Kính mời những ai biết tiếng Anh, xin hãy đọc bản gốc bài trên Tạp chí Foreign Affairs (Hoa Kỳ) với tiêu đề The Regime Change Temptation in Venezuela – Dịch: Sự cám dỗ thay đổi chế độ ở Venezuela
https://www.foreignaffairs.com/venezuela/regime-change-temptation-maduro-trump-venezuela
Tạp chí Foreign Affairs (Hoa Kỳ) viết: Cuộc xâm lược Venezuela của Hoa Kỳ sẽ không giúp họ đạt được mục tiêu mong muốn. Những nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm lật đổ chính phủ Venezuela sẽ không có kết cục tốt đẹp. Các chuyên gia tin rằng việc thay đổi chế độ do các thế lực bên ngoài thúc đẩy đã dẫn đến những hậu quả thậm chí còn thảm khốc hơn và bất ổn hơn ở các quốc gia. Điều này đi ngược lại các giá trị mà tổng thống Hoa Kỳ đã tuyên bố.
Dưới đây, Google.tienlang xin dịch bài báo này…
******
The Regime Change Temptation in Venezuela – Dịch: Sự cám dỗ thay đổi chế độ ở Venezuela
Ảnh chụp màn hình tiêu đề bài trên Tạp chí Foreign Affairs (Hoa Kỳ)
Nếu quá khứ là lời mở đầu, thì những nỗ lực của Mỹ nhằm lật đổ Maduro sẽ không có kết quả tốt đẹp.
Những gì bắt đầu vào đầu tháng 9 với một loạt các cuộc không kích của Mỹ nhằm vào các tàu thuyền ở vùng Caribe (mà chính phủ Hoa Kỳ cáo buộc là chở ma túy từ Venezuela) đã leo thang thành một chiến dịch lật đổ nhà độc tài Venezuela Nicolás Maduro. Trong vòng hai tháng, chính quyền của Tổng thống Donald Trump đã triển khai 10.000 quân đến khu vực này, điều động ít nhất tám tàu nổi và một tàu ngầm đến bờ biển phía bắc Nam Mỹ, cho phép Không quân triển khai máy bay ném bom B-52 và B-1 gần bờ biển Venezuela, và điều một nhóm tác chiến do tàu sân bay USS Gerald Ford dẫn đầu, được Hải quân Hoa Kỳ gọi là "con tàu có năng lực, khả năng thích ứng và sát thương nhất thế giới", đến khu vực chịu trách nhiệm của Bộ Tư lệnh Miền Nam Hoa Kỳ.
Những hành động này phản ánh sự thay đổi đáng kể trong chính sách gần đây của chính quyền đối với Venezuela. Theo một số hãng thông tấn lớn, trong những tháng sau lễ nhậm chức của Trump, chính quyền đã chứng kiến một cuộc tranh luận nội bộ gay gắt giữa những người ủng hộ lâu năm cho việc thay đổi chế độ, dẫn đầu là Ngoại trưởng Marco Rubio, với các quan chức ủng hộ một giải pháp đàm phán với Caracas, bao gồm cả Đặc phái viên Tổng thống Richard Grenell. Trong nửa đầu năm 2025, các nhà đàm phán đã thắng thế. Grenell đã gặp Maduro và ký kết các thỏa thuận mở cửa ngành dầu mỏ và khai khoáng rộng lớn của Venezuela cho các công ty Hoa Kỳ để đổi lấy cải cách kinh tế và thả tù nhân chính trị. Nhưng đến giữa tháng 7, Rubio đã giành lại thế thượng phong, định hình lại nhu cầu thay đổi chế độ. Ông lập luận rằng việc lật đổ Maduro không chỉ là vấn đề thúc đẩy dân chủ mà còn là vấn đề an ninh nội địa. Ông mô tả nhà lãnh đạo Venezuela là một trùm ma túy đang tiếp tay cho cuộc khủng hoảng ma túy ở Mỹ và thúc đẩy nhập cư bất hợp pháp. Rubio liên hệ ông ta với băng đảng Trena de Aragua và tuyên bố rằng Venezuela hiện đang "bị cai trị bởi một tổ chức buôn bán ma túy đã nắm giữ quyền lực nhà nước".
