Nhân dân Sài Gòn đổ ra đường, nồng nhiệt
chào đón Quân giải phóng tiến vào giải phóng Thành phố, ngày 30-4-1975 _Ảnh:
TTXVN
Lời dẫn: Tạp chí Cộng sản là cơ quan lý luận và chính trị của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam- tiếng nói chính thống của Đảng cầm quyền ở Việt Nam. Google.tienlang đồng tình với bài viết đăng cách đây chưa lâu với tiêu đề Phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam là “nội chiến” của Tạp chí Cộng sản. Chỉ tiếc là trong bài, tác giả (PGS, TS Nguyễn Danh Tiên- Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng - Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) chỉ nói đến cụm từ chung chung “quan điểm sai trái, thù địch của thế lực phản động” chứ không chỉ rõ ra quan điểm đó của cụ thể cá nhân nào hay tổ chứ nào như mong muốn của Google.tienlang tại bài Bạn có đồng tình hay không: CHỐNG LẬT SỬ PHẢI LÀ SỰ PHẢN BIỆN RÕ ĐỊA CHỈ (TỨC PHẢN BIỆN VỚI AI, VỀ VẤNĐỀ GÌ, NGƯỜI ĐÓ NÓI Ở ĐÂU?)...
https://googletienlang2014.blogspot.com/2020/02/ban-co-ong-tinh-hay-khong-chong-lat-su.html
Nếu phản biện mà không có địa chỉ thì cũng như ném
đá ao bèo, chẳng ai biết tác giả định phê phán quan điểm của ai
Đọc kỹ bài này thì ta cũng biết, tác giả muốn phê phán “quan điểm sai trái, thù địch của thế lực phản động”, trong đó có quan điểm của cụ Võ Văn Kiệt khi cụ coi cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước là cuộc nội chiến Quốc- Cộng- (Xem các bài đã đăng trên Google.tienlang về cụ Võ Văn Kiệt). Tác giả trên Tạp chí Cộng sản cũng phê phán quan điểm của nhóm biên soạn bộ quốc sử (Trần Đức Cường, Nguyễn Quang Ngọc, Vũ Minh Giang, Nguyễn Mạnh Hà…) khi họ tuyên bố: “Từ nay ta không gọi VNCH là ngụy nữa” Xem bài vào Thứ Hai, 26 tháng 11, 2018 HAI VỊ TƯỚNG QUÂN ĐỘI CÙNG TIẾN SĨ NGUYỄN CẢNH TOÀN LÀM VIỆC VỚI PTT VŨ ĐỨC ĐAM VỀ BỘ SỬ 30 TẬP và bài NGUYỄN MẠNH HÀ- NHÀ SỬ HỌC NHƯNG THIẾU TRUNG THỰC LÀ BẤT NHÂN
Dưới đây, Google.tienlang xin giới thiệu bài Phê
phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của
dân tộc Việt Nam là “nội chiến” của Tạp chí Cộng sản.
*****
TCCS - Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống
đế quốc Mỹ và tay sai có phải là cuộc “nội chiến” giữa hai miền Nam - Bắc do
xung đột về ý thức hệ như những luận điệu xuyên tạc lịch sử của các thế lực thù
địch, phản động, cơ hội chính trị? Thực tiễn lịch sử khẳng định, đây là cuộc đấu
tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai nhằm
giành độc lập, tự do cho dân tộc, thống nhất đất nước. Không ai có thể bác bỏ
được!
Một số quan điểm sai trái, thù địch về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Có thể điểm lại một số luận điệu xuyên tạc chủ yếu sau của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị:
- Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hiếu chiến, muốn gây
chiến tranh thôn tính miền Nam, từ đó, đổ lỗi 21 năm chiến tranh với hàng triệu
người của hai miền thiệt mạng là lỗi của bên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là “tay sai” của Liên
Xô, Trung Quốc. Kháng chiến chống Mỹ là thực hiện mưu đồ của Liên Xô, Trung Quốc
“muốn đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”.
- Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ là một “con bài”
trong cuộc “mặc cả” giữa các nước lớn là Liên Xô, Trung Quốc và Mỹ.
- Việt Nam chỉ là chiến trường thử nghiệm vũ khí của
Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc.
- Nếu Việt Nam Cộng hòa được xem là con rối, là bù
nhìn, là ngụy, do Hoa Kỳ giật dây thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng chỉ là
“con rối” trong tay Liên Xô, Trung Quốc...
- Chiến tranh Việt Nam là cuộc nội chiến tương tàn
giữa hai miền Nam - Bắc do sự khác biệt về lý tưởng cộng sản và không cộng sản;
trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam, người Mỹ không hề muốn cai trị người Việt
Nam, người Mỹ can thiệp vào Việt Nam là vì “thế giới tự do”.
Với sự phát triển của công nghệ thông tin, những luận
điệu trên đang tràn lan trên internet, được các thế lực thù địch, phản động, cơ
hội chính trị rêu rao lặp đi lặp lại, âm mưu lừa bịp, xuyên tạc để phục vụ mưu
đồ đen tối của chúng.
Thực tế lịch sử khẳng định, cuộc kháng chiến chống
đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Việt Nam thời kỳ 1954 - 1975 không phải là “nội
chiến”, mà là cuộc chiến tranh yêu nước, nhằm giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ
quốc. Nguồn gốc chiến tranh là mưu đồ chính trị và hành động xâm lược Việt Nam
của chính giới Mỹ, chứ không phải xuất phát từ mâu thuẫn nội bộ dân tộc Việt
Nam.
