Thứ Tư, 20 tháng 4, 2016

“Khép lại quá khứ” nhưng không được bóp méo lịch sử

Toàn quyền Đông dương Paul Doumer (1897 - 1902)
 Paul Doumer trở thành tổng thống thứ 14 của Cộng hòa Pháp
“Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai” vừa là luận điểm giữ vai trò chỉ đạo trong sự phát triển quan hệ ngoại giao, hợp tác giữa Việt Nam với các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, được khẳng định trong Điều 12, Chương 1, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (2013), vừa là biểu hiện cụ thể về truyền thống nhân văn, hòa hiếu của dân tộc Việt Nam. Thế nhưng, thực tế cho thấy, dường như từ đó một số người lại đi tới chỗ lãng quên quá khứ, phủ nhận và cào bằng lịch sử, thậm chí bóp méo quá khứ?

Cách đây vài năm, dư luận rất bất bình khi nhân 20 năm Tổng thống Hoa Kỳ B. Clinton (Clin-tơn) tuyên bố gỡ bỏ lệnh cấm vận Việt Nam, một báo điện tử đã đăng bài một phỏng vấn nhan đề Món quà tết của tổng thống Bill Clinton, mà nội dung chủ yếu là “ca ngợi” sự kiện Hoa Kỳ gỡ bỏ cấm vận, bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Dư luận bất bình vì việc thiết lập quan hệ ngoại giao, hợp tác giữa các quốc gia trên toàn thế giới là điều hết sức bình thường, xuất phát từ lợi ích trực tiếp và cùng có lợi giữa các bên liên quan, nhưng chính sách cấm vận của Mỹ với Việt Nam từ năm 1975 là một chính sách phi lý, không chỉ cô lập Việt Nam trong các quan hệ quốc tế, mà còn buộc Việt Nam phải đối mặt, phải giải quyết vô vàn khó khăn mà nếu toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta không nỗ lực vượt bậc thì đã không thể vượt qua. Bên cạnh đó, chính sách cấm vận vừa khiến nước Mỹ thiếu đi một đối tác ở châu Á, vừa đi ngược lại quá trình phát triển chung của nhân loại…
Điều này trong Lễ kỷ niệm 239 năm Ngày Độc lập của nước Mỹ và 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Mỹ do Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam tổ chức năm 2015 tại Hà Nội, đích thân ông B. Clinton khẳng định rõ ràng: “Trong mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước, bản thân tôi nghĩ nước Mỹ còn được nhiều hơn” (Bill Clinton: Mỹ được nhiều hơn khi bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, 3-7-2015). Do đó, ý kiến trong bài phỏng vấn nhân việc Hoa Kỳ tuyên bố gỡ bỏ lệnh cấm vận Việt Nam như “món quà tết” của ông B.Clinton là ý kiến khó có thể chấp nhận, vừa hạ thấp vị thế của Việt Nam trong quan hệ với Hoa Kỳ, vừa sớm quên điều phi lý mà cả dân tộc Việt Nam đã phải chịu đựng suốt mấy chục năm. Bị dư luận phản ứng, bài viết đã bị báo điện tử này gỡ xuống.
Ngỡ rằng đó là quan niệm lạc lõng từ góc nhìn phiến diện chỉ tồn tại trong một số người không e ngại khi hạ thấp, thậm chí lãng quên các giá trị cao quý của dân tộc, để vuốt ve một số lợi ích trước mắt, nhưng một số hiện tượng diễn ra gần đây lại cho thấy dường như lại có biểu hiện lan rộng? Trong số đó, phải nhắc đến phát biểu của vị giám đốc một công ty phát hành sách trong buổi tọa đàm ra mắt hồi ký Xứ Đông Dương của P.Doumer (P.Đu-me) khi cho rằng, những gì viên toàn quyền này và thực dân Pháp thực hiện tại Việt Nam còn... gây tranh cãi (?!). Dường như vị giám đốc này đã quên “tổ quốc” của P.Doumer chính là đế quốc thực dân Pháp (Empire colonial français) đã làm giàu từ buôn bán nô lệ, cướp bóc của cải, khai thác tài nguyên của các nước mà họ xâm lược, đặt ách cai trị. Tại Việt Nam, P.Doumer là người mà sử gia nổi tiếng P.Devillers (P.Đơ-vi-lê) nhận định là đã tạo ra một khúc quanh lớn khi “nới rộng mãi cái hố giữa người Pháp và người Việt Nam... hoàn thành việc Pháp nắm lấy Chính phủ vương triều bằng cách đặt một viên chức Pháp lên đầu Chính phủ này, nô lệ hóa hoàn toàn nhà vua và các thượng thư, thu nhỏ họ lại, như Ủy ban Bremier (Bơ-gơ-mi) đã khuyến cáo năm 1857” (Người Pháp và người An Nam bạn hay thù, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2006, tr.570-571).