Câu chuyện này dường như đã thuyết phục được Trump. Vào tháng 7, tổng thống đã ra lệnh cho Lầu Năm Góc sử dụng vũ lực quân sự chống lại một số nhóm trong khu vực, bao gồm Trena de Aragua và Cartel de los Soles. Chính quyền tuyên bố cartel thứ hai do Maduro và các cố vấn thân cận nhất của ông ta cầm đầu. Hai tuần sau, chính quyền đã tăng tiền thưởng cho cái đầu của Maduro từ 25 triệu đô la lên 50 triệu đô la. Vào ngày 15 tháng 10, Trump thừa nhận với các phóng viên rằng ông đã ra lệnh cho CIA tiến hành các hoạt động bí mật ở Venezuela. Khi được hỏi về các bước tiếp theo, tổng thống nói: "Chúng tôi chắc chắn đang xem xét trên bộ ngay bây giờ, bởi vì chúng tôi đã kiểm soát rất tốt vùng biển." Theo tờ New York Times, các quan chức Mỹ đã kín đáo nói rõ rằng "mục tiêu cuối cùng là lật đổ Maduro."
Nhưng dù các nỗ lực thay đổi chế độ ở Venezuela là bí mật hay công khai, Mỹ vẫn phải đối mặt với những thách thức to lớn. Các phương pháp bí mật thường thất bại nhiều hơn thành công, và các mối đe dọa vũ lực và không kích khó có thể buộc Maduro phải bỏ chạy. Ngay cả khi Washington thành công trong việc lật đổ ông ta, những nỗ lực thay đổi chế độ lâu dài vẫn sẽ đầy rủi ro. Lịch sử cho thấy hậu quả của những hoạt động như vậy thường là hỗn loạn và bạo lực.
Nếu bạn không thành công ở giai đoạn đầu thì sao?
Chính quyền Trump có một số lựa chọn bí mật để thay đổi chế độ ở Venezuela. Nhưng bằng cách công bố kế hoạch trước, về cơ bản họ đã đánh mất lợi thế then chốt: tính bí mật, cho phép họ giảm thiểu chi phí chính trị và quân sự của một chiến dịch trong khi vẫn duy trì được khả năng phủ nhận hợp lý. Bằng cách tiết lộ ý định, Washington giờ đây sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm về kết quả của chiến dịch và khó có thể kiểm soát tình hình trên thực địa nếu có sự cố xảy ra. Trên thực tế, điều này đồng nghĩa với một loạt các biện pháp nửa vời, quá rõ ràng để có thể phủ nhận và quá hạn chế để đảm bảo thành công quyết định.
Nhưng ngay cả khi Trump đã giữ bí mật, lịch sử can thiệp bí mật của Hoa Kỳ không đưa ra nhiều lý do để lạc quan. Washington có thể bí mật hỗ trợ những người bất đồng chính kiến có vũ trang trong nước, cố gắng loại bỏ Maduro hoặc phát động một cuộc đảo chính để lật đổ chế độ của ông ta. Tuy nhiên, tất cả những lựa chọn này đều có thành tích kém. Một nghiên cứu năm 2018 của một trong những tác giả (O'Rourke) đã phân tích 64 nỗ lực thay đổi chế độ bí mật do Hoa Kỳ hậu thuẫn trong Chiến tranh Lạnh. Tác giả phát hiện ra rằng những nỗ lực hỗ trợ những người bất đồng chính kiến nước ngoài chỉ thành công trong việc lật đổ chế độ trong 10% trường hợp. Các nỗ lực ám sát cũng không khá hơn. Những nỗ lực có mục tiêu của Washington nhằm ám sát bí mật các nhà lãnh đạo nước ngoài (nổi tiếng nhất là vụ ám sát nhà lãnh đạo Cuba Fidel Castro) đã nhiều lần thất bại, mặc dù một số nhà lãnh đạo, chẳng hạn như Ngô Đình Diệm của Nam Việt Nam, đã bị giết trong các cuộc đảo chính do Hoa Kỳ hậu thuẫn mà không có sự cho phép công khai của Washington. Kích động đảo chính đã chứng tỏ hiệu quả hơn trong việc đưa các lực lượng được Hoa Kỳ hậu thuẫn lên nắm quyền. Điều này đã xảy ra ở Iran năm 1953 và Guatemala năm 1954. Nhưng cả hai cuộc đảo chính này đều không mang lại sự ổn định lâu dài. Hơn nữa, Maduro đã thanh trừng toàn diện lực lượng vũ trang Venezuela đến mức khả năng họ tiến hành đảo chính dường như là không thể.
