ngay sau khi ông John Brennan rời Kiev, “ý kiến cố vấn” của Giám đốc CIA đã biến thành quyết định của chính quyền ở Kiev phát động giai đoạn 1 của cái gọi là “chiến dịch chống khủng bố” trấn áp những người biểu tình ở Đông-Nam Ukraine. Động thái này chẳng có gì giống với “giải pháp ngoại giao” mà người phát ngôn CIA tiết lộ.

    Theo giới phân tích thạo tin tình báo, hai sự kiện này không phải là trùng hợp ngẫu nhiên với hai giai đoạn của “chiến dịch chống khủng bố” mà chỉ là thêm một lần nữa khẳng định chính Mỹ là bên đã từng đứng đằng sau giật dây các lực lượng phát xít mới và dân tộc cực đoan thực hiện cuộc đảo chính vi hiến lật đổ Tổng thống Ukraine Victor Yanukovych, xé toạc thỏa thuận hòa bình ngày 21/2 vừa được ký chưa ráo mực giữa 3 thủ lĩnh các lực lượng đối lập Ukraine và Bộ trưởng Ngoại giao ba nước EU là Pháp, Đức và Ba Lan, với sự chứng kiến của đại diện chính phủ Nga.

    Hiện nay, chính Mỹ đang “bảo kê” cho chính quyền mới dựng lên ở Kiev thực hiện “chiến dịch chống khủng bố” nhằm vào chính người dân của họ. Và do được Mỹ “chống lưng”, chính quyền tạm thời ở Ukraine mới dám huy động quân đội và cảnh sát cùng với máy bay và xe tăng trấn áp hàng triệu người dân Ukraine đang đòi những yêu cầu thuộc về phạm trù nhân quyền.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Nhân đây, dư luận quốc tế có lý khi đặt câu hỏi: Do đâu ông Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden trước đó liên tục gọi điện thoại cho cựu Tổng thống Ukraine Vichtor Yanukovych yêu cầu không được sử dụng vũ lực để chống lại các phần tử phát xít mới gây bạo loạn ở Kiev và dùng bom xăng tấn công cảnh sát, thì nay lại khuyến khích chính phủ tạm quyền ở Kiev sử dụng cả xe tăng và máy bay chiến đấu đàn áp người dân biểu tình hòa bình?

      Nhìn rộng ra, do đâu Mỹ cáo cuộc hành động hợp pháp của Tổng thống Egypt Hosni Mubarak, Tổng thống Libya Moammar Gadhafi hay Tổng thống Syria Bashar al-Assad dùng lực lượng an ninh trấn áp bọn khủng bố trong làn sóng bạo lực mang tên “Mùa xuân Arab”, là “phạm tội ác chống lại loài người”, thì nay lại làm ngơ trước hành động tội ác khủng khiếp của chính phủ tạm quyền ở Kiev sử dụng vũ khí hạng nặng tàn sát người dân tay không?

      Câu trả lời ở đây là Mỹ đang áp dụng tiêu chuẩn kép trong quan hệ quốc tế, theo đó quy định pháp lý nào đáp ứng lợi ích của Mỹ thì Washington cho là đúng, còn gì đi ngược lại thì họ cho là sai.

      Gây ra cuộc nội chiến ở Ukraine, Mỹ muốn gì?

      Phân tích kết quả chuyền thăm Ukraine của Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden, các chuyên gia phân tích nhận thấy sự cách biệt quá xa giữa những gì Washington tuyên bố và những gì họ đang làm với Ukraine. Trên lời nói, Washington tuyên bố ủng hộ chính quyền mới ở Kiev xây dựng một Ukraine phát triển ổn định, cải cách và hướng đến dân chủ. Nhưng trên thực tế hoàn toàn không như vậy.

      Trong bối cảnh Ukraina đang cận kề bờ vực phá sản quốc gia, thì Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden thăm Ukraine chỉ hứa sẽ viện trợ cho Ukraine 50 triệu USD để cải cách và 10 triệu USD để hiện đại hóa quân đội. Lời hứa này của ông Joe Biden khiến cho ngay cả những kẻ cầm quyền ở Kiev hiện nay dù có tin Mỹ tới đâu cũng cảm thấy bị xúc phạm và bị lừa dối.

      Theo tính toán của các chuyên gia tài chính, số tiền mà ông Joe Biden hứa giúp Ukraine cũng chỉ đủ để trả tiền công cho các chuyên gia và cố vấn quân sự của Mỹ cũng như vài trăm tên lính đánh thuê nước ngoài tới giúp chính phủ Kiev “chống khủng bố”, nên sẽ chẳng còn đồng tiền nào cho “cải cách” hay “hiện đại hóa quân đội”. Con số so sánh có ý nghĩa: Nga đã viện trợ cho Ukraine 250-300 tỷ USD kể từ khi giành độc lập năm 1991 vì Moskva thực sự muốn đất nước láng giềng anh em này phát triển ổn định và bền vững.

      Xóa
    2. Vậy, Mỹ muốn gì ở Ukraine?
      Chúng ta hãy nghe chính người Mỹ trả lời câu hỏi này. Theo Paul Craig Roberts, nguyên cố vấn kinh tế cho Tổng thống Mỹ Ronald Reagan, hiện là chuyên gia nghiên cứu chính trị ở Mỹ, trong bài viết với nhan đề “Nước Nga vị tấn công”, trong đó đưa ra nhận định, Mỹ đứng sau đạo diễn làn sóng bạo lực ở Ukraine từ cuối năm 2013 tới nay là nhằm các mục đích: (1) đẩy Nga ra khỏi căn cứ quân sự của Hạm đội Biển Đen ở cảng Sevastopol; (2) gây ra chiến dịch thanh lọc nhằm vào những người dân Nga và người Ukraine nói tiếng Nga, dẫn tới cuộc di cư ồ ạt người Nga từ Ukraine về phía Liên bang Nga; (3) phá hủy tiềm năng sản xuất công nghiệp quân sự cực kỳ quan trọng ở các thành phố Kiev, Dnepropetrovsk và Kharkov hiện đang thực hiện các đơn đặt hàng quân sự của Nga; (4) Mỹ và NATO sẽ triển khai căn cứ quân sự ở Ukraine, trong đó có căn cứ quân sự ở Crimea; (5) biến Ukraine thành trung tâm huấn luyện khủng bố để tấn công vào các mục tiêu tại khu vực Bắc Caucacus, Siberia và nhiều khu vực khác ở Nga; (6) kịch bản bạo loạn ở Kiev sẽ được áp dụng ở các khu vực trên lãnh thổ Nga.

      Hiện nay, sau khi không đạt được mục tiêu chiến lược hàng đầu và quan trọng nhất là kiểm soát vùng Crimea, Mỹ đang ráo riết thực hiện kịch bản gây ra cuộc nội chiến ở Ukraine, buộc Nga phải can thiệp quân sự để bảo vệ hàng triệu công dân Ukraine nói tiếng Nga ở miền Đông-Nam. Theo tính toán của các mưu sỹ ở Washington, Mỹ đang thực hiện âm mưu biến Ukraina thành “Afghanistan thứ hai”. Trong những năm 1980, Washington đã cài bẫy để buộc Moskva phải đưa quân vào Afghanistan, sau đó sa lầy ở đó, buộc phải rút quân và đây là một trong những yếu tố dẫn tới sự tan rã Liên Xô. Hiện nay, Washington cũng đang cài bẫy để buộc Nga phải can thiệp quân sự vào Ukraine...

      Theo báo chi Phương Tây tiết lộ, tổ chức phát xít mới ở Ukraine “Pravy Sector” là một chi nhánh của mạng lưới khủng bố bí mật mang tên “Gladio” từng được dựng lên từ thời Chiến tranh lạnh và vẫn còn phát triển đến tận ngày nay. Ngoài ra, trong hàng ngũ “đội quân thứ năm” của ai đó ở Ukraine có cả các lực lượng khủng bố đã từng được tôi luyện trong các hoạt động tàn sát đẫm máu nhất ở Afghanistan, Iraq và gần đây nhất ở Syria. Báo chí nước ngoài ví các lực lượng khủng bố ở Ukraine là “Al-Qaeda trắng” để phân biệt với “Al-Qaeda đen” ở các nước Bắc Phi - Trung Đông.

      Cuộc khủng hoảng Ukraine và cuộc khủng hoảng Syria, trong đó các mạng lưới khủng bố quốc tế chiếm tới 80% cái gọi là “lực lượng đối lập”, đã rọi ánh sáng vào câu chuyện thâm cung bí sử về cái gọi là “cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố” do Tổng thống Mỹ G.W.Bush phát động từ năm 2001. Đến đây thì đã rõ, ai đứng sau nội chiến ở Ukraine.

      Xóa
  4. NHỮNG BÀI BÁO CŨ ĐÁNG TIN: Nghiên cứu quốc tế 24/09/2014: Tại sao cuộc khủng hoảng Ukraine là do lỗi của phương Tây
    https://nghiencuuquocte.org/2014/09/24/khung-hoang-ukraine-do-loi-phuong-tay/

    Nguồn:John J. Mearsheimer, “Why the Ukraine Crisis Is the West’s Fault”, Foreign Affairs, September/October 2014 Issue.

    Biên dịch và Hiệu đính: Lương Khánh Ninh

    Bài liên quan: Sự tan vỡ của dàn xếp hậu Chiến tranh Lạnh

    Theo lối tư duy hiện đang thịnh hành ở phương Tây, cuộc khủng hoảng tại Ukraine có thể gần như được đổ lỗi hoàn toàn cho cuộc tấn công của Nga. Theo như mạch lập luận này, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã sáp nhập Crimea để hiện thực hóa khát khao khôi phục lại đế chế Xô Viết đã tồn tại từ lâu, và ông ta rốt cuộc có thể làm điều tương tự với phần còn lại của Ukraine cũng như những quốc gia Đông Âu khác. Cũng theo quan điểm đó, việc Tổng thống Ukraine Viktor Yanukovych bị lật đổ vào tháng 2/2014 chỉ mang lại một cái cớ cho Putin quyết định đưa lực lượng quân đội Nga chiếm giữ một phần lãnh thổ Ukraine.

    Tuy nhiên cách lý giải trên là không đúng: Mỹ và các đồng minh phương Tây phải chịu hầu hết trách nhiệm trong cuộc khủng hoảng này. Gốc rễ của vấn đề nằm ở sự mở rộng của NATO, nhân tố trung tâm của một chiến lược bao trùm hơn nhằm đưa Ukraine ra khỏi quỹ đạo kiểm soát của Nga và đưa quốc gia này gia nhập phương Tây. Trong khi đó, sự mở rộng của EU về hướng đông và việc phương Tây chống lưng cho phong trào ủng hộ dân chủ ở Ukraine – bắt đầu với cuộc Cách mạng Cam năm 2004 – cũng là những nhân tố then chốt. Kể từ giữa thập niên 1990, giới lãnh đạo Nga đã phản đối mạnh mẽ sự mở rộng của NATO, và trong những năm gần đây họ cũng nêu rõ quan điểm rằng Nga sẽ không đứng nhìn quốc gia láng giềng có tầm quan trọng chiến lược bị biến thành thành trì của phương Tây. Đối với Putin, cuộc lật đổ bất hợp pháp vị Tổng thống đắc cử một cách dân chủ và thân Nga của Ukraine – cái mà ông gọi một cách chính xác là cuộc “đảo chính” – là giọt nước làm tràn ly. Putin đáp lại bằng cách chiếm Crimea, một bán đảo mà ông e rằng sẽ là nơi đặt căn cứ hải quân của NATO, và bằng cách làm bất ổn tình hình ở Ukraine cho tới khi quốc gia này từ bỏ nỗ lực gia nhập phương Tây.

    Đòn đáp trả của Putin lẽ ra không có gì đáng ngạc nhiên. Rốt cuộc thì phương Tây đã xâm phạm đến sân sau của Nga và đe dọa đến lợi ích chiến lược cốt lõi của nước này, một điều mà Putin đã nhấn mạnh và lặp lại nhiều lần. Giới tinh hoa của Mỹ và Châu Âu bị các sự kiện giáng cho những đòn bất ngờ chỉ bởi vì họ tin vào một quan điểm sai lầm về chính trị quốc tế. Họ có xu hướng tin rằng logic của chủ nghĩa hiện thực không còn phù hợp trong thế kỷ 21 và châu Âu có thể được duy trì một cách toàn vẹn và tự do dựa trên nền tảng các nguyên lí của chủ nghĩa tự do như pháp quyền, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và nền dân chủ.

    Dẫu vậy, đại kế hoạch này đã thất bại ở Ukraine. Cuộc khủng hoảng tại đây cho thấy rằng chính trị hiện thực vẫn còn thích hợp ở thời đại này – và những quốc gia nào chối bỏ nó sẽ phải chấp nhận đối mặt với những nguy hiểm và rủi ro. Các nhà lãnh đạo của Hoa Kỳ và châu Âu đã phạm phải sai lầm ngớ ngẩn khi nỗ lực biến Ukraine thành một thành trì của phương Tây ngay trên biên giới nước Nga. Giờ đây, khi mà hậu quả của hành động này đã hiện ra rõ ràng, việc tiếp tục theo đuổi chính sách nhiều sai sót này sẽ là một sai lầm còn trầm trọng hơn nữa.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Sự sỉ nhục từ phương Tây

      Khi Chiến tranh Lạnh tiến đến hồi kết, các nhà lãnh đạo của Liên Xô muốn rằng lực lượng của Mỹ ở lại châu Âu và khối NATO giữ nguyên hiện trạng, đó là một thỏa thuận mà họ cho rằng sẽ giữ cho một nước Đức vừa tái thống nhất trong tình trạng hòa bình. Tuy nhiên, họ và những lãnh đạo kế tục của Nga không muốn NATO mở rộng hơn nữa và cho rằng các nhà ngoại giao phương Tây hiểu được mối lo ngại này của họ. Chính quyền Clinton rõ ràng đã nghĩ khác, và đến giữa thập niên 90, chính quyền này bắt đầu thúc giục NATO tiến hành mở rộng.

      Đợt mở rộng đầu diễn ra vào năm 1999 và kết nạp Cộng hòa Séc, Hungary và Ba Lan, và lần thứ hai vào năm 2004, thu nạp thêm Bulgaria, Estonia, Latvia, Litva, Romania, Slovakia và Slovenia. Moscow đã lên tiếng phàn nàn về hành động này ngay từ những ngày đầu tiên. Ví dụ, trong suốt chiến dịch đánh bom của NATO nhắm vào người Serbia ở Bosnia, Tổng thống Nga Boris Yeltsin đã nói: “Đây là dấu hiệu đầu tiên về điều có thể xảy ra khi NATO tiến gần đến biên giới của Liên bang Nga. … Ngọn lửa chiến tranh có thể bùng cháy và trải khắp châu Âu.” Nhưng người Nga tại thời điểm đó quá yếu ớt để làm trật bánh quá trình đông tiến của NATO –quá trình mà dù sao lúc đó cũng không có vẻ là mối đe dọa nghiêm trọng bởi không một quốc gia thành viên mới nào của NATO có chung đường biên giới với Nga, ngoại trừ các quốc gia vùng Baltic bé nhỏ.

      Sau đó, NATO bắt đầu tìm cách tiến xa hơn nữa. Tại hội nghị thượng đỉnh diễn ra vào tháng 4/2008 tại Bucharest, liên minh này đã cân nhắc đến việc kết nạp Gruzia và Ukraine. Chính quyền G.W. Bush ủng hộ hành động này, nhưng Pháp và Đức thì phản đối bởi họ sợ rằng điều này sẽ làm Nga tức giận quá mức. Cuối cùng, các nước thành viên NATO đã đạt được một thỏa hiệp: liên minh không bắt đầu tiến hành quy trình kết nạp chính thức mà thay vào đó ban hành một tuyên bố ủng hộ nguyện vọng của Gruzia và Ukraine, đồng thời mạnh bạo tuyên bố rằng “Những quốc gia này sẽ trở thành thành viên của NATO.”

      Tuy nhiên, Moscow không nhìn nhận kết quả này như một sự thỏa hiệp. Alexander Grushko, khi đó là Thứ trưởng Ngoại giao Nga, đã lên tiếng cho rằng, “Việc Gruzia và Ukraine trở thành thành viên NATO là một sai lầm chiến lược, sai lầm này sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng nhất tới an ninh toàn châu Âu.” Putin giữ vững lập trường cho rằng việc NATO kết nạp 2 quốc gia kể trên sẽ là một “mối đe dọa trực tiếp” đối với Nga. Một tờ báo Nga đưa tin, trong khi hội đàm với Bush, Putin “đưa ra tín hiệu rõ ràng rằng nếu Ukraine được nhận vào khối NATO, sự tồn tại của quốc gia này sẽ chấm dứt.”

      Cuộc xâm lược của Nga vào Gruzia vào tháng 8/2008 đáng lẽ nên xua tan mọi mối ngờ vực còn sót lại về quyết tâm của Putin nhằm ngăn chặn Gruzia và Ukraine gia nhập NATO. Tổng thống Gruzia Mikheil Saakashvili, người quyết tâm cam kết đưa Gruzia vào NATO, trước đó đã quyết định tái sáp nhập hai vùng ly khai Abkhazia và Nam Ossetia trong mùa hè 2008. Vậy nhưng Putin tìm cách giữ cho Gruzia yếu ớt và chia rẽ – cũng như ngoài tầm với của NATO. Sau khi cuộc chiến nổ ra giữa chính quyền Gruzia và lực lượng ly khai Nam Ossetia, lực lượng quân đội Nga đã nắm quyền kiểm soát Abkhazia và Nam Ossetia. Moscow đã làm rõ quan điểm của họ. Vậy mà, bất chấp lời cảnh báo rõ ràng đó, NATO chưa bao giờ công khai tuyên bố từ bỏ mục tiêu đưa Gruzia và Ukraine vào khối này. Công cuộc mở rộng của NATO cứ tiếp tục diễn ra, với việc Anbani và Croatia trở thành thành viên vào năm 2009.

      Giống như NATO, EU cũng đã và đang đông tiến. Tháng 5/2008, liên minh này hé lộ sáng kiến “Đối tác phương Đông”, một chương trình nhằm thúc đẩy sự thịnh vượng ở những quốc gia như Ukraine và đưa những quốc gia này hội nhập vào nền kinh tế EU. Không có gì đáng ngạc nhiên khi các nhà lãnh đạo Nga nhìn nhận kế hoạch này như một hành động thù địch chống lại lợi ích quốc gia của họ. Tháng Hai vừa qua, trước khi Yanukovych bị buộc rời nhiệm sở, Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov đã buộc tội EU nỗ lực tạo ra “phạm vi ảnh hưởng” ở Đông Âu. Trong con mắt các nhà lãnh đạo Nga, sự mở rộng của EU là bình phong cho sự bành trướng của NATO.

      Xóa
    2. Công cụ cuối cùng của phương Tây để chia cắt Kiev khỏi Moscow là nỗ lực phổ biến các giá trị phương Tây và thúc đẩy dân chủ ở Ukraine và những quốc gia hậu Xô Viết khác – một kế hoạch bao gồm việc tài trợ cho các cá nhân và tổ chức ủng hộ phương Tây. Victoria Nuland, trợ lý Ngoại trưởng Mỹ về các vấn đề châu Âu và khu vực Á-Âu, đưa ra ước tính trong tháng 12/2013 rằng nước Mỹ đã đầu tư hơn 5 tỉ đô la kể từ năm 1991 để giúp Ukraine đạt được “tương lai mà quốc gia này xứng đáng được hưởng”. Như một phần của nỗ lực kể trên, chính phủ Hoa Kỳ cung cấp tài chính cho Quỹ Quốc gia vì Dân chủ (NED). Quỹ phi lợi nhuận này đã tài trợ cho hơn 60 dự án nhằm thúc đẩy xã hội dân sự ở Ukraine, và chủ tịch NED, Carl Gershman, gọi quốc gia này là “mục tiêu giá trị nhất”. Sau khi Yanukovych đắc cử tổng thống vào tháng 2/2010, NED quyết định rằng ông này đã phá hỏng các mục tiêu của họ, và do đó tổ chức này tăng cường nỗ lực để hỗ trợ phe đối lập và củng cố các thể chế dân chủ ở Ukraine.

      Khi các lãnh đạo của Nga nhìn vào công cuộc thiết kế xã hội của phương Tây ở Ukraine, họ lo ngại rằng đất nước của họ sẽ là nạn nhân kế tiếp. Những lo ngại này không phải là hoàn toàn không có cơ sở. Vào tháng 9/2013, Gershman viết trên tờ Washington Post, “Sự lựa chọn gia nhập vào châu Âu của Ukraine sẽ thúc đẩy sự suy tàn của tư tưởng đế quốc Nga mà Putin đang thể hiện.” Tác giả cũng thêm vào: “Nước Nga cũng đang đối mặt với một sự lựa chọn, và Putin có lẽ đang thấy mình ở thế thua cuộc, không chỉ ở bên ngoài mà còn ở bên trong nước Nga.”

      Tạo ra một cuộc khủng hoảng

      Ba gói chính sách của phương Tây – tăng cường NATO, mở rộng EU và thúc đẩy dân chủ – đã đổ thêm dầu vào ngọn lửa đang chực chờ bùng phát. Tia lửa lóe lên vào tháng 11/2013, khi Yanukovych hủy bỏ một thỏa thuận kinh tế lớn mà ông ta đã đàm phán với EU và thay vào đó quyết định chấp nhận lời đề nghị trị giá 15 tỉ đôla từ phía Nga. Quyết định này đã dẫn đến các cuộc biểu tình chống chính phủ leo thang trong suốt ba tháng sau đó, một số cuộc biểu tình vào giữa tháng Hai đã gây ra cái chết của hàng trăm người biểu tình. Các phái viên của phương Tây nhanh chóng bay đến Kiev để giải quyết cuộc khủng hoảng này. Ngày 21/2, chính phủ và phe đối lập thỏa thuận cho phép Yanukovych tại vị cho đến khi các cuộc bầu cử mới được tổ chức. Tuy nhiên, thỏa thuận này ngay lập tức thất bại, và Yanukovych chạy trốn sang Nga ngay ngày sau đó. Chính phủ mới ở Kiev là một chính phủ thân phương Tây và chống Nga đến tận gốc rễ, nó cũng có bốn thành viên cấp cao mà có thể được gắn mác là những người theo chủ nghĩa tân phát xít.

      Mặc dù phạm vi dính líu của Hoa Kỳ vẫn chưa được phơi bày đầy đủ, nước Mỹ rõ ràng đã chống lưng cho vụ đảo chính này. Nuland và Thượng nghị sĩ John McCain tham dự cuộc biểu tình chống chính phủ, và Geoffrey Pyatt, đại sứ Mỹ tại Ukraine, tuyên bố sau khi Yanukovych bị lật đổ rằng đó là “một ngày đáng nhớ trong lịch sử.” Sau khi một đoạn ghi âm điện thoại được hé lộ, người ta biết được rằng Nuland đã chủ trương tán thành thay đổi chế độ và mong muốn chính trị gia người Ukraine Arseniy Yatsenyuk sẽ trở thành thủ tướng trong chính quyền mới, và sau đó đúng là ông ta đã đạt được vị trí này. Chẳng lấy gì làm ngạc nhiên khi những nhà lãnh đạo Nga cho rằng phương Tây đã đóng vai trò nào đó trong vụ Yanukovych bị hất cẳng.

      Đối với Putin, thời điểm để hành động chống lại Ukraine và phương Tây đã tới. Ngay sau ngày 22/2, ông ra lệnh cho lực lượng quân đội Nga chiếm lấy Crimea từ Ukraine, và không lâu sau đó, ông sáp nhập tỉnh này vào nước Nga. Nhiệm vụ này tỏ ra tương đối dễ dàng nhờ vào việc hàng ngàn lính Nga đã đóng quân trước đó tại một căn cứ hải quân ở cảng Sevastopol thuộc Crimea. Crimea cũng là một mục tiêu dễ đạt được bởi người dân tộc Nga chiếm đến khoảng 60% dân số ở khu vực này. Đa số họ mong muốn thoát khỏi Ukraine.

      Xóa
    3. Kế tiếp, Putin gây sức ép rất lớn lên chính quyền mới thành lập ở Kiev để khuyến khích họ không liên minh với phương Tây chống lại Moscow, tỏ rõ quan điểm rằng ông sẽ làm tan vỡ Ukraine và biến nó thành một nhà nước không hoạt động được trước khi cho phép quốc gia này trở thành một thành trì của phương Tây ngay trước ngưỡng cửa của Nga. Để thực hiện mục tiêu trên, Putin cung cấp cố vấn, vũ khí và hỗ trợ ngoại giao cho những phần tử ly khai người Nga ở miền đông Ukraine, những người hiện đang đẩy quốc gia này đến một cuộc nội chiến. Ông ta cũng đưa một đội quân lớn đến biên giới Ukraine, đe dọa xâm lược nếu như chính phủ Ukraine đàn áp những người nổi dậy. Và ông cũng tăng mạnh giá khí đốt mà Nga bán cho Ukraine cũng như yêu cầu Ukraine thanh toán cho những đợt xuất khẩu khí đốt trước đó. Putin đang chơi lá bài cứng rắn với đối thủ của mình.

      Chẩn đoán nguyên nhân

      Những hành động của Putin là dễ hiểu. Là một khu vực đất bằng rộng lớn mà nước Pháp thời Napoleon, Đế quốc Đức và Đức Quốc xã trước đây đã từng vượt qua để tấn công Nga, Ukraine có vai trò như một quốc gia vùng đệm có tầm quan trọng vô cùng lớn đối với Nga. Không một nhà lãnh đạo nào của Nga có thể chấp nhận một liên minh quân sự mà cho đến gần đây vẫn là kẻ tử thù của Moscow lại được phép tiến vào Ukraine. Cũng như không có một nhà lãnh đạo Nga nào khoanh tay đứng nhìn phương Tây xây dựng một chính quyền ở Ukraine mà chính quyền này được xác định nhằm đưa Ukraine sáp nhập vào thế giới phương Tây.

      Washington có thể không thích thú gì với lập trường của Moscow, nhưng họ nên hiểu logic đứng sau lập trường này. Đây là bài học nhập môn Địa chính trị: các cường quốc luôn nhạy cảm với những hiểm họa tiềm tàng gần lãnh thổ của họ. Rốt cuộc, Hoa Kỳ cũng không thể chấp nhận việc các cường quốc ở xa triển khai các lực lượng quân sự tại bất kỳ đâu ở Tây Bán cầu, chứ chưa nói đến tại biên giới nước này. Cứ thử tưởng tượng cơn thịnh nộ của Washington nếu như Trung Quốc xây dựng một liên minh quân sự đầy hùng mạnh và cố gắng lôi kéo Canada và Mexico vào liên minh ấy thì biết. Tạm bỏ logic sang một bên, các nhà lãnh đạo phía Nga đã từng nhiều lần nói với những người đồng cấp phương Tây rằng họ coi sự mở rộng của NATO sang Gruzia và Ukraine là không thể chấp nhận được, tương tự với bất kỳ nỗ lực nào nhằm biến những quốc gia này chống lại Nga. Cuộc chiến Nga-Gruzia năm 2008 đã nêu lên thông điệp này một cách hết sức rõ ràng.

      Giới chức Mỹ và các đồng minh châu Âu tranh luận rằng họ đã cố gắng hết sức để xoa dịu nỗi sợ hãi của người Nga và rằng Moscow nên hiểu một điều là NATO không có mưu đồ gì đối với họ cả. Bên cạnh việc liên tục phủ nhận sự mở rộng của của họ không nhằm mục đích kiềm chế Nga, liên minh quân sự này cũng chưa bao giờ triển khai lực lượng quân sự vĩnh viễn tại các nước thành viên mới. Năm 2002, tổ chức này thậm chí còn lập ra một cơ quan có tên gọi Hội đồng NATO-Nga trong một nỗ lực nhằm thúc đẩy hợp tác. Để xoa dịu Nga hơn nữa, Hoa Kỳ tuyên bố trong năm 2009 rằng quốc gia này sẽ lắp đặt hệ thống phòng thủ tên lửa mới trên các chiến hạm tại các vùng biển châu Âu, ít nhất là vào thời điểm ban đầu, thay vì tại Cộng hòa Séc hoặc Ba Lan. Tuy nhiên không biện pháp nào trong số kể trên đã thành công; người Nga vẫn trước sau như một phản đối sự bành trướng của NATO, đặc biệt đối với sự mở rộng ra Gruzia và Ukraine. Và chính người Nga, chứ không phải phương Tây, mới là những người sau cùng đưa ra quyết định điều gì được coi là mối hiểm họa đối với họ.

      Xóa
    4. Để hiểu tại sao phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ, đã không hiểu được rằng chính sách Ukraine của họ đã tạo nền tảng cho cuộc xung đột lớn với nước Nga, ta cần phải quay trở lại thời điểm giữa thập niên 1990, khi chính quyền Bill Clinton bắt đầu chủ trương ủng hộ mở rộng NATO. Các chuyên gia tại thời điểm đó đưa ra nhiều loại lập luận cả ủng hộ lẫn bác bỏ sự bành trướng này, nhưng lại không nhất trí về những việc cần làm. Ví dụ, hầu hết những người di dân Mỹ gốc Đông Âu và những người thân của họ ủng hộ mạnh mẽ việc mở rộng, bởi họ muốn NATO bảo vệ những quốc gia như Hungary hoặc Ba Lan. Một vài người theo chủ nghĩa hiện thực cũng thiên về chính sách này vì họ cho rằng nước Nga vẫn cần phải bị kiềm chế.

      Tuy vậy, hầu hết những người theo thuyết hiện thực phản đối sự bành trướng này, bởi họ tin rằng một cường quốc đang đi xuống với dân số đang ngày càng già cỗi và một nền kinh tế một chiều không cần thiết phải bị đặt trong vòng kiềm tỏa. Họ cũng sợ rằng việc mở rộng này sẽ chỉ khiến Nga có động cơ để gây rắc rối cho khu vực Đông Âu. Nhà ngoại giao Mỹ George Kennan nêu rõ quan điểm này trong một cuộc phỏng vấn năm 1998, không lâu sau khi Thượng viện Mỹ phê chuẩn đợt mở rộng NATO lần đầu tiên. Ông nói: “Tôi cho rằng người Nga sẽ dần có phản ứng tiêu cực hơn và điều này sẽ gây tác động xấu đến chính sách của họ. Tôi nghĩ đây là một sai lầm khủng khiếp. Dù gì đi chăng nữa, không có bất kỳ lí do gì có thể biện hộ cho chuyện này. Không ai đang đe dọa ai ở đây cả.”

      Mặt khác, đại đa số những người ủng hộ quan điểm tự do lại ủng hộ việc mở rộng của NATO, trong số đó có nhiều nhân vật chủ chốt trong chính quyền Clinton. Họ tin rằng sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh đã làm chuyển đổi một cách cơ bản nền chính trị quốc tế và rằng một trật tự hậu quốc gia mới đã thay thế logic của chủ nghĩa hiện thực thống trị châu Âu trước đây. Nước Mỹ không chỉ là “một quốc gia không thể thiếu được”, như Ngoại trưởng Madeleine Albright tuyên bố, mà còn là một quốc gia bá quyền nhân từ, và do đó khó có thể bị coi là một mối hiểm họa đối với Moscow. Về bản chất, mục tiêu ở đây là biến cả lục địa châu Âu trông giống như Tây Âu vậy.

      Xóa
    5. Do đó, Mỹ và đồng minh tìm cách thúc đẩy dân chủ ở các nước Đông Âu, tăng cường sự phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế giữa các nước này, và gắn họ vào các tổ chức quốc tế. Sau khi giành chiến thắng trong cuộc thảo luận trong nước Mỹ, những người theo thuyết tự do chẳng gặp khó khăn trong việc thuyết phục các đồng minh của họ ở châu Âu ủng hộ sự mở rộng của NATO. Sau cùng, vin vào những thành tựu của EU trong quá khứ, những người châu Âu thậm chí còn trung thành hơn cả người Mỹ với ý tưởng rằng địa chính trị không còn đóng vai trò quan trọng và rằng một trật tự tự do bao gồm tất cả các quốc gia sẽ có thể duy trì hòa bình ở châu Âu.

      Vậy là những người chủ trương đường lối tự do đã lấn áp hoàn toàn trong cuộc tranh luận về vấn đề an ninh của châu Âu trong suốt thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 đến mức mà, trong khi liên minh theo đuổi chính sách tăng trưởng dựa trên mở cửa thì sự mở rộng của NATO cũng hầu như không gặp phải phản đối gì từ những người theo chủ nghĩa hiện thực. Thế giới quan của học thuyết tự do được chấp nhận như một thứ giáo điều trong nội bộ giới chức Mỹ. Điển hình như trong tháng 3 vừa qua, trong bài phát biểu của Tổng thống Obama về vấn đề Ukraine, ông thường xuyên nói về “những lý tưởng” tạo động lực cho chính sách của phương Tây và cái cách mà những lý tưởng này “thường bị đe dọa bởi quan điểm cũ kỹ, mang tính truyền thống hơn về quyền lực.” Phản ứng của Ngoại trưởng John Kerry về vấn đề khủng hoảng tại Crimea cũng phản ánh góc nhìn tương tự: “Trong thế kỷ 21 bạn không thể hành xử giống như cách của thế kỷ 19 bằng việc xâm lược quốc gia khác dựa trên cái cớ tự tạo.”

      Về bản chất, hai bên hoạt động với hai chiến lược khác nhau: Putin và những đồng chí của ông tư duy và hành động theo tiếng gọi của chủ nghĩa hiện thực, trong khi những người đồng cấp phương Tây của ông thì tuân theo những ý tưởng của chủ nghĩa tự do về chính trị quốc tế. Kết quả là nước Mỹ và đồng minh đã vô tình gây ra một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng ở Ukraine.

      Xóa