P. Devillers cũng không quên thuật lại sự nhẫn tâm của P.Doumer cùng đồng sự trong công cuộc bình định thuộc địa qua việc dẫn lại lời kể của Trung úy F.Bernard (F. Béc-na): “Trong vài ngày người ta đã hành hình 200 người An Nam, trong số đó có những đứa nhóc 14 tuổi, có tội là đã làm rối giấc ngủ của những vị quan cai trị của chúng ta. Tất cả đều đáng nôn mửa” (P.Devillers, Sđd, tr.574). Trong hồi ký, P.Doumer cũng thừa nhận tội ác của chính quyền do ông ta đứng đầu: “Mọi sự được an bài để mỗi xứ Đông Dương là kẻ thù của một xứ khác, đặc biệt là Nam Kỳ không có bất kỳ một liên hệ nào với Trung Kỳ, không muốn gần gũi với Trung Kỳ” (Xứ Đông Dương, NXB Thế giới, 2016, tái bản có sửa chữa, tr.140).
Thứ “hòa bình” mà P.Doumer ngợi ca thực ra là “sức mạnh về vũ khí, được tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật ấy đã mang lại thứ ưu thế duy nhất mà người An Nam công nhận” (Xứ Đông Dương, tr.224). Trong một trang khác, ông ta viết: “Họ không canh phòng chống lại người Pháp, nhưng họ rất sợ; họ vẫn đang phải chịu đựng đau khổ vì người Pháp. Việc trưng tập phu khuân vác, hay đám thợ thuyền, cho các đội quân là tai họa thật sự đối với các vùng bị trưng tập. Hiếm người đàn ông nào ra đi như vậy còn về lại làng mình” (Xứ Đông Dương, tr.245). Ngay việc ông ta tỏ ra tiếc nuối, không muốn phá hủy các công trình cổ của người Việt (như thành Hà Nội) cũng đâu phải vì muốn lưu giữ tài sản cho người Việt Nam như có người hết lời ca ngợi, mà vì: “Ta hẳn có thể tập trung vào đó tất cả những cơ sở quân sự mà một phần nằm trong đó rồi, từ Bộ Tổng Tham mưu cho đến các doanh trại và xưởng. Như vậy những đơn vị ấy hẳn sẽ được bảo vệ, trong mọi tình huống nguy cấp có thể xảy ra” (Xứ Đông Dương, tr.324).
Với những người “phụng sự nước Pháp” trong Xứ Đông Dương còn đáng bàn hơn nữa. Đó là Trần Bá Lộc với “những biện pháp khắc nghiệt tàn nhẫn không nao núng mà chúng ta không thể quen được” (Xứ Đông Dương, tr.136) khi giúp ngoại xâm thẳng tay đàn áp các cuộc khởi nghĩa của đồng bào mình trong bể máu. Đó là Nguyễn Thân, kẻ khi viên toàn quyền này đến Đông Dương đã vội vàng viết thư tâng công với P. Doumer kể về thành tích giết hại đồng bào. Và còn đó, vô số những kẻ bán nước cầu vinh khác được P.Doumer ca ngợi như những người “cống hiến cho sự nghiệp chung bằng tất cả nỗ lực đầy nhiệt huyết của mình” (Xứ Đông Dương, tr.632).
Ngược lại những người Pháp bị coi là “thân An Nam” như Pasquier (Pat-ki-ê), Pennequin (Pen-nơ-canh), Gosselin (Gô-sơ-lanh), Diguet (Đi-ghê), P.Cadière (Ca-đi-e-gơ) đều chịu số phận như P.Devillers nhận định “tất cả đều lần lượt bị lên án, cô lập, vô hiệu hóa, đánh bại, dồn vào sự yên lặng” (P.Devillers, Sđd, tr.611). Chính sách và tội ác đối với dân tộc Việt Nam của chính quyền thực dân do P.Doumer đứng đầu là không thể tranh cãi. Di sản thực dân ông ta để lại đã được “trả sòng phẳng” bằng chính mồ hôi, xương máu của cha ông chúng ta, nếu không muốn nói từ đó nước Pháp đã vơ vét được khoản lợi nhuận khổng lồ. Vì thế, việc dịch thuật, giới thiệu các cuốn sách về chủ nghĩa thực dân nhằm khai thác những tư liệu quý về giai đoạn lịch sử đau thương của dân tộc là cần thiết, nhưng không phải vì thế để nghi ngờ quá khứ, thậm chí xóa nhòa lịch sử, đổi trắng thay đen, và việc làm này cần phê phán mạnh mẽ.