Một số phương pháp này đã được thử nghiệm ở Venezuela—và thất bại. Năm 2019, Hoa Kỳ công nhận lãnh đạo phe đối lập Juan Guaidó là tổng thống lâm thời của Venezuela và ủng hộ một cuộc nổi dậy của người dân chống lại chế độ Maduro. Tuy nhiên, nỗ lực này đã thất bại khi quân đội của Maduro từ chối đứng về phía phiến quân. Năm sau, một nhóm gồm 60 nhà bất đồng chính kiến Venezuela và một số lính đánh thuê Mỹ đã thực hiện Chiến dịch Gideon bất thành, nhằm tấn công thủ đô và bắt giữ Maduro. Lực lượng an ninh Venezuela đã nhanh chóng chặn đứng những kẻ âm mưu.
Lịch sử cho thấy những nỗ lực thay đổi chế độ bất thành càng làm trầm trọng thêm tình hình vốn đã bi thảm. Mối quan hệ giữa các quốc gia can thiệp và quốc gia mục tiêu xấu đi, và, như chúng tôi đã phát hiện trong nghiên cứu, các cuộc xung đột vũ trang giữa họ trở nên dễ xảy ra hơn. Tại quốc gia mục tiêu, những nỗ lực như vậy thường dẫn đến bạo lực, bao gồm cả nội chiến, và làm tăng nguy cơ thương vong hàng loạt cho dân thường do chế độ cầm quyền gây ra.
Iraq sau khi được Mỹ Ban phát “dân chủ”.
Hoa Kỳ có một lịch sử lâu dài về các hành động can thiệp bí mật, can thiệp vào chính trị nội bộ của các quốc gia khác. Các quốc gia này bao gồm Afghanistan, Albania, Angola và nhiều quốc gia khác. Nhưng xu hướng này đặc biệt đáng chú ý ở Mỹ Latinh, nơi Washington đã bí mật cố gắng thay đổi chế độ ít nhất 18 lần trong Chiến tranh Lạnh. Năm 1954, Hoa Kỳ đã lật đổ chính phủ được bầu cử dân chủ của Guatemala, thiết lập một chế độ quân sự đã bắt giữ hàng nghìn người đối lập và tiến hành một cuộc nội chiến kéo dài 36 năm khiến khoảng 200.000 người thiệt mạng. Năm 1961, Hoa Kỳ đã ủng hộ cuộc xâm lược Vịnh Con Lợn thất bại ở Cuba và dàn dựng một cuộc đảo chính ở Cộng hòa Dominica, vô tình gây ra vụ ám sát nhà độc tài Rafael Trujillo. Sau khi con trai của Trujillo lên nắm quyền thay vì những kẻ âm mưu đảo chính do Hoa Kỳ hậu thuẫn, Washington đã buộc ông phải lưu vong và tiếp tục can thiệp vào các cuộc bầu cử ở Dominica, cũng như ở Bolivia và Guyana, trong suốt những năm 1960. Tổ chức này đã hỗ trợ các cuộc đảo chính ở Brazil năm 1964, Bolivia năm 1971 và Chile năm 1973, và tài trợ cho quân nổi dậy Contra ở Nicaragua vào những năm 1980.