Chiến tranh xâm lược Việt Nam 1954 - 1975 trước hết
và căn bản khởi phát từ lợi ích bên trong của đế quốc Mỹ, từ chiến lược toàn cầu
của Mỹ mà căn nguyên sâu xa là xuất phát từ bản chất chế độ chính trị cường quyền
Với mưu đồ xâm lược, khi Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm
dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết (tháng 7-1954), đế
quốc Mỹ đã thực hiện phá hoại công cuộc hòa bình, thống nhất nước Việt Nam.
R.S. Mắc Na-ma-ra, cựu Bộ trưởng Quốc phòng, một trong những kiến trúc sư hàng
đầu của Mỹ về chiến tranh Việt Nam, đã nhắc đến quan điểm của Ai-xen-hao được
thể hiện qua diễn văn của J.F. Ken-nơ-đi (công bố năm 1956), rằng “Việt Nam là
hòn đá tảng của Thế giới tự do ở Đông Nam Á. Đó là con đẻ của chúng ta. Chúng
ta không thể từ bỏ nó, không thể phớt lờ những nhu cầu của nó”(1). Trong bối cảnh
lịch sử mới, Việt Nam có vị trí quan trọng đối với Mỹ: Nơi thử thách vai trò, sức
mạnh to lớn của một đế quốc hàng đầu từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, là sự
tiếp tục và cao nhất chính sách thực dân mới của Mỹ, thực hiện “Học thuyết
Truman” (năm 1947) nhằm bảo đảm “an ninh quốc gia” và “bao vây chủ nghĩa cộng sản”.
Một nhà nghiên cứu trong bài viết “Chiến tranh Việt Nam là gì?”, đăng trên báo
The New York Times, ngày 26-3-2018, đưa ra nhận xét: “Cuộc chiến ở miền Nam Việt
Nam không phải là một cuộc xung đột cục bộ, cô lập, không liên quan đến an ninh
quốc gia của Mỹ, mà là một cuộc chiến không thể tách rời với ưu tiên cao nhất của
quốc gia - cuộc chiến chống Cộng sản trên toàn cầu trong chiến tranh lạnh”(2);
“các nhà hoạch định chính sách cảnh báo rằng nếu miền Nam Việt Nam rơi vào tay
chủ nghĩa Cộng sản, các nước láng giềng chắc chắn sẽ lần lượt gục ngã, lần lượt
như một hàng quân cờ domino”(3).
Từ năm 1950, Mỹ chính thức can thiệp vào cuộc chiến
tranh Đông Dương. Phái bộ cố vấn viện trợ quân sự Đông Dương (MAAG) của Mỹ bắt
đầu viện trợ quân sự cho Pháp, từ 52 tỷ phrăng lên tới 751 tỷ phrăng năm 1954,
chiếm 73,9% chi phí chiến tranh(4). Tiếp đó, Mỹ nhanh chóng gạt Pháp, trực tiếp
tiến hành tổ chức quân đội, chính quyền mới, tiến hành bầu cử riêng rẽ ở miền
Nam Việt Nam (đầu năm 1955), lập ra cái gọi là chính thể “Việt Nam Cộng hòa”,
âm mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa
kiểu mới, căn cứ quân sự của Mỹ.
Chính giới Mỹ đã đặt “vấn đề Việt Nam” vào trong luận
thuyết của “chiến tranh lạnh”. Dùng biện pháp chiến tranh để thôn tính miền Nam
Việt Nam, Mỹ không chỉ nhằm áp đặt ách thống trị chủ nghĩa thực dân mới, mà còn
nhằm thực hiện chiến lược toàn cầu “ngăn chặn” chủ nghĩa cộng sản, đàn áp phong
trào giải phóng dân tộc. Ngoài ra, Mỹ còn tính toán tới lợi ích kinh tế mà các
tập đoàn tư bản công nghiệp, tài chính hùng mạnh của Mỹ thu được qua cuộc chiến
này; đồng thời, tính toán tới sự răn đe đối với Liên Xô, Trung Quốc và phong
trào giải phóng dân tộc. Mục tiêu chiến lược toàn cầu và lợi ích của giới tư bản
Mỹ, vì vậy, là các nhân tố quyết định hành động chiến tranh và thúc đẩy chiều
hướng leo thang chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam.
Đế quốc Mỹ (và cả thực dân Pháp trước đó) tìm cách
lôi kéo đồng minh, đẩy mạnh xây dựng quân đội và chính quyền tay sai, vừa mua
chuộc, lôi kéo (rêu rao Mỹ chỉ là đồng minh), vừa uy hiếp và khi cần thì cũng
không ngần ngại tổ chức đảo chính, thủ tiêu những chính trị gia không vâng lời,
nhằm giữ quyền lãnh đạo của mình... Mặt khác, Mỹ coi trọng việc xây dựng cơ sở
xã hội, dựa vào các thế lực thù địch, những phần tử phản động đội lốt tôn giáo,
vừa tạo chỗ đứng, tạo thế hợp pháp ở bên trong để che giấu bộ mặt thực dân, vừa
tích cực tổ chức huấn luyện đội quân viễn chinh, lập các căn cứ, khối liên minh
quân sự ở bên ngoài... Khi tất cả các thủ đoạn không đạt được mục tiêu đề ra,
hoặc kém hiệu quả, Mỹ đẩy tới hành động quân sự, dùng biện pháp chiến tranh là
chủ yếu. Tháng 2-1962, Mỹ thành lập Bộ tư lệnh viện trợ Hoa Kỳ ở Việt Nam, đến
tháng 7-1965, đổi thành Bộ tư lệnh lục quân Hoa Kỳ tại Việt Nam, trực tiếp chỉ
huy đội quân viễn chinh Mỹ, quân đội Việt Nam Cộng hòa và quân đồng minh trong
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Mỹ đã tiêu tốn vào cuộc chiến 676 tỷ
USD(5); cử 6,6 triệu lượt quân tham chiến; huy động 70% lục quân, 60% lính thủy
đánh bộ, 40% hải quân, 60% không quân(6); trên 72 nghìn quân(7) các nước đồng
minh Mỹ tham gia cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam(8). Với những vũ khí mới nhất,
với khối lượng lớn bom đạn, chất độc hóa học, chất độc da cam, quân đội Mỹ đã
tiến hành càn quét, đốt phá, và giết hại nhiều dân thường. Từ năm 1961 đến năm
1971, quân đội Mỹ đã tiến hành 19.905 phi vụ, phun rải khoảng 80 triệu lít chất
độc hóa học(9). Cùng với việc đưa quân vào miền Nam, Mỹ tiến hành chiến tranh
phá hoại vô cùng khốc liệt đối với miền Bắc Việt Nam.