Với người tự nhận là “yêu thích lịch sử, đặc biệt là lịch sử Việt Nam” như vị giám đốc nêu trên mà còn có ngộ nhận như vậy, thì khó có thể trách một bộ phận người trẻ tuổi như “phát cuồng” khi hát lại các ca khúc, vẽ tranh, tạo dáng bắt chước hình ảnh, rồi ghép mặt vào thân hình các nhân vật trong một bộ phim Hàn Quốc gần đây. Trong khi đây chỉ là một bộ phim giả tưởng, và chỉ làm một so sánh đơn giản sẽ thấy nhân vật trong phim hoàn toàn trái ngược với hình ảnh đầy tai tiếng của binh lính Hàn Quốc tham gia chiến tranh tại Việt Nam trước đây. Gần đây, trong bài Đông - Nam Á lãng quên sự khủng bố của phương Tây (Southeast Asia “Forgets” About Western Terror) đăng trên counterpunch.org ngày 2-10-2015, tác giả A. Vltchek (A.Vơ-chếch) đã đưa ra những nhận xét khiến những người Việt Nam có lòng tự tôn dân tộc phải suy nghĩ, ông viết: “Tất cả đã được tha thứ và bị quên lãng ...
Trên khắp châu Á, công chúng có đặc quyền để lựa chọn không biết, không nhớ, hay thậm chí là xóa sạch những chương khủng khiếp của lịch sử... Cùng đi thăm Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam với G. Burchett (G. Bơc-xét), tôi vô cùng ngưỡng mộ các tác phẩm của nền nghệ thuật cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam được trưng bày tại đây. Nhiều hành vi khủng khiếp của phương Tây và cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam được thể hiện chân thực qua các tác phẩm này. Nhưng thật kỳ lạ là bảo tàng rất vắng người. Cạnh chúng tôi, chỉ có vài ba khách du lịch, và họ cũng là người nước ngoài. Những phòng trưng bày lớn của Bảo tàng nghệ thuật hầu như trống không”.
Trong loạt bài nhan đề Những trải nghiệm của Hàn Quốc trong chiến tranh Việt Nam đăng trên The Hankyoer ngày 8-7-2013, tác giả Nam Jong- young (Nam Giông-dăng) đã viết: “vấn đề bồi thường chiến tranh đã được bỏ qua khi Seoul (Xơ-un) và Hà Nội thiết lập ngoại giao kể từ năm 1992, câu hỏi đó chưa bao giờ được đưa vào chương trình nghị sự song phương”. Điều đó thể hiện thiện chí “khép lại quá khứ” của Việt Nam trong quan hệ với không chỉ Hàn Quốc, mà cả các nước có liên quan tới cuộc chiến tranh cách đây hơn 40 năm.
“Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai” để hợp tác, cùng phát triển với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới là lựa chọn sáng suốt của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, thể hiện truyền thống nhân văn của dân tộc đã đúc kết ngàn đời. Thiết nghĩ, khi mà sự hối hả của cuộc mưu sinh, làm giàu và khởi nghiệp đã và đang trở thành ước mơ chính đáng của thế hệ trẻ thì mỗi người cũng không nên quên rằng, khắp nơi trên nước Việt Nam này, những chứng tích chiến tranh, những đài tưởng niệm và nghĩa trang liệt sĩ, những nạn nhân chiến tranh vẫn còn đó; sách vở, tư liệu về quá khứ hào hùng nhưng bi thương của cha anh, của cả dân tộc vẫn hiện diện trong các cuốn sách ở nhiều cửa hiệu đến các thư viện từ trung ương đến địa phương…
Nhớ về quá khứ không phải là để nung nấu hận thù, càng không phải để kích động tư tưởng bài ngoại, mà nhớ về quá khứ chính là cơ sở để xây dựng lòng tự tôn, tự hào dân tộc trong mỗi người, từ đó suy nghĩ sáng suốt, hành động hiệu quả để không làm tổn thương cha anh, để xây dựng đất nước ngày càng phồn thịnh, để sự hy sinh của cha anh vẹn toàn ý nghĩa cao quý. Thế nên, là người Việt Nam, dù thế nào cũng không được xóa nhòa ranh giới giữa chính nghĩa với phi nghĩa, lãng quên lịch sử, thậm chí “đổi trắng thay đen, biến không thành có, biến có thành không”, cốt để bóp méo lịch sử.