Xem thêm một vài bài đã đăng trên Google.tienlang:
3. Bài cùng tác giả William Blum mà Google.tienlang đã giới thiệu: UKRAINA VÀ PHÁT XÍT MỚI THEO CON ĐƯỜNG KOSOVO9. TONI BLER XIN LỖI VÌ THAM GIA CUỘC XÂM LƯỢC IRAQ NĂM 2003 DO MỸ CHỦ XƯỚNG
10. ĐỨC THỪA NHẬN SAI LẦM KHI NATO TẤN CÔNG IRAQ VÀ LIBYA
11. MƯỜI ĐIỀU BẠN KHÔNG BIẾT VỀ "CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI" GADDAFI Ở LIBYA
12. Saddam HUSSEIN- friend and benefactor of VIETNAM. SADDAM HUSSEIN- NGƯỜI BẠN VÀ ÂN NHÂN CỦA VIỆT NAM)
Tuy nhiên, không một hoạt động nào trong số này dẫn đến một nền dân chủ ổn định, thân Mỹ. Thông thường, các cuộc can thiệp của Mỹ đã đưa các chế độ độc tài lên nắm quyền hoặc khởi đầu các chu kỳ đàn áp và bạo lực. Ngay cả khi Washington tìm được những đồng minh chống cộng kiên định, chẳng hạn như Augusto Pinochet ở Chile, mối quan hệ cuối cùng vẫn trở nên tồi tệ do sự tàn bạo và vi phạm nhân quyền của chế độ này. Nhìn chung, việc tiết lộ vai trò của Washington trong các hoạt động bí mật này đã nuôi dưỡng một chủ nghĩa bài Mỹ sâu sắc và dai dẳng, tiếp tục ám ảnh chính sách của Mỹ trong khu vực. Thật vậy, Maduro thường xuyên viện dẫn những sự kiện này để mô tả áp lực hiện tại của Mỹ là sự tiếp nối quá khứ đế quốc của Washington.
Hành động trực tiếp
Các lựa chọn khả thi cho việc thay đổi chế độ bao gồm nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm đe dọa Maduro từ bỏ quyền lực bằng vũ lực. Những phương pháp này đôi khi hiệu quả, nhưng chỉ khi được sử dụng để chống lại các quốc gia nhỏ bé đang phải đối mặt với một đối thủ hùng mạnh có khả năng nghiền nát họ bằng một cuộc xâm lược trên bộ. Ví dụ, Hoa Kỳ đã dùng vũ lực để ép buộc thay đổi chế độ đối với các quốc gia gần như không có khả năng tự vệ, chẳng hạn như Nicaragua vào năm 1909-1910. Gần đây hơn, các mối đe dọa quân sự của Hoa Kỳ đối với Saddam Hussein ở Iraq và Muammar Gaddafi ở Libya đã không thể ngăn cản các nhà lãnh đạo này thoái vị.
Công cụ thứ hai mà Washington có thể sử dụng để thay đổi chế độ là sức mạnh không quân. Nhưng nói thì dễ hơn làm. Về mặt giả thuyết, các cuộc không kích có thể dẫn đến thay đổi chế độ nếu các nhà lãnh đạo bị giết, các chỉ huy quân sự mất khả năng chỉ đạo lực lượng của họ, hoặc một cuộc đảo chính quân sự hoặc nổi dậy của người dân bị kích động. Tuy nhiên, Hoa Kỳ chưa bao giờ thành công trong việc lật đổ một nhà lãnh đạo nước ngoài chỉ bằng sức mạnh không quân. Ngay cả với sự ra đời của vũ khí chính xác, việc theo dõi và nhắm mục tiêu vào một nguyên thủ quốc gia vẫn rất khó khăn, và sự phổ biến của công nghệ truyền thông đã khiến việc cô lập các nhà lãnh đạo khỏi lực lượng vũ trang của họ trở nên cực kỳ khó khăn. Về phần mình, quân đội khó có thể tiến hành đảo chính khi chiến đấu với một đối thủ nước ngoài như Hoa Kỳ, và dân thường có thể sẽ khó huy động để lật đổ chế độ nếu họ đang trốn tránh bom đạn. Tất cả những vấn đề này đã cản trở nỗ lực của Israel nhằm thay đổi chế độ ở Iran trong chiến dịch không kích gần đây chống lại quốc gia này.