Đế quốc Mỹ áp đặt phương thức thống trị thực dân kiểu
mới, giấu mặt, cai trị trá hình, nuôi dưỡng và dựng lên chính quyền bù nhìn từ
Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu. Từ năm 1955 đến năm 1961, đế quốc Mỹ đã viện
trợ cho chính quyền miền Nam Việt Nam 7 tỷ USD(10). Những năm 1955 - 1956, Mỹ
chi 414 triệu USD xây dựng các lực lượng thường trực quân đội Việt Nam Cộng hòa
gồm 170.000 người và lực lượng cảnh sát với 75.000 người. 80% ngân sách quân sự
của chính quyền Ngô Đình Diệm do Mỹ viện trợ(11). Trong giai đoạn 1962 - 1974,
Mỹ đã viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa 21.336 triệu USD (bao gồm cả viện trợ kinh
tế và viện trợ quân sự)(12).
Một thực tế rõ ràng là, tuy Mỹ coi lực lượng tay
sai ở miền Nam Việt Nam là những người “quốc gia chủ nghĩa”, nhưng chưa bao giờ
thực sự coi trọng những lực lượng này. Mỹ chỉ xem họ như những quân cờ trên bàn
cờ chiến lược của mình. Một khi quân cờ nào không còn hữu dụng nữa thì Mỹ sẵn
sàng thay thế, vứt bỏ họ. Một học giả Mỹ đánh giá: “Quan hệ đồng minh Mỹ - Diệm
là một sản phẩm của tính toán địa chính trị của Mỹ thời chiến tranh lạnh”, và
“việc Mỹ can thiệp sâu vào Đông Dương xuất phát từ các quan ngại về sự bành trướng
Xô-viết”(13). Ngay những quan chức cấp cao của chính quyền Sài Gòn cũng nhận thức
được thân phận làm tay sai cho Mỹ của mình, và nhận ra cuộc chiến này là cuộc
chiến của người Mỹ chống lại nhân dân Việt Nam: “Ông Mỹ luôn luôn đứng ra làm
sân khấu, làm “kép nhất”. Vì vậy ai cũng cho rằng thực chất đây là cuộc chiến
tranh của người Mỹ và chúng tôi là những kẻ đánh thuê”(14). Giới chóp bu của chế
độ Sài Gòn chỉ được tự do trong giới hạn mà Mỹ cho phép. Cái gọi là chính thể
“Việt Nam Cộng hòa” là chính quyền do người Mỹ dựng lên, nuôi dưỡng và điều khiển
để phục vụ cho chiến tranh xâm lược. Ngay cả sau năm 1973, khi quân đội Mỹ và đồng
minh phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, thì mục tiêu phục vụ cho quyền lợi của
người Mỹ của chính quyền và quân đội Sài Gòn ở miền Nam vẫn không hề thay đổi.
Tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu - lực lượng tưởng chừng được Mỹ ủng hộ nhất quán nhất,
cuối cùng cũng cay đắng thừa nhận trong phát biểu từ chức Tổng thống Việt Nam Cộng
hòa ngày 21-4-1975, rằng: Mỹ là một đồng minh “thất hứa, thiếu công bằng, thiếu
chính nghĩa, vô nhân đạo đối với một đồng minh đang chịu đau khổ, trốn tránh
trách nhiệm của một đại cường quốc”(15). Một nghiên cứu nước ngoài chỉ rõ: “Nếu
không có sự can thiệp của Mỹ, thật khó có thể tưởng tượng rằng miền Nam Việt
Nam đã ra đời hoặc nếu có thì sẽ tồn tại được bao lâu”(16).
Từ tất cả những điều đã trình bày trên đây, có thể
thấy rõ rằng, đế quốc Mỹ đã chống lại sự nghiệp thống nhất đất nước của dân tộc
Việt Nam, chống lại tất cả những ai ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh và mong muốn độc
lập, hòa bình, thống nhất của Việt Nam. Rõ ràng, đế quốc Mỹ đã chà đạp luật
pháp quốc tế, trắng trợn xâm phạm lãnh thổ Việt Nam, và vì thế, trở thành đối
tượng đấu tranh trước hết trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ
quốc của nhân dân Việt Nam.
Tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân Việt Nam
Cuộc đấu tranh nhằm thống nhất đất nước của dân tộc
Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 là cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, đồng
thời đấu tranh nhằm loại bỏ những thế lực đi ngược lại lợi ích quốc gia - dân tộc
và nguyện vọng nhân dân. Trên bình diện quốc tế, đó là một bộ phận của cuộc đấu
tranh của các dân tộc bị áp bức, nhằm khẳng định và bảo vệ quyền tự quyết của
dân tộc mình. Trong bối cảnh của cuộc “chiến tranh lạnh”, cuộc đấu tranh thống
nhất đất nước của nhân dân Việt Nam là một bộ phận của cuộc đối đầu quyết liệt
giữa phe tư bản chủ nghĩa và phe xã hội chủ nghĩa.
Nhằm đạt mục tiêu hòa bình, thống nhất đất nước,
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nhân dân Việt Nam đã nghiêm chỉnh chấp
hành Hiệp định Giơ-ne-vơ. Tháng 6-1955, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố sẵn
sàng mở hội nghị hiệp thương với chính quyền Sài Gòn, nhưng không được đáp ứng.
Tháng 7-1956, sau khi yêu cầu đàm phán không được chính quyền Ngô Đình Diệm trả
lời, thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa yêu cầu các đồng chủ tịch Hội nghị Giơ-ne-vơ
tổ chức một cuộc hội nghị mới. Các yêu cầu đàm phán với chính quyền Ngô Đình Diệm
tiếp tục được phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên trì nêu lên(17), nhưng đều bị
từ chối.
Chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp dã man các phong
trào hòa bình, bắt bớ, truy bức, giết hại những người yêu nước ở khắp miền Nam,
từ năm 1954 đến năm 1959, 466.000 người cộng sản và người yêu nước bị bắt,
400.000 người bị tù đày và có 68.000 người bị giết hại(18). Một báo cáo của Việt
Nam Cộng hòa năm 1960 đưa ra con số những người cộng sản bị bắt giữ từ năm 1954
là 48.200 người; một công bố năm 1961 ghi nhận tổng số người bị bắt giữ và thiệt
mạng dưới bàn tay lực lượng an ninh chính quyền Sài Gòn lên tới trên 60.000 người(19).
Đối diện với tình hình trong nước, quốc tế vô cùng
khó khăn, phức tạp, những năm 1954 - 1959, Đảng Lao động Việt Nam vẫn kiên trì
đấu tranh bằng phương pháp hòa bình để thống nhất đất nước. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định hòa bình, thống nhất nước nhà là nguyện vọng tha thiết, phải
tranh thủ mọi thời cơ để thống nhất một cách hòa bình. Đấu tranh vũ trang chỉ
buộc phải thực hiện khi không còn con đường nào khác. Quyết tâm thực hiện thống
nhất đất nước được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
(tháng 9-1960): “Dân tộc ta là một, nước Việt Nam là một. Nhân dân ta nhất định
sẽ vượt tất cả mọi khó khăn và thực hiện kỳ được “thống nhất đất nước, Nam, Bắc
một nhà””(20).
Trong bối cảnh phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế có những bất đồng, xuất hiện chủ nghĩa xét lại, tâm lý sợ Mỹ, ngại đối đầu với
Mỹ, biểu hiện ở xu hướng hòa hoãn, chung sống hòa bình, thủ tiêu đấu tranh vũ
trang..., Đảng Lao động Việt Nam đã đề ra đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ,
đúng đắn, sáng tạo để lãnh đạo, chỉ đạo toàn dân, toàn quân trên cả hai miền
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sự nghiệp chính nghĩa bảo vệ miền Bắc,
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là động lực cơ bản có sức cuốn hút mạnh
mẽ và tập hợp lực lượng rộng lớn - toàn thể cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tạo
thành khối đoàn kết thống nhất trong cuộc đấu tranh chung.
Ở miền Nam, năm 1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam được thành lập. Tháng 6-1969, tại Đại hội đại biểu quốc dân
miền Nam, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập(21).
Đây là cơ quan quyền lực tập trung cao nhất đại diện cho cách mạng miền Nam, là
thể hiện ý chí của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đại diện cho ý chí, nguyện vọng
thống nhất của toàn thể nhân dân miền Nam Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Lao động Việt Nam. Chính phủ có nhiệm vụ đoàn kết nhân dân miền Nam đánh thắng
đế quốc Mỹ, lật đổ chính quyền tay sai, đưa miền Nam Việt Nam phát triển theo
con đường độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, phồn vinh, tiến tới thống nhất
đất nước. Chính phủ cách mạng lâm thời là một đối trọng với chính quyền Sài Gòn
tại Hội nghị Pa-ri, làm thất bại âm mưu xưng danh “đại diện hợp pháp duy nhất”
cho miền Nam của Mỹ và chính quyền tay sai. Dưới ngọn cờ chính nghĩa của Chính
phủ cách mạng lâm thời, các phong trào vận động nhân dân, trí thức đã kết thành
một sức mạnh rộng lớn, tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân, không phân biệt
tôn giáo, đảng phái, vì một mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Đến cuối năm 1972, Chính phủ cách mạng lâm thời được 30 nước trên thế giới
chính thức công nhận(22), với tư cách là đại diện chân chính, hợp pháp duy nhất
của nhân dân miền Nam.
Dù phải chịu tác động bởi mâu thuẫn, bất đồng trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế khi đó, nhưng Việt Nam vẫn giữ vững đường
lối độc lập, tự chủ, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết; xử lý các mối
quan hệ một cách đúng đắn, mềm dẻo; coi trọng, kiên trì vấn đề đoàn kết quốc tế.
Quan điểm nhất quán của Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa là tranh thủ sự ủng hộ và viện trợ cao nhất của các nước xã hội chủ nghĩa,
trước hết là Liên Xô và Trung Quốc, nhưng không lôi kéo các nước xã hội chủ
nghĩa vào trực tiếp tham chiến ở Việt Nam. Từ khoảng giữa năm 1972, viện trợ của
Liên Xô, Trung Quốc cho Việt Nam đều bị cắt giảm mạnh. Việt Nam nhận thức được
sự chuyển dịch trong quan hệ tam giác giữa ba cường quốc là Mỹ, Liên Xô và
Trung Quốc. Trong khi khai thác mặt tích cực của các nước ủng hộ công cuộc
kháng chiến, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn đề cao cảnh giác, hạn chế tối đa mặt
tiêu cực trong mối quan hệ đó. Vì thế, khi hai nước lớn giảm dần sự viện trợ,
Việt Nam vẫn kiên quyết giữ vững mục tiêu của mình.
Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đã làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ hơn sự nghiệp chính nghĩa của
nhân dân Việt Nam, vạch trần tội ác xâm lược của kẻ thù được che giấu dưới mọi
hình thức, để thức tỉnh lương tri nhân loại tiến bộ. Phong trào nhân dân thế giới
ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ xâm lược, hình thành từ cuối năm 1964, đã
nhanh chóng mở rộng, phát triển mạnh mẽ từ khi đế quốc Mỹ đưa quân vào miền Nam
và tiến hành dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc. Đó là lực lượng
chính trị hùng hậu, đã tác động sâu sắc đến chính sách và thái độ hiếu chiến của
nhiều chính phủ trên thế giới đối với vấn đề chiến tranh Việt Nam. Chưa bao giờ
trên thế giới xuất hiện một phong trào ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của một dân
tộc lại có quy mô rộng lớn như phong trào quốc tế ủng hộ nhân dân Việt Nam
trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước.
Việc Mỹ áp đặt chế độ thống trị thuộc địa kiểu mới ở
miền Nam Việt Nam, gây chiến tranh tàn phá đất nước Việt Nam, là cuộc chiến
tranh xâm lược đối với một quốc gia độc lập có chủ quyền. Nguồn gốc chiến tranh
là mưu đồ chính trị và trực tiếp là từ hành động xâm lược Việt Nam của chính giới
Mỹ, chứ không phải xuất phát từ mâu thuẫn trong nội bộ dân tộc Việt Nam.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành cuộc kháng chiến
chống đế quốc Mỹ, nhận được sự ủng hộ, giúp sức của Liên Xô, Trung Quốc và các
nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, các lực lượng dân chủ, tiến bộ, yêu chuộng
hòa bình và công lý trên thế giới, nhưng đó thực sự là cuộc chiến đấu của chính
bản thân nhân dân Việt Nam, không có sự tham gia trực tiếp của nước ngoài. Thắng
lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước là thắng lợi của tư duy chiến
lược độc lập, tự chủ, sáng tạo, của sách lược ứng xử khôn khéo, kiên quyết và
hiệu quả của Đảng Lao động Việt Nam và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Lịch sử cuộc chiến tranh đã lùi xa, việc nhận thức
đúng bản chất của nó cho phép mỗi người dân Việt Nam, dù trước đây đứng ở phía
bên nào của cuộc chiến, cũng có quyền tự hào về truyền thống chống giặc ngoại
xâm của dân tộc. Những ai cho rằng trong cuộc trường chinh giải phóng, thống nhất,
giữ vững toàn vẹn lãnh thổ ở Việt Nam có yếu tố “nội chiến” thì thực chất, đó
chỉ là sự cố tình đánh tráo khái niệm, ngoảnh mặt làm ngơ trước sự thật lịch sử,
sẽ dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng trong nhận thức lịch sử, xuyên tạc một
trong những trang lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam trong đấu tranh chống
giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc./.
--------------------
(1) R.S. Mc Namara: Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch
và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 44
(2), (3) Christian G. Appy: “What Was the Vietnam
War About?”, The New York Times, ngày 26-3-2018,
https://www.nytimes.com/2018/03/26/opinion/what-was-the-vietnam-war-about.html
(4) Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh - trực thuộc Bộ
Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp: Thắng lợi và bài học,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 447
(5) Theo số liệu của Viện Quốc tế nghiên cứu chiến
tranh (IISS) Luân Đôn, chi phí cho chiến tranh lên tới 720 tỷ USD. Xem: Ban Chỉ
đạo tổng kết chiến tranh - trực thuộc Bộ Chính trị: Chiến tranh cách mạng Việt
Nam 1945 - 1975: Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000,
tr. 496
(6), (7) Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh - trực
thuộc Bộ Chính trị: Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975: Thắng lợi và
bài học, Sđd, tr. 508
(8) Hàn Quốc, Phi-líp-pin, Ô-xtrây-li-a, Thái Lan,
Niu Di-lân
(9) 61% trong số đó là chất da cam, chứa 366 kg
đi-ô-xin xuống gần 26.000 thôn, bản, với diện tích hơn 3,06 triệu héc-ta; trong
đó 86% diện tích bị phun rải hơn hai lần, 11% diện tích bị phun rải hơn 10 lần.
Xem: Nỗi đau da cam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 21
(10) Robert S.Mc Na-ma-ra: Nhìn lại quá khứ - Tấn
thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Sđd, tr. 44
(11) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam:
Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975, tập I - Nguyên nhân chiến
tranh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 117
(12) Gấp 10 lần số lượng viện trợ cho Đài Loan
(Trung Quốc) (2.109 triệu USD) và gần 3 lần mức viện trợ cho Hàn Quốc (7.277
triệu USD). Theo Douglas C. Dacy: Foreign aid, war and economic development
South Vietnam 1955 - 1975, Cambridge University Press, 1986, tr. 245
(13) Edward Miller: Liên minh sai lầm: Ngô Đình Diệm,
Mỹ và số phận Nam Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 17
(14) Lý Nhân: Nguyễn Cao Kỳ trở về đất mẹ, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, 2007, tr. 252
(15) Lời phát biểu từ chức của Nguyễn Văn Thiệu
ngày 21-4-1975. Xem https://www.youtube.com/watch?v=_OTSQ4F0GHM
(16) Christian G. Appy: “What Was the Vietnam War
About?”, Tlđd
(17) Tại các thời điểm: tháng 6 và tháng 7-1957,
tháng 3 và tháng 12-1958, tháng 7-1959 và tháng 7-1960.
(18) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam:
Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975, tập 2 - Chuyển chiến lược,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 178
(19) Goerges Chaffard: Indochine: Dix ans d’indépendance,
Paris: Calmann-Lévy, 1964, tr. 168 - 169; và Seven Years of the Ngo Dinh Diem
Administration, 1954 - 1961, SaiGon: Information Printing Ofice, 1961, tr. 182
- 185. Dẫn theo Edward Miller: Liên minh
sai lầm: Ngô Đình Diệm, Mỹ và số phận Nam Việt Nam, Sđd, tr. 505 (Edward Miller
là Giáo sư lịch sử tại Đại học Dartmouth, bang New Hampshire, Mỹ)
(20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 674
(21) Ban Chỉ đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt
Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 2,
tr. 428
(22) “Báo cáo của Bộ Ngoại giao Cộng hòa miền Nam
Việt Nam về hoạt động đối ngoại của Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong năm 1972”,
Báo Nhân Dân, ngày 24-1-1973. Đến cuối năm 1975, hơn 50 nước trên thế giới công
nhận và lập quan hệ ngoại giao với Chính
phủ cách mạng lâm thời.
Tác giả: PGS.TS Nguyễn Danh Tiên- Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng - Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cùng PGS.TS Trịnh Thị Hồng Hạnh -Viện Lịch sử Đảng.
Hoàng Minh Tâm Giới thiệu
Tôi nhất trí với Lời dẫn của Google.tienlang.
Trả lờiXóa"Lời dẫn: Tạp chí Cộng sản là cơ quan lý luận và chính trị của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam- tiếng nói chính thống của Đảng cầm quyền ở Việt Nam. Google.tienlang đồng tình với bài viết đăng cách đây chưa lâu với tiêu đề Phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam là “nội chiến” của Tạp chí Cộng sản. Chỉ tiếc là trong bài, tác giả (PGS, TS Nguyễn Danh Tiên- Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng - Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) chỉ nói đến cụm từ chung chung “quan điểm sai trái, thù địch của thế lực phản động” chứ không chỉ rõ ra quan điểm đó của cụ thể cá nhân nào hay tổ chứ nào như mong muốn của Google.tienlang tại bài Bạn có đồng tình hay không: CHỐNG LẬT SỬ PHẢI LÀ SỰ PHẢN BIỆN RÕ ĐỊA CHỈ (TỨC PHẢN BIỆN VỚI AI, VỀ VẤNĐỀ GÌ, NGƯỜI ĐÓ NÓI Ở ĐÂU?)...
https://googletienlang2014.blogspot.com/2020/02/ban-co-ong-tinh-hay-khong-chong-lat-su.html
Nếu phản biện mà không có địa chỉ thì cũng như ném đá ao bèo, chẳng ai biết tác giả định phê phán quan điểm của ai
Đọc kỹ bài này thì ta cũng biết, tác giả muốn phê phán “quan điểm sai trái, thù địch của thế lực phản động”, trong đó có quan điểm của cụ Võ Văn Kiệt khi cụ coi cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước là cuộc nội chiến Quốc- Cộng- (Xem các bài đã đăng trên Google.tienlang về cụ Võ Văn Kiệt). Tác giả trên Tạp chí Cộng sản cũng phê phán quan điểm của nhóm biên soạn bộ quốc sử (Trần Đức Cường, Nguyễn Quang Ngọc, Vũ Minh Giang, Nguyễn Mạnh Hà…) khi họ tuyên bố: “Từ nay ta không gọi VNCH là ngụy nữa” Xem bài vào Thứ Hai, 26 tháng 11, 2018 HAI VỊ TƯỚNG QUÂN ĐỘI CÙNG TIẾN SĨ NGUYỄN CẢNH TOÀN LÀM VIỆC VỚI PTT VŨ ĐỨC ĐAM VỀ BỘ SỬ 30 TẬP và bài NGUYỄN MẠNH HÀ- NHÀ SỬ HỌC NHƯNG THIẾU TRUNG THỰC LÀ BẤT NHÂN"
===
Theo tôi, bài này của ông PGS, TS Nguyễn Danh Tiên- Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng - Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh dài dòng nhưng chỉ được một điểm hữu ích là KHẲNG ĐỊNH LẠI QUAN ĐIỂM CHÍNH THỐNG CỦA ĐẢNG CẦM QUYỀN Ở VIỆT NAM là KHÔNG BỎ CHỮ 'NGỤY' NHƯ ĐÒI HỎI CỦA NHÓM LẬT SỬ .
Nội dung bài này thì cũng y xì như những bài cùng chủ đề này mà tôi từng đọc cách đây nửa thế kỷ, chả có gì mới.
Trong khi đó, về chủ đề Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước, từ năm 2005 đến nay đã có bao vấn đề mới phát sinh từ bài "Triệu người vui, triệu người buồn" của cụ Võ Văn Kiệt nhưng tác giả né tránh.
Các bóng của cụ Võ Văn Kiệt to quá nên tác giả ... sợ!
Không bằng ông Nguyễn Trần Bạt ở bài
CHUYÊN GIA NGUYỄN TRẦN BẠT PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM “TRIỆU NGƯỜI VUI- TRIỆU NGƯỜI BUỒN” CỦA ÔNG VÕ VĂN KIỆT
https://googletienlang2014.blogspot.com/2021/04/chuyen-gia-nguyen-tran-bat-phe-phan.html
sử thì không thể lật được
XóaHôm nay chủ nhật rỗi rãi tôi lẩn thẩn đọc lại bài cũ ở Google.tienlang Thứ Năm, 2 tháng 2, 2017
Trả lờiXóa"MATXCƠVA- MÙA THAY LÁ"- NỖI THẤT VỌNG DỊP TẾT
https://googletienlang2014.blogspot.com/2017/02/matxcova-mua-thay-la-noi-that-vong-dip.html
và tôi giật mình khi ở bài này nhắc đến cái tên HỒNG ĐĂNG!
Và vì vậy, tôi lại đọc thêm bài viết mới về Hồng Đăng:
Hồng Đăng, Hiền Hồ hay sự sụp đổ của soái ca và búp bê
Hồng Đăng, Hiền Hồ hay sự sụp đổ của soái ca và búp bê
Cập nhật lúc: 00:20 18/12/2022
Không nằm ngoài dự đoán, hai cái tên dẫn đầu danh sách 10 nhân vật được tìm kiếm nhiều nhất năm 2022, do Google Việt Nam công bố, chính là Hồng Đăng và Hiền Hồ.
Cùng dính “phốt” như nhau nhưng Hồng Đăng lại “bị” kiếm tìm nhiều hơn Hồ Hoài Anh. Cùng gắn mác “Búp bê”, cùng ồn ào đời tư nhưng Hiền Hồ lại gây náo loạn hơn nàng Quỳnh Búp bê - nữ diễn viên Phương Oanh.
Đoản khúc buồn trên đường hoa hồng
Hồng Đăng dẫn đầu top tìm kiếm cũng chẳng có gì khó hiểu. Anh vốn là “quân” của Nhà hát Kịch Hà Nội, vườn ươm của những ngôi sao thực tài. Nhưng dẫu “rinh” bao nhiêu huy chương vàng, bạc ở “thánh đường” sân khấu thì tên tuổi của nghệ sĩ vẫn không dễ dàng phủ sóng như khi nhận được một vai diễn ưng ý trong một bộ phim truyền hình ăn khách.
Nói không quá, phim truyền hình ở ta hiện nay đang là “bệ phóng” ngôi sao. Sau một đêm, một diễn viên vô danh bất ngờ vụt sáng là hoàn toàn có thể. Thử nhìn lại hành trình thành “sao” của Hồng Đăng thì rõ.
Anh và Hồng Diễm bắt đầu thành cặp kể từ phim Cầu vồng tình yêu năm 2011, do NSND Trọng Trinh đạo diễn chính. Đề tài gia đình, gia tộc, những xung đột xung quanh nó, là mảnh đất màu mỡ hiện nay. Cầu vồng tình yêu hút khán giả ngay từ những tập đầu tiên. Nội dung phim hấp dẫn, diễn viên trẻ trung, xinh đẹp… Những “mồi câu” ấy bao giờ cũng phát huy tác dụng.
Sau Cầu vồng tình yêu, Hồng Đăng - Hồng Diễm trở thành cặp đôi được săn đón nhất trên màn ảnh nhỏ. Đến độ, sau đó các đạo diễn lại cho họ cơ hội tiếp tục yêu nhau trong nhiều bộ phim truyền hình khác. Sự nghiệp Hồng Đăng đang thăng hoa đỉnh điểm thì bất ngờ sóng gió ập tới, anh dính ồn ào tại Tây Ban Nha.
Hồng Đăng bị cấm sóng, phim truyền hình đang chiếu có sự tham gia của anh cũng phải “chỉnh” sao cho phù hợp. Khán giả tìm kiếm Hồng Đăng nhiều hơn Hồ Hoài Anh, bởi vì Hồng Đăng là “con cưng” của phim truyền hình. Sức hút của “sao” phim truyền hình thì nhà sản xuất âm nhạc, nhạc sĩ dù nổi tiếng cỡ nào cũng không thể địch nổi.
Trên màn ảnh nhỏ, có nghệ sĩ nổi bởi những vai phụ hoặc vai phản diện nhưng Hồng Đăng thường được “nhắm” vai chính với kiểu hình tượng “soái ca” rất dễ tạo cảm mến.
Hơn nữa, trong mắt khán giả bấy lâu, Hồng Đăng khá sạch sẽ về hình ảnh, điềm đạm trong ứng xử. Ngay trong đại dịch, khi có tên trong danh sách nghệ sĩ được nhận tiền hỗ trợ khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch, nam diễn viên đã bày tỏ anh cảm thấy ngại, vì không thuộc diện thu nhập thấp, nên sẽ gửi lại Nhà hát khoản tiền này để dành cho những nghệ sĩ có hoàn cảnh khó khăn thực sự.
Về đời tư, người hâm mộ biết anh có một tổ ấm hạnh phúc. Người vợ không sắc nước hương trời nhưng luôn nhận được tình yêu, sự quan tâm của người chồng với danh hiệu “soái ca” màn ảnh nhỏ. Xét về chuyên môn, Hồng Đăng không phải “ngôi sao” gặp thời mà nổi. Anh là một nghệ sĩ có thực lực. NSƯT Đỗ Kỷ, chồng của NSND Lan Hương, đánh giá tốt về Hồng Đăng.
Trong một lần trò chuyện với phóng viên Tiền Phong, anh nói đại ý: Hồng Đăng không đóng khung trong hình tượng soái ca, nam thần. Người khác đeo kính trông ra dáng trí thức, còn Hồng Đăng mang cặp kính trông lại ngơ. NSND Đỗ Kỷ muốn nói đến vai diễn của anh, vai Đức “xoăn”, trong Thương ngày nắng về.
Chỉ tiếc, Thương ngày nắng về cũng là đoản khúc buồn trong đời nghệ sĩ của Hồng Đăng. Dù có ngày trở lại với màn ảnh nhỏ thì có lẽ Hồng Đăng cũng không bao giờ lấy lại được hình tượng “soái ca” hay “nam thần”. Chẳng ai chấp nhận người từng vướng bê bối lại hóa thân thành hình tượng vạn người mê.
“Búp bê” hết nương tựa
XóaDù làng giải trí không thiếu mỹ nhân nhưng Hiền Hồ vẫn để lại dấu ấn. Bất chấp luận bàn nguồn gốc nhan sắc của cô: Tự nhiên hay dao kéo, thì vẫn phải thừa nhận cô xinh như búp bê. Sắc đẹp không thể đánh đồng với tài năng nhưng sắc đẹp là bùa mê, là điểm cộng với phái đẹp nói chung, với người hoạt động nghệ thuật nói riêng.
Nếu ai đó chưa tin, cứ thử ngắm Hiền Hồ trong ca khúc Yêu lại từ đầu (dự án Eye Contact LIVE) hay Vũ và Hiền Hồ trong mashup Người yêu cũ - Bước qua nhau - Sài Gòn đau lòng quá . Xinh như búp bê và giọng hát lịm tim người thưởng thức. Đây là lý do ngay cả khi Hiền Hồ đang vướng ồn ào lớn, có một bộ phận khán giả vẫn sẵn sàng bỏ qua đời tư vi phạm luật hôn nhân gia đình của Hiền Hồ để được nghe và ngắm cô hát trên sân khấu và trong những dự án âm nhạc mới. Có thanh, có sắc, có cả sự thông minh trong lựa chọn ca khúc, nên Hiền Hồ dễ dàng “ẵm” nhiều MV chục triệu lượt xem.
Nhưng rồi chính nhan sắc thiên về trong sáng, ngây thơ, chính giọng ca lịm tim ấy lại “phản chủ” khi sóng gió nổi lên. Người ta xem lại MV của Hiền Hồ và bình luận: “Ngây thơ, ngọt ngào vô số tội”.
Scandal của Hiền Hồ không chỉ gây bất ngờ và phẫn nộ (vì vi phạm luật hôn nhân gia đình) mà còn gây cười. Đáng ra, “đối tác” của Hiền Hồ biết sai thì im lặng, đằng này lại lên tiếng thanh minh: ''Anh em họ nương tựa''. Thế là scandal bùng lên dữ dội, lôi kéo sự quan tâm dữ dội. Nên nhớ, trong nhịp sống hối hả và cạnh tranh hôm nay, nhu cầu được giải trí, thư giãn rất cao. Cụm từ “Anh em nương tựa” lập tức thành phổ biến. Người ta nhắc đến nó để được cười mà không cần xem hài kịch.
Hong Dang, Hien Ho hay su sup do cua soai ca va bup be-Hinh-2
Hong Dang, Hien Ho hay su sup do cua soai ca va bup be-Hinh-3
"Rồi người thương cũng hóa người dưng", câu hát của Hiền Hồ có lẽ đã ứng vào đời thực.
Cũng được gọi là “búp bê” cũng vướng ồn ào đời tư, liên quan đến “đối tác” còn ràng buộc (về mặt pháp lý) với người đàn bà khác, song Phương Oanh may hơn Hiền Hồ nhiều.
Người đàn ông của Quỳnh Búp bê không thanh minh chúng tôi chỉ là anh em nương tựa, mà anh bảo vệ Phương Oanh cùng lựa chọn của mình, mọi thứ lắng dần.
Sau ồn ào, anh ấy chìm vào im lặng, còn Hiền Hồ “nhảy” lên vị trí thứ 2 trong danh sách những nhân vật được tìm kiếm nhiều nhất năm 2022. Đáng ra phải nói bị tìm kiếm nhiều nhất vì những Hồng Đăng, Hiền Hồ, Hồ Hoài Anh, Hữu Tín… là những nhân vật tai tiếng trong năm.
Theo Đào Nguyên - Diệu Bảo/ Tiền Phong
bạn lạc đề rồi
XóaNÊN BIẾT SỢ ĐI, MẤY ÔNG VIỆT GIAN LẬT SỬ! BIỆT ĐỘNG SÀI GÒN ĐÃ XUNG TRẬN THÌ ĐỐ ANH VIỆT GIAN NÀO CHẠY THOÁT
Trả lờiXóaMời xem bài
NỮ ĐẠI TÁ BIỆT ĐỘNG SÀI GÒN, ANH HÙNG LLVT PHAN THỊ NGỌC TƯƠI LÊN TIẾNG VỀ BỘ SỬ 15 TẬP
https://googletienlang2014.blogspot.com/2017/09/nu-ai-ta-biet-ong-sai-gon-anh-hung-llvt.html
TAM QUỐC DIỄN NGHĨA THỜI HIỆN ĐẠI
Lời Bác vẫn còn đây!
Tào Tháo, chuyện vui mãi luận bàn
Cậy quyền, núp bóng rất tham tàn
Muôn đời “bị chết” tên là “Ngụy”
Sửa đổi làm sao được tiếng “gian”
Dân Việt không quên phường bán nước
Làm tôi, làm tớ kẻ xâm lăng
Cầu vinh mặc tiếng đời nhơ nhuốc
Bán rẻ lương tri, đổi bạc vàng
Mới đây, thời Mỹ ta đều nghĩ
Hại nước, phản dân có ngụy quyền
Bắn giết đồng bào và chiến sĩ
Ngụy quân, tội ác phải đầu tiên
Tay sai cho ngoại bang phản quốc thì muôn đời là Ngụy
Coi chừng khoa học ẩn mưu sâu
“Lệch sử” lừa dân, một vố đau
Ngụy bỗng thay tên không phải ngụy
Giở trò ngụy biện được hay sao?
“Sử gia, sư giả” lộn tùng phèo!
Tuyên giáo, cố tuyên chuyện tiếp theo
Xử lý hậu kỳ không phải dễ
Phen nầy xem thử “chuột vờn mèo”
Ô hay! “tự diễn biến” đây rồi
Chờ đến một ngày “chuyển hóa” thôi?
Mưu “cách mạng màu”thời tập dượt?
Gặp ngay dư luận nện tơi bời.
quá nguy hiểm khi để những kẻ lật sử biên soan sách lịch sử
Trả lờiXóa