19 nhận xét:

  1. Học sinh mẫu giáo vùng caolúc 16:58 20 tháng 4, 2016

    Người Việt Nam: Nhớ rất lâu nhưng không thù dai!

    Trả lờiXóa
  2. Chủ nhà đăng bài này chắc để dằn mặt mấy anh dzận xĩ bên bài Ề PHÁT BIỂU CỦA CỐ TT VÕ VĂN KIỆT "30/4 CÓ TRIỆU NGƯỜI VUI, TRIỆU NGƯỜI BUỒN":
    http://googletienlang2014.blogspot.com/2016/04/ve-phat-bieu-cua-co-tt-vo-van-kiet-304.html
    - Jour Vold16:58 Ngày 19 tháng 04 năm 2016
    - bao20:18 Ngày 19 tháng 04 năm 2016
    - Như Nguyệt22:27 Ngày 19 tháng 04 năm 2016
    - Trần Huỳnh,
    - Nô

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Chả phải!
      Rận ngu thì dằn mặt cũng bằng thừa!

      Xóa
    2. Mặt bọn này dày lắm

      Xóa
  3. Tội ác của Pháp,Mỹ ,Hàn mà Mr Việt Quang nhắc tới trong bài viết này,là người VN chẳng mấy ai quên,chẳng mấy ai bóp méo...Nhưng 1000 Bắc thuộc mà người Hán "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,vùi con đỏ dưới hầm sâu tội ác ...",rồi cuộc hành quân "dạy cho VN một bài học" mới đây 1979 của Đặng Tiểu Bình với tội ác đốt sạch phá sạch giết sạch ...sao không thấy ngòi bút của Việt Quang nhắc tới dòng nào nhỉ ,hay im lặng là vàng hả bác V.Quang?

    Trả lờiXóa
  4. HỐ HỐ!!!Rận xĩ Nặc danh18:31 Ngày 20 tháng 04 năm 2016 ngu vừa thôi chớ!
    ______
    "là người VN chẳng mấy ai quên,chẳng mấy ai bóp méo.. "
    ------
    Tác giả đã viết hết sức rõ ràng, ai bóp méo rồi mà, sao rận không nhận ra ư?
    - Đó là tác giả bài báo "Món quà tết của tổng thống Bill Clinton". Bài này được đăng trên VietNamNet.
    Bài này ngay khi VietNamNet mới đăng,Thứ Bảy, ngày 08 tháng 2 năm 2014 Google.tienlang đã có bài này:
    TƯ DUY NHƯỢC TIỂU ĐẾN TỪ VIETNAMNET
    Lời dẫn: Họ cướp đi, nhưng khi họ trao trả trở lại (vì lợi ích của họ) thì VietNamNet lại gọi đó là "một món quà" thật hết sức ngu xuẩn và nhược tiểu.
    Điều này quả ứng với câu nói bất hủ "Nó chặt đầu, sau đó dán cho một miếng băng keo thì cảm ơn rối rít"
    **************
    Sau Sự kiện 30 tháng 4, 1975 vấn đề bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt Nam-Hoa Kỳ được đặt ra. Tuy nhiên đến hai mươi năm sau, ngày 12/7/1995, Tổng thống Mỹ Bill Clinton và Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt mới tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia.

    Khoảng tháng 6 năm 1975, Việt Nam có nhờ Liên Xô chuyển cho Mỹ một thông điệp không chính thức: "Lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tán thành có quan hệ tốt với Mỹ trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. Trên tinh thần đó, phía Việt Nam đã tự kiềm chế trong khi giải phóng, tạo cơ hội cho người Mỹ không bị cản trở trong việc tiến hành di tản nhân viên của họ. Phía Việt Nam đã cố gắng làm mọi sự cần thiết để không làm xấu đi quan hệ với Mỹ trong tương lai. Không có sự thù địch với Mỹ ở Việt Nam và Việt Nam cũng không muốn thấy như vậy ở phía Mỹ".

    Tuy nhiên sau nhiều cuộc đàm phán, do cả 2 bên đều không đáp ứng được (hoặc không muốn đáp ứng, hoặc không muốn đáp ứng trước) yêu cầu của bên kia, nên quan hệ hai nước vẫn ở trong vòng căng thẳng.

    Đầu năm 1978, tại Tokyo, ông Phan Hiền thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam tuyên bố: "Việt Nam sẵn sàng bình thường hóa vô điều kiện với Hoa Kỳ". Tuy nhiên lúc này Mỹ quan tâm tới việc đàm phán bình thường hoá với Trung Quốc hơn, vấn đề Việt Nam không còn được ưu tiên nữa.

    Trong một nỗ lực cuối cùng, tháng 10 năm 1978, Nguyễn Cơ Thạch hối thúc các nhà đàm phán Hoa Kỳ ký thỏa thuận bình thường hóa. Nhưng Hoa Kỳ đã từ chối khéo.

    Lý do mà Mỹ không muốn bình thường hóa quan hệ với VN có rất nhiều, nhưng tựu chung là lúc đó, Mỹ không đặt lợi ích tại Việt Nam.

    Nào là vì VN có căng thẳng với Campuchia, nao là vì VN có căng thẳng với TQ, một trong số những lý do rất ngớ ngẩn (lý do cho có lý do) để Mỹ tiếp tục từ chối VN và tiếp tục lệnh cấm vận như sau :

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Trong cuộc trả lời phỏng vấn báo Time (tuần lễ từ ngày 7 đến 13-1-1992), ông Võ Văn Kiệt nói rằng:
      “Sự nghi ngờ chúng tôi còn giam giữ một số người Mỹ còn sống… là một điều ngớ ngẩn. Động cơ nào có thể thúc đẩy chúng tôi làm điều đó?”.

      Báo Time hỏi:
      “Làm sao để dân chúng Mỹ có thể tin vào sự đảm bảo của các ông?”.