Cuối cùng, Hoa Kỳ có thể xâm lược Venezuela. Nhưng nếu quyết định đi theo con đường đó, quân đội mà chính quyền hiện có ở đó sẽ không đủ cho nhiệm vụ này. Đầu tháng 10, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế ước tính rằng một cuộc xâm lược trên bộ sẽ cần ít nhất 50.000 quân. Về mặt lý thuyết, Trump có thể tập hợp một lực lượng như vậy. Tuy nhiên, việc phát động một cuộc xâm lược lớn rõ ràng sẽ mâu thuẫn với những tuyên bố liên tục và ồn ào của ông về việc không đưa quân đội Mỹ vào các cuộc phiêu lưu ở nước ngoài và sẽ gây chia rẽ những người ủng hộ ông. Hầu hết các nhà quan sát đều không tin vào kịch bản xâm lược, tin rằng, như các chuyên gia quân sự đã nói với tờ The Atlantic vào tháng 10, đó sẽ là một chiến dịch "nhấn nút, xem các vụ nổ". Cũng cần nhớ rằng Hoa Kỳ đã thất bại trong việc kiểm soát Iraq vào năm 2003, nơi có diện tích chỉ bằng một nửa Venezuela, mặc dù có quân số gấp ba lần.
Thật hấp dẫn khi chỉ ra các cuộc xâm lược trước đây của Mỹ để thúc đẩy thay đổi chế độ ở vùng Caribe—ví dụ, cuộc tấn công năm 1983 vào Grenada đã lật đổ chế độ Marxist, hoặc cuộc xâm lược Panama năm 1989, khi Washington lật đổ và dẫn độ nhà độc tài Manuel Noriega. Nhưng cả hai sự so sánh đều gây hiểu lầm. Grenada là một quốc đảo nhỏ bé với dân số khoảng 90.000 người vào thời điểm cuộc xâm lược của Mỹ. Panama là một quốc gia tương đương, nhưng cũng nhỏ hơn Venezuela rất nhiều. Venezuela có diện tích lớn hơn Panama hơn 12 lần và dân số của nước này gấp khoảng 10 lần so với Panama vào năm 1989. Không giống như Panama, Venezuela không phải là một quốc gia nhỏ bé tập trung quanh thủ đô, mà là một quốc gia rộng lớn với nhiều trung tâm đô thị, địa hình hiểm trở, rừng rậm và biên giới lỏng lẻo, tất cả đều chắc chắn sẽ bị du kích và lực lượng không chính quy khai thác. Quân đội Hoa Kỳ đã hoạt động kém hiệu quả trong các hoạt động chống nổi dậy trong điều kiện tương tự ở Việt Nam và Afghanistan.
Những mặt trái của thành công
Lịch sử cho chúng ta thấy rằng ngay cả khi một chiến dịch thay đổi chế độ ban đầu thành công, kết quả lâu dài vẫn có thể gây thất vọng. Nghiên cứu mà chúng tôi (và nhiều người khác) đã thực hiện cho thấy những nỗ lực thúc đẩy dân chủ sau khi chế độ bị nước ngoài áp đặt hiếm khi thành công. Điều này đã trở nên rõ ràng một cách đau đớn sau những cuộc can thiệp gần đây của Hoa Kỳ vào Afghanistan, Iraq và Libya.
Ngược lại, thay đổi chế độ thường gây ra thêm bạo lực. Ví dụ, nó làm tăng đáng kể khả năng xảy ra nội chiến ở những quốc gia này. Ngay cả việc thay đổi chế độ nhờ những chiến thắng quyết định trên thực địa cũng có thể trở nên tồi tệ nếu lực lượng vũ trang của quốc gia mục tiêu không chịu đầu hàng mà lại phân tán, tạo tiền đề cho các cuộc đấu tranh du kích và nổi dậy chống lại chính phủ mới, như đã xảy ra ở Iraq.