      Ông Kiệt:
      “Ở Việt Nam có hàng chục ngàn gia đình có người thân bị mất tích. Tôi cũng là một nạn nhân. Gia đình tôi có bốn người, vợ và ba con của tôi, bị mất tích trong chiến tranh. Trực thăng Mỹ đã giết 300 người trong một trận càn dọc sông Sài Gòn, vợ và con trai, một con gái của tôi đã mất trong trận càn đó. Tôi có thể thấu hiểu được nỗi đau của tất cả các gia đình Mỹ có người thân bị mất tích trong chiến tranh… Tôi mong muốn dân chúng Mỹ hiểu được hoàn cảnh của chúng tôi trong vấn đề này. Chúng tôi xin mời bất cứ người nào nghi ngờ còn người Mỹ sống ở Việt Nam hãy đến Việt Nam mà tìm hiểu”.

      Cuối năm 1992, khi tới Hà Nội lần thứ hai, Thượng nghị sỹ John Kerry đã đề nghị Chủ tịch nước Lê Đức Anh cho phép một cộng sự của ông, Thượng nghị sỹ Bob Smith xuống đường hầm ở khu vực lăng Hồ Chí Minh để tận mắt thấy không có lính Mỹ bị giam dưới lăng như phim ảnh Hollywood miêu tả.

      Đến đầu thập niên 90, trong bối cảnh mà TQ nổi lên như một đối trọng trong tương lai, thể hiện tham vọng vô cùng lớn của mình, Mỹ cảm thấy cần chuyển hướng lợi ích qua Việt Nam.

      Quá trình đàm phán ngày càng thuận lợi và đi đến bình thường hóa quan hệ năm 1995 như chúng ta đã biết.

      Trên cương vị một cường quốc mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ, việc Mỹ cố tình thoái thác các đề nghị bình thường hóa của Việt Nam để đặt lệnh cấm vận, chẳng khác nào cướp đi các cơ hội của Việt Nam về mọi mặt trên trường quốc tế.

      Họ cướp đi, nhưng khi họ trao trả trở lại (vì lợi ích của họ) thì VietNamNet lại gọi đó là "một món quà" thật hết sức ngu xuẩn và nhược tiểu.

      Điều này quả ứng với câu nói bất hủ "Nó chặt đầu, sau đó dán cho một miếng băng keo thì cảm ơn rối rít"

      http://googletienlang2014.blogspot.com/2014/02/tu-duy-nhuoc-tieu-en-tu-vietnamnet.html

      Xóa
    2. Hố hố gì ông Trần?

      Hay ăn phải bả bành trướng mà cố tình quên biển đông hả ông Trần?

      Xóa
    3. Rận xĩ Nặc danh05:18 Ngày 21 tháng 04 năm 2016 ngu quá, lại còn hố hố chữa thẹn!

      Xóa
  5. Hành động bao vây cấm vận của Mỹ là một hành động dùng sức mạnh bá quyền bá đạo, dùng sức mạnh súng đạn để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam và các nước, giống như một hành động cho côn đồ vác dao canh trước cửa làng không cho ai tiếp tế hay giao dịch với ngôi làng đó.

    Do đó, đây là một hành động lách luật và không phù hợp với luật pháp quốc tế, cũng như với tinh thần của Liên Hiệp Quốc và cộng đồng quốc tế. Trong khi đó VN là một quốc gia bình thường, không phải là một quốc gia gây tội ác diệt chủng hay tài trợ khủng bố, hay đang xâm lược, uy hiếp an ninh của nước Mỹ.

    Như vậy đây là một chính sách đi ngược lại luật pháp quốc tế và đạo lý con người nói chung. Sự cực đoan nhân lên khi Mỹ đã tìm cách áp lực và ngăn chặn cả những viện trợ nhân đạo đối với người dân VN, trong lúc người dân VN đang gặp cảnh khó khăn nhất. Nói cách khác, việc bao vây cấm vận là một tội ác của Mỹ. Việc Mỹ bao vây cấm vận Cuba ngày nay cũng vậy, lần biểu quyết tại LHQ nào thì Mỹ cũng đều bị ít nhất trên 95% các quốc gia thành viên LHQ phản đối hành động bao vây cấm vận đó.

    Việc Mỹ bỏ bao vây cấm vận VN chính là vì lợi ích của Mỹ. Họ thấy việc bao vây cấm vận không thể bức tử làm sụp đổ được chế độ cộng sản VN, không thể làm cho VN trở thành giống như Liên Xô và Đông Âu.

    Một khi VN đã có chính sách Đổi Mới, theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế và kinh tế nhiều thành phần, kêu gọi đầu tư nước ngoài, hợp tác kinh doanh, thì các nước khác vì lợi ích của họ trước thị trường "béo bở" VN, nên họ đã bất chấp các áp lực của Mỹ mà đáp ứng lời mời gọi của VN mà nhảy vào thị trường này.