Bối cảnh Venezuela cho thấy đây là một khả năng rất thực tế. Như nhà phân tích Juan David Rojas về Mỹ Latinh đã lưu ý, Venezuela là nơi trú ngụ của "một loạt các lực lượng tinh nhuệ và được trang bị vũ khí tốt", bao gồm các lực lượng dân quân thân chế độ được gọi là colectivos và các nhóm vũ trang xuyên quốc gia như Quân đội Giải phóng Quốc gia (ELN) và tàn dư của FARC (Lực lượng Vũ trang Cách mạng Colombia). Phil Gunson, một nhà phân tích tại Caracas của Nhóm Khủng hoảng Quốc tế, đã nói với tờ The Guardian vào đầu tháng 10 rằng Venezuela "đang tràn ngập các nhóm vũ trang đủ loại, những kẻ không có động lực để đầu hàng hoặc ngừng những gì chúng đang làm". Hoa Kỳ có rất nhiều chỗ cho sai lầm, và hậu quả sẽ rất nghiêm trọng.
Bất kỳ ai kế nhiệm Maduro cũng sẽ phải đối mặt với những trở ngại đáng kể, đặc biệt nếu được Hoa Kỳ đưa lên. Các nhà lãnh đạo được các thế lực bên ngoài đưa lên có nhiều khả năng bị lật đổ bằng bạo lực hơn nhiều. Nghiên cứu của chúng tôi đã phát hiện ra rằng gần một nửa số nhà lãnh đạo được đưa lên từ bên ngoài (cả bí mật và công khai) sau đó đều bị loại bỏ bằng vũ lực. Những nhà lãnh đạo này đấu tranh để củng cố quyền lực vì họ thường bị coi là yếu kém hoặc bất hợp pháp - hoặc do thiếu sự ủng hộ rộng rãi trong nước hoặc vì họ bị coi là con rối của một thế lực nước ngoài. Chắc chắn, Venezuela có một phe đối lập dân chủ năng động, và nhà lãnh đạo của nước này, María Corina Machado, người gần đây đã giành giải Nobel Hoà bình, nhận được sự ủng hộ rộng rãi của công chúng.
Trong cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 7 năm 2024, Edmundo González, người trở thành ứng cử viên phe đối lập sau khi Machado bị cấm tranh cử, đã nhận được số phiếu bầu gấp đôi so với Maduro, nhưng chính quyền đã ngay lập tức che giấu kết quả này. Những người ủng hộ thay đổi chế độ lập luận rằng điều này có thể củng cố đa số dân chủ này và đưa Machado lên nắm quyền. Tuy nhiên, ngay cả các cuộc thăm dò thuận lợi cho Machado cũng cho thấy Nicolás Maduro vẫn trung thành với khoảng một phần ba dân số. Điều quan trọng là nhóm thiểu số này bao gồm những nhân vật chủ chốt trong bộ máy cưỡng chế, những người có vị thế và đặc quyền phụ thuộc vào sự tồn vong của chế độ hiện tại. Năm 2023, trung tâm nghiên cứu RAND đã tiến hành một phân tích và cảnh báo rằng sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ vào Venezuela "sẽ kéo dài, và một khi sự can thiệp bắt đầu, Hoa Kỳ sẽ rất khó khăn để tự giải thoát."
Tất cả những điều này dạy cho chúng ta một bài học tổng quát hơn. Các cuộc cách mạng dân chủ có nhiều khả năng thành công hơn khi chúng bắt nguồn từ bên trong chứ không phải từ bên ngoài. Nếu Machado thực sự nhận được sự ủng hộ rộng rãi, và phe đối lập thực sự phản ánh tình cảm của đa số, thì cơ hội thành công tốt nhất của họ là biến sự ủng hộ đó thành quyền lực từ bên trong. Việc phối hợp các hành động của phong trào với quân đội nước ngoài có thể làm mất tính chính danh của cuộc đấu tranh của họ và gây ra phản ứng dữ dội của chủ nghĩa dân tộc. Hơn nữa, các nhà lãnh đạo chính trị Hoa Kỳ nên cảnh giác với thực tế là phe đối lập hiện đang yêu cầu Hoa Kỳ hỗ trợ quân sự. Nếu cán cân quyền lực chính trị thực sự có lợi cho họ, tại sao họ lại cần sự hỗ trợ từ bên ngoài để lật đổ Maduro? Câu trả lời, tất nhiên, là chế độ Maduro vẫn kiểm soát quân đội. Nhưng nếu phe đối lập cần sự hỗ trợ từ nước ngoài để giành quyền lực, họ sẽ rất khó duy trì quyền lực đó.