    Trước nguy cơ "trâu chậm uống nước đục" đó, Mỹ vì quyền lợi kinh doanh của họ, vì lợi ích của các tập đoàn tư bản tài phiệt của họ, đành gỡ bỏ cấm vận Việt Nam. Đổi lại, Việt Nam cho phép và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người Mỹ vào VN làm ăn kinh doanh.

    Nói cách khác, Mỹ là kẻ thực dụng nên họ đã không chê tiền, không chê tài nguyên và các tiềm năng "béo bở" ở VN, với trên 90% "miếng bánh" chưa khai thác vào thời đó.

    Trả lờiXóa
  6. “Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai” để hợp tác, cùng phát triển với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới là lựa chọn sáng suốt của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, thể hiện truyền thống nhân văn của dân tộc đã đúc kết ngàn đời. Thiết nghĩ, khi mà sự hối hả của cuộc mưu sinh, làm giàu và khởi nghiệp đã và đang trở thành ước mơ chính đáng của thế hệ trẻ thì mỗi người cũng không nên quên rằng, khắp nơi trên nước Việt Nam này, những chứng tích chiến tranh, những đài tưởng niệm và nghĩa trang liệt sĩ, những nạn nhân chiến tranh vẫn còn đó; sách vở, tư liệu về quá khứ hào hùng nhưng bi thương của cha anh, của cả dân tộc vẫn hiện diện trong các cuốn sách ở nhiều cửa hiệu đến các thư viện từ trung ương đến địa phương…
    Nhớ về quá khứ không phải là để nung nấu hận thù, càng không phải để kích động tư tưởng bài ngoại, mà nhớ về quá khứ chính là cơ sở để xây dựng lòng tự tôn, tự hào dân tộc trong mỗi người, từ đó suy nghĩ sáng suốt, hành động hiệu quả để không làm tổn thương cha anh, để xây dựng đất nước ngày càng phồn thịnh, để sự hy sinh của cha anh vẹn toàn ý nghĩa cao quý. Thế nên, là người Việt Nam, dù thế nào cũng không được xóa nhòa ranh giới giữa chính nghĩa với phi nghĩa, lãng quên lịch sử, thậm chí “đổi trắng thay đen, biến không thành có, biến có thành không”, cốt để bóp méo lịch sử.
    ============
    Cảm ơn tác giả về nhận xét này.

    Trả lờiXóa
  7. Trích từ baì của tác giả:
    ----
    "Trong số đó, phải nhắc đến phát biểu của vị giám đốc một công ty phát hành sách trong buổi tọa đàm ra mắt hồi ký Xứ Đông Dương của P.Doumer (P.Đu-me) khi cho rằng, những gì viên toàn quyền này và thực dân Pháp thực hiện tại Việt Nam còn... gây tranh cãi (?!). Dường như vị giám đốc này đã quên “tổ quốc” của P.Doumer chính là đế quốc thực dân Pháp (Empire colonial français) đã làm giàu từ buôn bán nô lệ, cướp bóc của cải, khai thác tài nguyên của các nước mà họ xâm lược, đặt ách cai trị "
    =====
    Tác giả đã tế nhị không nhắc đến họ tên của tay giám đốc đó là ai.
    Nhưng nếu tìm hiểu một chút thì ta sẽ biết ngay con người này.
    Đó là rận xĩ mới nổi Nguyễn Cảnh Bình- là ứng cử viên tự do nhưng không qua được vong hiệp thương, tức lấy ý kiến của cử tri nơi anh cứ trú. Sau khi kiểm phiếu, có 26/59 phiếu tín nhiệm anh Bình ứng cử ĐBQH và 16/59 phiếu ủng hộ anh ứng cử ĐB HĐND TP Hà Nội.

    Vậy mà Báo Pháp luật TP Hồ Chí Minh còn bảo vệ anh này khi đăng bài của Chân Nhân nào đó với tít "Cử tri khiếu nại kết quả tín nhiệm ông Nguyễn Cảnh Bình" Xem link:

    http://plo.vn/thoi-su/cu-tri-khieu-nai-ket-qua-tin-nhiem-ong-nguyen-canh-binh-622952.html

    Bài báo cho rằng, "kết quả này phản ánh không đúng diễn biến hội nghị, 36 cử tri đứng đơn khiếu nại yêu cầu Ủy ban Bầu cử TP Hà Nội xem xét cho tổ chức lại hội nghị lấy ý kiến cử tri nơi cư trú với ông Bình nhằm làm rõ thắc mắc, minh bạch số phiếu và kết quả kiểm phiếu".