Lịch sử đã cho thấy nhiều ví dụ đáng học hỏi.
Những người tìm kiếm sự thay đổi chế độ đã nhiều lần dựa vào thông tin thiên vị và những dự báo quá lạc quan về hậu quả của các hoạt động của họ. Đánh giá triển vọng thiết lập một chế độ bù nhìn ở Mexico vào những năm 1860, Napoleon III của Pháp đã tin tưởng lời khuyên của những người bảo thủ Mexico lưu vong, những người đảm bảo với ông rằng đồng bào của họ sẽ hoan nghênh sự cai trị của một đại công tước người Áo. Tương tự, chính quyền George W. Bush đã tin tưởng Ahmed Chalabi, một người Iraq lưu vong nổi tiếng, người đã đảm bảo với ông rằng mọi thứ sẽ tốt đẹp sau khi Saddam Hussein bị lật đổ. Cả hai người theo chủ nghĩa can thiệp cuối cùng đều thấy mình đang phải chiến đấu với các lực lượng nổi dậy hùng mạnh. Gốc rễ của vấn đề là những người theo chủ nghĩa can thiệp có xu hướng tập trung một cách thiển cận vào việc lật đổ một chế độ, mà không cân nhắc những gì sẽ xảy ra tiếp theo. Nhưng như Benjamin Franklin đã từng nói, "Kế hoạch thất bại chính là kế hoạch thành công." Bằng cách bỏ bê việc lập kế hoạch, chính quyền Trump có nguy cơ lặp lại những thảm họa ở Iraq và Libya.
Nước Mỹ trên hết?
Chính sách thay đổi chế độ của Hoa Kỳ, mặc dù có cơ hội thành công, nhưng lại mâu thuẫn với mọi nguyên tắc đối ngoại mà Trump tuyên bố duy trì. Trump từ lâu đã phản đối "các cuộc chiến tranh vĩnh cửu" của Hoa Kỳ ở Afghanistan và Iraq, và thường hứa sẽ chấm dứt "thời đại của những cuộc chiến tranh vĩnh cửu". Ông liên tục tự nhận mình là người kiến tạo hòa bình, tuyên bố đã chấm dứt tám cuộc chiến tranh quốc tế trong chín tháng. Trong một bài phát biểu tại Riyadh vào tháng 5, Trump đã ca ngợi quyền tự quyết của khu vực, tuyên bố: "Sự ra đời của Trung Đông hiện đại là do người dân trong khu vực này tạo ra... Những người được gọi là 'những người xây dựng quốc gia' đã phá hủy nhiều quốc gia hơn là họ đã xây dựng. Và những người theo chủ nghĩa can thiệp đã can thiệp vào những xã hội phức tạp mà họ không hiểu gì cả."
Những nỗ lực do Hoa Kỳ tài trợ nhằm lật đổ Maduro lại đi ngược lại quan điểm này. Hoa Kỳ có nguy cơ bị cuốn vào một cuộc xung đột không hồi kết khác, gây bất bình cho các đối tác khu vực trong bối cảnh cạnh tranh ảnh hưởng khu vực ngày càng gay gắt với Trung Quốc, và đi ngược lại nguyện vọng của công chúng Mỹ. Một cuộc thăm dò của YouGov được thực hiện vào tháng 9 cho thấy 62% người trưởng thành ở Mỹ "phản đối mạnh mẽ hoặc phần nào việc Hoa Kỳ sử dụng vũ lực quân sự để can thiệp vào Venezuela", và 53% phản đối mạnh mẽ hoặc phần nào việc "Hoa Kỳ sử dụng vũ lực quân sự để lật đổ Tổng thống Venezuela Nicolás Maduro". (Thái độ đối với việc điều tàu Hải quân Hoa Kỳ đến đó hơi khác một chút. 36% hoàn toàn hoặc phần nào ủng hộ việc điều tàu Mỹ đến bờ biển Venezuela, trong khi 38% hoàn toàn hoặc phần nào không ủng hộ.) Một cuộc thăm dò được thực hiện vào đầu tháng 10 cho thấy ngay cả ở Quận Miami-Dade, Florida, nơi có cộng đồng người Venezuela di cư lớn nhất tại Hoa Kỳ, những người phản đối sử dụng vũ lực quân sự để lật đổ Maduro vẫn đông hơn những người ủng hộ, với tỷ lệ 42% so với 35%.