    Công ty Alpha Books của Nguyễn Cảnh Bình và Trung tâm hợp tác trí tuệ Việt Nam (VICC) đã tung ra một “chiêu” khá độc đáo là kêu gọi bạn đọc đặt mua trước để ủng hộ 150 triệu đồng giúp xuất bản cuốn Xứ Đông Dương. Sau hơn hai tháng, số tiền đặt mua lên tới gần 160 triệu đồng. Không chỉ được đánh giá là bản dịch “gây sốt”, Xứ Đông Dương còn nhận nhiều lời khen ngợi, đánh giá cao từ một số người (trong đó, từ việc ca ngợi cuốn sách lại đẩy tới ý muốn “tri ân” P. Doumer (P. Đu-me) - người thiết lập chế độ thực dân hà khắc, đầy tội ác tại Việt Nam). Sau khi NXB Thế giới và Alpha Books phát hành, cuốn Xứ Đông Dương lại khiến người đọc rơi vào cảnh dở khóc dở cười. Vì trái với kỳ vọng của họ, cuốn sách có quá nhiều lỗi, một số câu dịch sai hẳn nội dung so với nguyên tác và người dịch như còn thiếu hiểu biết, thiếu kiến thức văn hóa - lịch sử. Trước phản hồi của bạn đọc, Alpha Book tuyên bố “tiến hành sửa chữa, tái bản cuốn sách vào tháng 3-2016… quyết định dừng phát hành bản in hiện tại và đổi lại bản tái bản cho tất cả độc giả đã đóng góp tiền xuất bản cuốn sách cũng như đã mua cuốn sách do Alpha Books phát hành”. Tuy nhiên trên thực tế, Alpha Book lại đưa ra cách giải quyết khiến phải đặt dấu hỏi về trách nhiệm của họ, khi cuốn sách vẫn được phát hành, chỉ đính kèm một tờ giấy nhỏ chú thích rất sơ sài? Về việc này, một bạn đọc đã viết: “người Việt mình vẫn còn rất nhiều người tử tế, khi nghe quảng cáo sẽ in một quyển sách hay, có giá trị, thì lập tức góp tiền ủng hộ đơn vị làm sách. Nhưng điều đáng tiếc là họ đã gửi niềm tin không đúng chỗ, khi sự nhiệt tình và niềm kỳ vọng của họ được nhận lại là một quyển sách với nhiều lỗi sai như vậy”!

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Tháng 8-2015, cũng Cty Alpha Books của Nguyễn Cảnh Bình phát hành cuốn Kỷ nguyên Park Chung Hee và quá trình phát triển thần kỳ của Hàn Quốc (nguyên bản: The Park Chung Hee Era The Transformation of South Korea - Kỷ nguyên Pắc Chung Hi và quá trình thay đổi của Hàn Quốc). Đây là công trình nghiên cứu nghiêm túc do hai học giả uy tín là Kim Byung-Kook và Erza F.Vogel chủ biên nhằm đánh giá lại toàn bộ sự nghiệp cầm quyền có không ít tai tiếng của vị tổng thống thứ ba trong lịch sử Hàn Quốc, là sách bán chạy trên thị trường sách chính trị thế giới. Nhưng cảm nhận chung của người đọc lại gói gọn trong từ “thất vọng”, vì bản dịch cắt xén, biên tập theo hướng “có lợi” cho nhà độc tài. Về cuốn sách, trong bài “Kỷ nguyên Park Chung Hee” bản tiếng Việt: Có làm thỏa mãn độc giả?
      Xem link:
      http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&News=9255&CategoryID=42
      , tác giả Vũ Minh An chỉ ra năm sai biệt lớn giữa bản gốc với bản dịch. Trong đó, thiếu sót nghiêm trọng nhất là việc thay đổi nhan đề, “mềm hóa” một số thuật ngữ khoa học chính trị, và cắt bỏ chương 14: Chiến tranh Việt Nam: Cuộc tìm kiếm của Hàn Quốc cho vấn đề an ninh quốc gia (The Vietnam War: South Korea’s Search for National Security), chương 20: Đâu mới là chế độ độc tài hoàn hảo giữa Hàn Quốc, Ác-hen-ti-na, Bra-xin, Chi-lê và Mê-hi-cô (The Perfect Dictatorship? South Korea versus Argentina, Brazil, Chile, and Mexico). Tác giả Vũ Minh An cho rằng, việc làm đó “không hợp lý, làm hỏng kết cấu cuốn sách… Bởi vì, nói tới Kỷ nguyên Park và Quá trình phát triển thần kỳ của Hàn Quốc mà loại bỏ hoàn toàn Chiến tranh Việt Nam thì đó là một sự xóa bỏ lịch sử rất khó chấp nhận. Trong số các nước tham gia cùng Mỹ vào chiến tranh Việt Nam (1954-1975), Hàn Quốc đứng vị trí số 1. Trong khoảng thời gian từ năm 1965 đến 1973, đã có 312.853 binh sĩ Hàn Quốc tham chiến tại Việt Nam. Đổi lại cho các cam kết quân sự, Hàn Quốc đã nhận được hàng chục tỷ đô-la viện trợ, cho vay, các khoản trợ cấp, chuyển giao công nghệ, các thị trường ưu đãi, tất cả được cung cấp bởi chính quyền Johnson (Giôn-xơn) và Nixon (Ních-xơn)… cho thấy nền độc tài quân sự Hàn Quốc thành công với giá đắt trong sự so sánh với các nền độc tài quân sự Mỹ la-tinh. Nếu thiếu chương 20, chưa chắc cuốn sách đã an tâm kết luận Kỷ nguyên Park là thành công vĩ đại và thất bại tệ hại”. Dù hôm nay chúng ta chủ trương “gác lại quá khứ hướng tới tương lai”, quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc đã phát triển tốt đẹp thì không vì thế mà gạt bỏ các nội dung, sự thật lịch sử đề cập trong cuốn sách.

      Xóa
  8. Rất cần những trang blog sạch như G.TL!
    Báo chí ngày nay đang bị ô nhiễm nặng, điển hình là VietNamNet, Tuổi trẻ, Thanh niên....

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. G.TL xóa sạch những ý khó nghe nên sạch là phải.

      Xóa
    2. Cái sạch ở đây là sạch của bài vở và của phần rất lớn còm của bạn đọc chống Rận và chống cờ vàng CCCĐ (tạm dùng từ như vậy). Thực tế ta thấy nếu những còm của "Rận" quá ít tri thức, chửi đổng chửi bậy vô căn cứ, đầy cảm tính hận thù,...thì xóa bỏ cho sạch diễn đàn là cần thiết. Rác rến thì phải quét bỏ.
      Ngay còm của bạn Nặc 08:58 cũng thuộc loại 'khó nghe' nhưng có bị xóa đâu ? - Tôi chỉ là 1 bạn đọc, nhưng tôi tin kể cả bạn Nặc 08:58 dù nói trái chiều diễn đàn, nhưng bằng kiến thức , bằng lập luận với những lý lẽ chắc chắn, dựa vào sự thật có dẫn chứng cụ thể ,.. thì cũng chả ai xóa còm đó cả.

      Xóa
  9. Đọc bài này của báo Nhân Dân tôi thấy cảm động vì đọc kỹ văn phong sẽ thấy hơi buồn. Chứng tỏ tác giả có lẽ cao tuổi và cũng buồn và bất bình với các hiện tượng cào bằng lịch sử như mọi người khác.

    Với những người tự trọng và yêu nước yêu sử thì đối với các vụ trên lều báo chí thời quan qua thì chỉ có 2 phản ứng một là phẫn nộ hay là buồn nản.

    Báo chí còn nhiều báo tốt, còn rất nhiều nhà báo có lương tâm và tự trọng nhưng vấn đề là Diễn Biến Hòa Bình đã chui vào quá nhiều và tràn ngập lều báo.

    Nhiều bọn bút nô lều báo đốt đền phản bội tuyên truyền các luận điệu phản động cào bằng lịch sử, chửi người tốt, bênh bọn xấu, chúng thật ra chỉ là những kẻ thừa hành có sự giật dây từ sau của các tổ chức phản động, khủng bố, bán nước phản bội Tổ Quốc ở nước ngoài mà đặc biệt là ở bên Tây.

    Chính vì vậy bọn lều báo ngày càng bị dư luận nhân dân chửi mắng, khinh bỉ, coi là kẻ thù.

    Trả lờiXóa
  10. Vấn đề là do công tác cán bộ của ta quá hay quá tài đi nên lâu nay đã có 1 đám kềnh kềnh cơ hội, vô sỉ, bọn đâm cha chém chú, lừa lọc phản bạn, trốn chúa lộn chồng cướp chồng giật vợ chui vào từ rất lâu.

    Nhưng do thiếu đèn xanh nên mọi việc còn chừng mực chưa dám làm càn. Nhưng đến thời đồng chí X chẳng biết có tác động của gia đình phò mã ngụy giàu sụ bên Tây hay không, nghe đâu là triệu phú đại gia bên Tây làm chủ cả đội bóng gì đấy, thế nên đã có đèn xanh. Đèn xanh = 40 năm hải chiến HS.

    Sau vụ đèn xanh này, cả lũ nhận được tín hiệu tốt, thế là vi khuẩn virut sản sinh nhanh chóng mặt lan rộng xã hội các sự kiện này.

    Giờ ban lãnh đạo mới phải loay hoay cặm cụi đi gỡ rối, dọn rác tàn cuộc mà nhóm lợi ích để lại.

    Trả lờiXóa
  11. Đúng là giọng văn có vẻ đượm buồn u sầu. Có gì đó trầm tư lo lắng.

    Thời buổi thổ tả, lịch sử, kỉ cương, đạo lí thánh hiền truyền thống, giá trị bị cào bằng bị lộn ngược bị coi thường, bất kì người nào có lòng cũng đều đau đáu khi đất nước bị chi phối bởi những đồng đô la mĩ kim tiền tệ và lũ mất dạy như Đặng Ngọc Tùng đốt đền cào bằng máu xương ông cha, lăng nhục tiền nhân. Và cả các báo Tuổi Trẻ, Lao Động, Người Lao Động, Thanh Niên, 1 Thế Giới .

    Trả lờiXóa