Việc thay đổi chế độ sẽ không thúc đẩy các mục tiêu đã nêu của chính quyền ở Tây Bán cầu, chẳng hạn như ngăn chặn buôn bán ma túy, triệt phá các băng đảng ma túy và giảm nhập cư bất hợp pháp.
Thứ nhất, Venezuela không phải là nhà cung cấp ma túy lớn cho Hoa Kỳ. Trên thực tế, đánh giá mối đe dọa năm 2024 của Cơ quan Phòng chống Ma túy Hoa Kỳ (DEA) không hề đề cập đến Venezuela, ước tính rằng chỉ 8% lượng cocaine vào Hoa Kỳ đi qua lãnh thổ của nước này.
Thứ hai, Mối đe dọa từ Trena de Aragua dường như cũng bị phóng đại. Một bản ghi nhớ được giải mật hồi tháng 4 từ Văn phòng Giám đốc Tình báo Quốc gia kết luận rằng, do quy mô nhỏ của nhóm này, "cực kỳ khó có khả năng" nhóm này "điều phối một lượng lớn hoạt động buôn người và đưa người di cư trái phép". Không có lý do rõ ràng nào để tin rằng việc thay đổi chế độ sẽ ngăn chặn hoặc đảo ngược làn sóng di cư ồ ạt khỏi Venezuela. Thậm chí, việc tiếp tục gây bất ổn cho chế độ chỉ có thể làm tăng số lượng người tị nạn rời khỏi đất nước.
Thứ ba, vấn đề dầu mỏ. Bất chấp tất cả những điều 1 và 2 nêu trên, một số người có thể lập luận rằng việc thay đổi chế độ là chính đáng bởi lợi ích chiến lược của Hoa Kỳ đối với trữ lượng dầu mỏ của Venezuela, vốn lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán để cho phép Hoa Kỳ tiếp cận các nguồn tài nguyên này đã thành công. Như tờ New York Times đưa tin vào tháng 10, theo các điều khoản của thỏa thuận được đàm phán vào mùa hè, Maduro "đã đề nghị mở cửa tất cả các dự án dầu mỏ và vàng hiện tại và tương lai cho các công ty Mỹ, cung cấp các hợp đồng ưu đãi cho các doanh nghiệp Mỹ, ngừng vận chuyển dầu của Venezuela sang Trung Quốc để bán lại tại Hoa Kỳ, và giảm mạnh các hợp đồng năng lượng và khoáng sản của nước này với các công ty Trung Quốc, Iran và Nga." Đây được cho là gói nhượng bộ hào phóng nhất mà một đối thủ nước ngoài của chính quyền Hoa Kỳ đưa ra trong nhiều thập kỷ. Và các nỗ lực ngoại giao vẫn chưa cạn kiệt khi Trump đột ngột từ bỏ các cuộc đàm phán. Nếu mục tiêu của chính quyền là bảo vệ lợi ích của Hoa Kỳ trong khu vực, thì việc quay trở lại bàn đàm phán sẽ khôn ngoan hơn là trông chờ vào sự hỗn loạn sẽ xảy ra trong trường hợp thay đổi chế độ.
Tác giả Alexander B. Downes, Lindsey A. O'Rourke
Alexander B. Downes là Giáo sư Khoa học Chính trị và Quan hệ Quốc tế tại Đại học George Washington và là tác giả của cuốn Thành công thảm khốc: Tại sao sự thay đổi chế độ do nước ngoài áp đặt lại trở nên sai lầm.
Lindsey A. O'Rourke là Phó Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học Boston, Nghiên cứu viên không thường trú tại Viện Quincy về Chính sách Nhà nước có trách nhiệm và là tác giả của cuốn Covert Regime Change: America's Secret Cold War .
Nguyễn Thành Trung – Cộng tác viên Google.tienlang Dịch và Giới thiệu
Kính mời xem các bài liên quan mới đăng gần đây:





