.jpg)


Lời dẫn:
Các binh sĩ nguỵ thoát
chết trong trận Đường số 7 Cheo Reo – Phú Bổn cách
đây 50 năm, bây giờ hẳn cũng như tôi, đều 70 – 80
tuổi rồi, thậm chí nhiều người đã về với tiên tổ.
Chúng ta đều đã già rồi, lên ông lên bà, lên cụ lên
kị rồi. Cả nửa thế kỷ đã trôi qua, nửa thế kỷ đã
nghiền ngẫm suy nghĩ, hẳn là các cụ ở phe bên ấy hẳn
cũng không còn hằn học với chúng tôi- những Cựu chiến
binh ở phe bên này? Chắc các cụ không còn đổ lỗi cho
chúng tôi đã “xâm lược” miền Nam? Bởi chúng tôi chỉ
“Đánh cho Mỹ cút; Đánh cho nguỵ nhào” theo lời kêu
gọi của Bác Hồ kính yêu. Chúng tôi ở phe chính nghĩa;
còn các cụ thì ở phe phi nghĩa, “cõng rắn cắn gà
nhà”, “rước voi giày mả tổ”, có đúng vậy không?
Xin xem thêm bài THỦ TƯỚNG VNCH PHAN HUY QUÁT ĐÃ RA “THÔNG CÁO” MỜI QUÂN ĐỘI MỸ VÀO MIỀN NAM NHƯ THẾ NÀO?
Hôm nay, viết bài này và nhờ các bạn trẻ chủ trang Google.tienlang đăng, tôi không hề còn chút cay cú, thù hằn gì với các cụ ở
phe bên kia. Tôi chỉ muốn cùng các cụ ôn lại những sự
kiện năm xưa để nhắc nhở con cháu chúng ta mãi mãi sau
này đừng làm những việc như Phan Huy Quát, như Ngô Đình
Diệm, như Nguyễn Văn Thiệu hay như tên Zelensky bây giờ
ở Ukraina.
Mở đầu cuộc tâm sự hôm nay, chúng ta
hãy ôn lại những hình ảnh lính Mỹ (do chính lính Mỹ
chụp) ngày ấy trên đất nước ta. Các cụ phía bên kia xin hãy nói thật lòng: Các cụ nghĩ sao khi người Mỹ đến Việt Nam lại cho mình cái quyền đuổi người Việt ra khỏi buôn làng của họ rồi chiếm nhà cửa của họ làm trụ sở?
Vào thời chiến tranh Việt
Nam, khu vực quanh sân bay Cheo Reo là nơi định cư của
hàng trăm hộ gia đình người Thượng. Cùng xem một số
hình ảnh về sân bay này năm 1970 do các binh sĩ Mỹ thực
hiện.
H1. Nằm ở thị xã Ayun
Pa, tỉnh Gia Lai ngày nay, sân bay Cheo Reo từng là một căn
cứ không quân quan trọng của Mỹ ở khu vực Tây Nguyên
thời chiến tranh Việt Nam. Trong ảnh, một chiếc máy bay
C-123 đỗ trên đường băng sân bay năm 1970. Ảnh:
203rdhawkeyes.net
H2. Khu nhà hành chính ở
sân bay Cheo Reo năm 1970. Thời điểm này, sân bay thuộc
địa phận tỉnh Phú Bổn. Từ năm 1976, tỉnh Phú Bổn
được nhập vào tỉnh Đắk Lắk, sau đó phần lớn diện
tích lại được nhập sang tỉnh Gia Lai-Kon Tum. Ảnh:
203rdhawkeyes.net.
H3. Một nhóm cư dân người
Thượng đi qua sân bay Cheo Reo khi được di dời khỏi vùng
oanh kích tự do. Đây là khu vực được bảo vệ đặc
biệt quanh sân bay, nơi quân đội Mỹ có thể khai hỏa
vào bất cứ đối tượng khả nghi nào mà không cần sự
cho phép từ sở chỉ huy. Ảnh: 203rdhawkeyes.net.
H4. Những người Thượng
ở sân bay Cheo Reo. Khu vực quanh sân bay là nơi định cư
của hàng trăm hộ gia đình người Thượng. Ảnh:
203rdhawkeyes.net.
H5. Một bản làng của
người Thượng trong phạm vi sân bay. Sau khi dân cư được
di dời, ngôi nhà sàn trong ảnh được quân đội Mỹ sử
dụng làm trụ sở. Ảnh: 203rdhawkeyes.net.
H6. Nhân công người Việt
làm việc cho quân đội Mỹ thưởng thức rượu cần
trong một nhà sàn gần sân bay Cheo Reo, 1970. Ảnh:
203rdhawkeyes.net.
Ghi chú: Hình ảnh và chú thích chép từ Kiến thức:
https://kienthuc.net.vn/kho-tri-thuc/canh-tuong-la-o-san-bay-cheo-reo-thoi-ct-viet-nam-1130743.html#p-1
Tiếp theo, tương tự như
bài trên Google.tienlang với tiêu đề Đại tá Ngụy Nguyễn Trọng Luật: NHÌN LẠI TRẬN ÐÁNH BUÔN MÊ THUỘT ..., bây giờ chúng ta
cùng đọc lại cảm nhận về trận Đường số 7 Cheo Reo
– Phú Bổn của các vị sĩ quan nguỵ...
Bài 1. Cuộc
Di Tản Đầy Máu Và Nước Mắt
Trịnh Tiếu
(nguyên Đại Tá, Trưởng
Phòng 2/ QĐII&QK2)
Không phải mãi hai ngày
sau người Mỹ mới biết lý do đằng sau vụ di tản rút
quân bỏ miền Trung. Vào buổi tối ngày 17.3.1975, tại bữa
cơm đãi một số viên chức cao cấp Mỹ và Việt Nam tại
nhà ông Thomas Polgar, Trưởng CIA, ở Sài Gòn, Tướng Ðặng
Văn Quang Cố Vấn An Ninh của Tổng Thống Thiệu, đã lật
trang sử khi giải thích quyết định của ông Thiệu. Rất
giống người Nga tiêu diệt đội quân của Nã Phá Luân
vào năm 1812 bằng cách bỏ đất để câu giờ hầu chấn
chỉnh tổ chức quật ngược thế cờ, Tướng Quang cho
rằng quyết định của ông Thiệu đi theo chiến lược đó
sẽ đánh bại quân Bắc Việt. Tướng Quang nói ‘’Có
thể mùa mưa sẽ giúp chúng tôi như thể Ðại Tướng mùa
Đông đã giúp người Nga’’.
Tại Cao Nguyên Trung Phần,
dân chúng không chờ giải thích. Họ thấy rõ quá rồi
nên tự lo lấy. Khi quân Bắc Việt pháo kích Kontum, con
đường dẫn xuống Pleiku tràn ngập dân di tản chạy trốn
pháo kích. Trong khi các đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa bắt đầu rời các vị trí ở Pleiku và các phi cơ
vận tải bay lên bay xuống phi trường suốt ngày đêm,
người dân biết ngay đến lúc chạy theo Quân Ðội.
Vào đêm Chủ Nhật, một
đoàn xe vận tải dài thoòng âm thầm rời khỏi Pleiku
từng cái một đèn sáng choang. Phóng viên Nguyễn Tư nghĩ
nó “giống như
một đoàn xe đi chơi cuối tuần trở về nhà’’.
Phía sau, những tiếng nổ lớn phát ra từ các kho đạn
bị phá và bầu trời đen nghịt khói từ các bồn xăng
đốt cháy.
Trong khi đoàn xe tiến về
hướng Nam tung lên những đám bụi đỏ mờ mịt, từng
đoàn người dân đi bộ dài như rắn bò hai bên Ðường
Quốc Lộ song song với đoàn quân xa. Một vị Nữ Tu Công
Giáo nhớ lại ‘’trẻ
thơ và trẻ em được chất lên xe bò và người kéo đi.
Mọi người đều hoảng hốt. Người ta cố thuê mướn
xe bằng mọi giá’’.
Trong ba ngày 16, 17, 18, tháng ba năm
1975, cuộc di tản
di chuyển êm thắm khỏi Pleiku và giữa các đoàn quân xa
là hàng trăm dân sự đi theo cuộc di tản. Và cũng từ đó
bắt đầu một đoàn công voa di tản đầy máu và nước
mắt.
Ði được nửa đường
tiến ra Duyên Hải, đoàn xe bị khựng lại để cho Công
Binh Quân Ðoàn II cố làm xong chiếc cầu nổi ngang qua
sông Ea Pa cách đèo Cheo Reo (Phú bổn) vài cây số. Tướng
Phạm Văn Phú tiên liệu hai ngày sẽ sửa xong con Ðường
số 7 nhưng mãi ba ngày vẫn chưa sửa xong cây cầu. Ðến
chiều tối ngày 18.3, xe cộ và lính tráng đã đi được
ba ngày và một đám dân tỵ nạn khổng lồ bị khựng
lại dọc theo con đường và dồn cục tạm nghỉ ở chung
quanh châu thành Tỉnh Phú Bổn. Cái châu thành nhỏ bé
cheo leo này làm sao cung cấp đủ nhu cầu cho đoàn di tản
này, nhiều người bỏ nhà ra đi chỉ có bộ đồ trên
người.
Vì hoảng sợ, địch đe
dọa phía sau, đói khát và có những băng lính không còn
Cấp Chỉ Huy nữa sanh đạo tặc, đoàn người đòi cứ
tiến đi không cần biết hậu quả ra sao. Trước tình thế
hỗn quân hỗn quan này, các giới chức lãnh đạo không
thể nào thuyết phục dân chúng và điều động xe cộ vũ
khí thành một phòng tuyến phòng thủ. Và y như xảy ra
khi quân Ðức bao vây khóa chặt Paris năm 1940, dân châu
thành cũng chạy trốn, làm tắc nghẽn mọi con đường,
Quân Ðội không thể nào di chuyển để bảo vệ họ
trước kẻ địch. Tình hình đe dọa hỗn loạn. Cần phải
có những bàn tay tổ chức. Nhưng Tướng Phạm Duy Tất
vẫn còn ở Pleiku với đoàn hậu vệ Biệt Ðộng Quân,
trong khi Ðại Tá Lý bị kẹt ở giữa đoàn xe, đã phải
bỏ xe đi bộ đến Bộ Chỉ Huy ở Cheo Reo.
Khi Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa bắt đầu di chuyển xuống Quốc Lộ số 7,
Tướng cộng sản Văn Tiến Dũng cũng đã bị đánh lừa
theo kế hoạch của Tướng Phú. Trước khi khởi sự chiến
dịch 275, Dũng đã chỉ vẽ nhiều lần cho tư lệnh Sư
đoàn 320 về những con đường Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa không thể nào dùng nó như là lối thoát sau cùng. Tuy
nhiên, sau khi nghe tin Tây Phương nói dân chúng đang bỏ
Pleiku, các chuyến bay từ Pleiku về Nha Trang tấp nập và
Hà Nội đánh tín hiệu ngày 16.3 báo cho biết Bộ Tư Lệnh
Quân Ðoàn II đã di tản về Nha Trang, Dũng mới bắt đầu
nghĩ lại xem có con đường nào khác cho địch quân rút
được không.
Ðến 4 giờ chiều cùng
ngày, công điện của Hà Nội đến báo, tình báo Bắc
Việt báo một đoàn xe dài từ Pleiku tiến về phía Nam
xuống Ban Mê Thuột. Tin này làm cho Tướng cộng sản bối
rối. Phải chăng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phản công
hay là chạy trốn? Tình báo của Dũng cho ông ta câu trả
lời ngay sau đó, đúng như tình hình diễn biến ở trên.
Ðến lúc này bộ chỉ huy cộng sản mới dở bản đồ
ra, chiếu đèn pin và dùng kiếng phóng đại dò tìm địch
quân. Kiểm điểm lại, Tướng Dũng và Tướng Kim Tuấn,
tư lệnh Sư đoàn 320, mới biết bị Tướng Phú lừa ngay
trước mắt, Tướng Dũng khiển trách Tướng Kim Tuấn,
đồng thời phối trí các đơn vị di chuyển về tụ điểm
Tỉnh Lộ 7 để tiêu diệt đoàn công voa di tản về Tuy
Hòa.
Ðoàn xe Quân Dân miền
Nam cầu mong sao cho thời gian chậm lại để đi kịp về
miền biển không bị cộng sản tấn công. Nhưng không kịp
nữa, khi màn đêm buông xuống ngày 18.3 lúc đoàn xe kẹt
ở Cheo Reo, quân cộng sản bắt đầu pháo kích vào đám
đông dân di tản. Họ hết còn bí mật nữa và kẻ thù ở
trong tầm tay. Ðêm ngày 18.3, những đơn vị tiền phong
của Sư đoàn 302 đụng độ với đoàn xe Quân Ðoàn II ở
Cheo Reo. Cùng lúc các đơn vị khác đụng độ với đoàn
quân hậu bị Liên Ðoàn 6 Biệt Ðộng Quân ở Thị Trấn
Thành An ngã tư Quốc Lộ 14 và Quốc Lộ 7. Ðại Tá Lý
đi bộ mãi rồi cũng tới Bộ Chỉ Huy Cheo Reo kịp lúc để
giúp điều động Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân vào vị
trí phòng thủ chống các cuộc xung phong của quân Bắc
Việt ở lối vào Thị Trấn phía Tây. Ðồng thời, pháo
binh Bắc Việt rót vào. Ðoàn xe cái đầu ở Cheo Reo nhưng
cái đuôi vẫn còn ở Pleiku. Việt cộng tha hồ pháo kích.
Sáng hôm sau, xác chết và xác bị thương lính tráng và
dân nằm la liệt trên đường phố Cheo Reo (Phú Bổn) cùng
với hàng trăm xe cộ bị phá hủy hoặc bỏ rơi. Một phi
công trực thăng Không Quân Việt Nam báo cáo ‘’Khi tôi
bay thấp, tôi có thể nhìn thấy hàng trăm xác chết nằm
rải rác dọc theo con đường cạnh các xe còn cháy’’.
Mặc dù lực lượng cộng
sản đã chiếm được phi trường Phú Bổn, Tiểu Ðoàn
23 Biệt Ðộng Quân vẫn còn giữ được lối vào châu
thành và cây cầu phía Nam sửa xong. Ðây là một cú cải
tử hoàn sinh, Ðại Tá Lý và các Cấp Chỉ Huy của ông
có cơ hội ra lệnh cho đoàn xe lên đường trở lại với
2.000 xe nổ máy ầm ầm lăn bánh. Nhưng đoàn xe di chuyển
không bao lâu, Tướng Phú cho trực thăng đến đón Ðại
Tá Lý ra khỏi Cheo Reo. Thế là đầu không còn ai chỉ
huy, chỉ có Tướng Tất Chỉ Huy ở phía sau. Từ ngày 19
trở đi, chỉ huy đầu đoàn công voa là những đơn vị
trưởng cấp Tiểu Ðoàn, Ðại Ðội mạnh ai lấy ra lệnh.
Bất kể hỏa lực của
cộng sản, trực thăng của Không Quân Việt Nam bắt đầu
đáp xuống bốc những người lính và dân bị thương dọc
theo con đường. Khi những người di tản được trực
thăng chở đến Phi Trường Tuy Hòa, họ kể những chuyện
khủng khiếp xảy ra cho họ. Ngày 19.3, đầu đoàn xe đã
đến Sông Côn chỉ còn cách Tuy Hòa 40 km. Nhưng ở đoạn
đuôi nửa đường giữa Cheo Reo và Sông Côn, quân Bắc
Việt lại đánh ngang hông đoàn xe, lần này ở khoảng
Thị Trấn Phú Túc. Không Quân Việt Nam được gọi đến
oanh kích chặn tiến quân của địch nhưng đã nhầm lẫn
bỏ bom xuống Liên Ðoàn 7 Biệt Ðộng Quân (Làm tổn thất
gần 1 Tiểu Ðoàn). Nhưng Liên Ðoàn này vẫn tiếp tục
chiến đấu giữ cho con đường mở.
Ðoàn xe chạy qua Cheo Reo
cho đến ngày 21.3 thì quân Bắc Việt chọc thủng các vị
trí cố thủ của Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân, vượt
qua chiếm châu thành và cắt đứt con đường. Trong số
khoảng 160.000 người của đoàn xe di tản, nhiều người
dân bị cô lập với lính của ba tiểu đoàn Biệt Ðộng
Quân. Theo lệnh Tướng Phú, Tướng Tất, vẫn còn ở phía
sau đoàn xe, phải bỏ mọi vũ khí và quân trang nặng để
chạy khỏi Phú Bổn càng nhanh càng tốt. Hàng ngàn người
chạy vào rừng. Lính tráng với vợ con bên cạnh bị rượt
bắt và tấn công nhiều lần. Một số ít giơ cờ lên
được trực thăng đáp xuống bốc. Nhưng đa số cầm
chắc bị đói và bị bắt.
Những người may mắn,
các bà mẹ trẻ dính máu, các cụ già và phụ nữ người
mặc áo dính bùn, và những người lính gào khóc, chân
không, bước xuống trực thăng trước khi các phóng viên
bủa ra hỏi thăm tin tức tại phi đạo Tuy Hòa. Các trực
thăng bắt đầu chở thực phẩm và nước cho đoàn xe vẫn
còn dài thoòng di chuyển như con rắn vì đã có nhiều
người đói.
Trong khi ở đuôi đoàn xe
bị tấn công dữ dội và Tướng Tất cùng các Ðơn Vị
còn lại cố chống trả bọc hậu, các đơn vị đầu
đoàn xe đã tiến vào ranh giới Tuy Hòa, trên con Sông Ba,
cách Thị Trấn 20 cây số. Chiếc cầu nổi mà Tướng Cao
Văn Viên hứa cũng đến kịp lúc, nhưng không kịp với
lực lượng cộng sản đã đắp mô các ngã đường nằm
giữa Sông và Tuy Hòa. Chiếc cầu không thể nào chở xe
nổi đến chỗ Bắc nên phải mượn 4 phi cơ C-47 của
Quân Ðoàn IV chở từng khúc đến.
Ngày 22.3, đúng một tuần
sau khi đoàn xe di tản đầy máu và nước mắt rời
Pleiku, chiếc cầu được bắc xong, đầu đoàn xe vội vã
vượt qua con sông quá nặng làm chiếc cầu phao lật,
người trong xe cộ phải lội sông. Nhưng đến cuối ngày,
đoàn xe vẫn tiếp tục vượt qua khi chiếc cầu được
sửa lật lại. Ngay cả đến thời tiết cũng tiếp tay
cho cộng sản để làm cho đoạn cuối đoàn xe đến Tuy
Hòa chưa hết nạn.
Trời nắng đột nhiên
trở thành mưa gió lạnh lẽo cho người di tản. Không
những thời tiết thay đổi xấu gây ra bệnh tật mà nó
còn làm cho phi cơ quân sự không bay lên yểm trợ, chống
trả những cuộc tấn công dưới đất của việt cộng.
Từ ngày 22.3, Liên Ðoàn 6 Biệt Ðộng Quân bị kẹt đánh
trong một trận đánh bọc hậu vừa đánh vừa lui trước
nỗ lực rượt theo rất rát của quân cộng sản. Liên
Ðoàn Biệt Ðộng Quân đã thu góp xe tăng và pháo binh để
bảo vệ con đường ở khúc quẹo thung lũng gần cầu
nổi. Họ đánh câu giờ để cho người di tản và lính
kịp vượt qua sông.
Ðồng thời, những đơn
vị đi đầu đã vượt qua Sông Ba rồi phải phá mô việt
cộng để tiến vào Tuy Hòa. Liên Ðoàn 7 Biệt Ðộng Quân
chỉ còn ít quân sống sót đã gom góp được hơn chục
thiết giáp M-113 vừa đánh vừa ủi các mô tiêu diệt các
vị trí cộng sản. Ðến ngày 25.3, vị trí cuối cùng của
quân Bắc Việt bị tiêu diệt nốt, Biệt Ðộng Quân bắt
tay được với Lực Lượng Ðịa Phương Quân ở phía
Ðông Tuy Hòa.
Ðoàn xe khập khễnh tiến
vào Tuy Hòa như một đoàn xe ma. Xấp xỉ 60.000 người dân
đến đích, hai phần ba hay hơn 100.000 người bị bỏ lại
dọc đường, chết sống không ai biết. Về phía Quân
Ðội, 20.000 quân tiếp vận và yểm trợ, chỉ còn 5.000
người đến nơi. Sáu tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân 7.000
người, chỉ còn 900 đến Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của
Quân Ðoàn II ở Nha Trang và đóng chốt bảo vệ Thành
Phố. Một vị Tướng ở Bộ Tham Mưu đã buồn bã nói:
“70% lực
lượng tác chiến của Quân Ðoàn II gồm Sư Ðoàn 23 Bộ
Binh, Biệt Ðộng Quân, Pháo Binh, Thiết Giáp, Công Binh
Chiến Ðấu và các Ðơn Vị Truyền Tin đã bị tan rã từ
ngày 10 đến 25.3’’.
Vì thế chuyện phản công tái chiếm Ban Mê Thuột không
thể giao phó cho Quân Ðoàn II.
Canh bạc Tướng Phú chọn
Quốc Lộ 7 có thể đã an toàn nếu các cầu nổi được
bắc kịp thời và Tướng Viên đổ lỗi cho vị Tư Lệnh
Quân Ðoàn II. Tướng Viên tin rằng Tướng Phú phải hoãn
cuộc di tản ít ngày để cho các Kỹ Sư Công Binh kịp
bắc cầu. Tướng Viên cũng tin rằng hoãn lại cho phép
điều động sắp xếp kỹ hơn nhất là kiểm soát dân
chúng. Theo một vị Tướng Mỹ thông thạo các sĩ quan cao
cấp Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, lỗi lầm không những
ở kế hoạch di
tản của Tướng Phú mà ở ngay chính Tướng Phú và lỗi
lầm đầu tiên và quan trọng nhất là để mất Ban Mê
Thuột. Một vị Tư Lệnh Quân Ðoàn cương quyết hơn
không cần phải rút quân như vậy. Một Sĩ Quan Tùy Viên
Mỹ tuyên bố:
“Một vị Tư
Lệnh mạnh như Tướng Toàn (Trước đó là Tư Lệnh Quân
Ðoàn II) có thể phản công tái chiếm Ban Mê Thuột, sử
dụng toàn bộ Hải, Lục, Không Quân có trong tay đã có
thể kềm hãm quân Bắc Việt, cố thủ thêm một năm
nữa’’.
Nhưng ngày 25.3.1975,không
còn cơ hội đó. Cuộc di tản tự làm cho mình thất bại
đau đớn, như lời Tướng Viên mô tả, hoàn tất, gây
một cơn ác mộng tâm lý và chính trị to lớn cho ông
Thiệu, cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và cho dân chúng
Việt Nam Cộng Hòa. Một dư luận đồn thổi khắp nước
và cả ở những viên chức dân sự và quân sự cao cấp
nói rằng: Tổng Thống Thiệu và người Mỹ, trong một
thỏa hiệp mật của Hiệp Định Paris, đã cố kết với
nhau cho cộng sản chiếm một phần lớn lãnh thổ Nam Việt
Nam. Tại sao Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu
can trường suốt hai mươi năm không thua đột nhiên bị
ra lệnh rút khỏi Cao Nguyên, bỏ Pleiku và Kontum không một
tiếng súng giao tranh?
Tinh thần đổ vỡ vì mất
bốn Tỉnh trong ba tháng và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
đã hy sinh nặng và vô ích không tái chiếm nổi Ban Mê
Thuột đã làm cho dân chúng Nam Việt Nam hết còn tin tưởng
Tổng Thống Thiệu có thể bảo vệ họ. Vậy ai khác có
thể làm được? Phe đối lập ông Thiệu vô tổ chức,
đứng ngoài chờ thời cơ và người Mỹ tiếp tục làm
ngơ. Chỉ có ông Thiệu là người phải tìm ra cách nào
để lấy lại tinh thần cho Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng
trước khi ông tìm ra hướng đi hợp tình thế thì tin xấu
từ Quân Ðoàn I bay về. Cũng lại di tản và cuộc di tản
Quân Ðoàn I bi thảm không kém để kết thúc ngày
30.4.1975.
Trịnh Tiếu
(nguyên Đại Tá, Trưởng
Phòng 2/QĐII&QK2)
https://phamtinanninh.com/?p=5234
Bài 2. Cuộc
Rút Quân Trên Đường Số 7 – Ngày 17 Tháng 3 Năm 1975 (và
những hệ lụy sau đó)
Phạm Bá Hoa
Ngày 14/3/1975, một buổi
họp quan trọng tại Cam Ranh dưới quyền chủ tọa của
Tổng Thống, nhưng người bạn tôi ở Phủ Thủ Tướng
không rõ nội dung mà chỉ áng chừng là vạch kế hoạch
phản công chiếm lại Ban Mê Thuột.
Sau khi tỉnh Phước Long
vào tay quân cộng sản ngày 7/1/1975, thủ phủ Ban Mê Thuột
và tỉnh Darlac thất thủ ngày 11/3/1975, tình hình chiến
sự Quân Đoàn II/Quân Khu II trở nên sôi động. Xin nhớ
là Thỏa Hiệp Ngưng Bắn đã ký tại Paris ngày 27/1/1975
và hạ tuần tháng 3/1975 là có hiệu lực. Do vậy mà bầu
không khí chính trị cũng sôi động không kém tình hình
quân sự.
Lúc bấy giờ các vị
lãnh đạo quốc gia và lãnh đạo quân đội liên quan đến
những phản ứng sau đó, là:
- Tổng Thống: Nguyễn Văn
Thiệu (Trung Tướng).
- Thủ Tướng: Trần Thiện
Khiêm (Đại Tướng).
- Tổng Tham Mưu Trưởng:
Đại Tướng Cao Văn Viên.
- Tham Mưu Trưởng Bộ
Tổng Tham Mưu, kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp
Vận: Trung Tướng Đồng Văn Khuyên. Ông được phép đưa
thân phụ sang Tokyo chữa bệnh ung thư, nên không có mặt
từ lúc đầu cuộc rút quân. Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng
Cục Phó, xử lý thường vụ chức vụ Tổng Cục Trưởng.
- Tư Lệnh Quân Đoàn
II/Quân Khu II: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú.
- Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ
Huy 2 Tiếp Vận (Qui Nhơn): Đại Tá Bửu Khương.
- Tham Mưu Trưởng Quân
Đoàn II, Đại Tá Lê Khắc Lý.
Lúc bấy giờ tôi là Tham
Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận.
Tướng Nguyễn Văn Thiệu, tướng Phạm Văn Phú giỏi hay dở?
Vào chuyện.
Ngày 14/3/1975, một buổi
họp quan trọng tại Cam Ranh dưới quyền chủ tọa của
Tổng Thống, nhưng người bạn tôi ở Phủ Thủ Tướng
không rõ nội dung mà chỉ áng chừng là vạch kế hoạch
phản công chiếm lại Ban Mê Thuột. Rất tiếc là Trung
Tướng Đồng Văn Khuyên chưa về, nên tôi với Đại Tá
Phạm Kỳ Loan không biết gì hơn.
Ngày 15/3/1975, ngay đầu
giờ buổi làm chiều, điện thoại reo:
- Đại Tá Hoa tôi nghe -
- Có ai ngồi gần anh
không? -
- Dạ không, thưa Đại
Tướng -
Đó là Đại Tướng Cao
Văn Viên. Ông tiếp:
- Tuyệt đối là anh không
cho ai biết lệnh này ngoài những sĩ quan trách nhiệm thi
hành -
- Vâng, tôi rõ thưa Đại
Tướng -
- Tổng Cục Tiếp Vận có
bao nhiêu phi cơ vận tải C.130 khả dụng? -
- Thông thường thì sử
dụng 2 hoặc 3 chiếc, nhưng trường hợp tối cần thiết
có thể sử dụng được 8 hoặc 9 chiếc. Nhưng tôi sẽ
hỏi bên Không Quân và sẽ trình lại Đại Tướng con số
chính xác hơn, thưa Đại Tướng -
- Thôi được. Điều cần
thiết là anh phải sử dụng tối đa vì đây là nhu cầu
khẩn cấp. Anh liên lạc ngay với Quân Đoàn II, xem họ
cần bao nhiêu chiếc thì cho họ bấy nhiêu, còn sử dụng
vào công tác gì thì tùy họ. Nhiệm vụ kể từ ngày mai.
Anh rõ chưa? -
- Thưa Đại Tướng, tôi
rõ -
- Phần anh, anh chuyển các
quân dụng đắt tiền ra khỏi Pleiku và muốn đem về đâu
thì tùy anh-
- Vâng. Tôi thi hành, thưa
Đại Tướng -
Tôi thuật lại cho Đại
Tá Loan nghe, và cả Đại Tá Loan lẫn tôi, đều không suy
đoán được là chuyện gì sắp xảy ra mà chúng tôi không
được phép biết. Nếu chuẩn bị đánh nhau với quân
cộng sản thì tại sao không để quân dụng lại mà thay
thế số tổn thất? Nếu không đánh nhau,….. mà không
đánh nhau là thế nào? Thật không hiểu nỗi!
Tổ chức một quân đội,
phải có hai yếu tố chính, là “con người và quân
dụng”. Quân dụng do ngành Tiếp Vận quản trị. Những
gì trang bị cho mỗi quân nhân từ đỉnh đầu xuống đến
gót chân, từ dinh dưỡng đến điều trị khi bị thương
hay đau yếu, vấn đề mai táng và nghĩa trang, rồi doanh
trại, phương tiện di chuyển, rồi súng đạn, xe tăng
thiết giáp, đại bác hỏa tiển,…… đều là nhiệm vụ
của ngành Tiếp Vận. Ấy vậy mà Tiếp Vận lại không
được quyền biết đến kế hoạch hành quân, ít nhất
là đối với lệnh vừa rồi của Đại Tướng Tổng Tham
Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa !
Trong quân đội, chỉ có
Trung Tướng Đỗ Cao Trí và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng,
là hai vị Tư Lệnh đại đơn vị đặt Tiếp vận vào
đúng vị trí của ngành này mà thôi. Điển hình là Trung
Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn III, đầu năm
1970, khi soạn kế hoạch hành quân sang lãnh thổ Cambodia
tấn công các kho dự trữ tiếp vận của quân cộng sản
sát biên giới Việt Nam, sau khi quyết định ngày N, Trung
Tướng Trí nêu câu hỏi với Trung Tá Trương Bảy (sau này
là Chuẩn Tướng Cảnh Sát) Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy
3 Tiếp Vận:
- Theo kế hoạch hành quân
như đã trình bày, Tiếp Vận có chuẩn bị kịp không?
Nếu không, Quân Đoàn sẽ lùi ngày lại”.
Khi vị Tư Lệnh hỏi như
vậy, cho dù chuẩn bị gấp rút cách mấy cũng phải thực
hiện cho xong chớ đâu thể xin lùi ngày được. Đằng
nào cũng phải vất vã, nhưng vất vã mà được biết đến
vẫn vui lòng hơn.
Trước khi lên Pleiku nhận
chức Tư Lệnh Quân Đoàn II, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú
điện thoại tôi:
- Anh Hoa à, tôi sắp sửa
lên Quân Đoàn II, anh cho tôi mượn Trung Úy Thiêm một
tuần để nó lên đó chọn hướng đặt bàn giấy giùm
tôi nghe anh-
- Vâng. Tôi sẽ nói với
anh Thiêm và Thiếu Tướng cứ liên lạc trực tiếp với
anh ấy về những chi tiết cần thiết -
Lúc bấy giờ tôi là Cục
Trưởng Cục Mãi Dịch (đồn trú ở Sài Gòn), và trong
đơn vị tôi có Trung Úy Nguyễn Xuân Thiêm được nhiều
người cho là giỏi tướng số tử vi và chữ ký. Và sau
5 ngày công tác riêng cho Thiếu Tướng Phú ở Plei Ku trở
về, Trung úy Thiêm nói với tôi:
- Thưa Đại Tá, tôi thấy
vận số của Thiếu Tướng Phú hết rồi, nhiều lắm
cũng chỉ tính bằng tháng chớ không tính bằng năm đâu
-
- Anh có nói gì với Thiếu
Tướng Phú không?-
- Dạ không. Vì sợ ổng
mất tinh thần. Với lại có nói ra cũng không có cách gì
giải được, thà không nói vẫn hơn -
- Nghî như anh cũng phải
-
(Năm 1990, tôi được biết
Trung Úy Nguyễn Xuân Thiêm định cư tại Australia )
Tôi nhớ, có một hôm
Trung Tướng Đồng Văn Khuyên nói với tôi rằng, “Thiếu
Tướng Phú tuổi con rắn, nên Tổng Thống cử lên Quân
Đoàn II vì rắn thích hợp với núi rừng”.
Trở lại lệnh của Đại
Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Tôi gọi lên Plei Ku liên
lạc với Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn
II:
- Tôi Hoa đây anh Lý. Tôi
được lệnh cấp C.130 cho anh nhưng không được biết là
Quân Đoàn sử dụng vào công tác gì. Vậy anh có thể cho
tôi biết để tôi tiện sắp xếp phi cơ theo đúng nhu cầu
của anh không ? Vì chắc anh cũng biết là số phi cơ khả
dụng của chúng tôi giới hạn lắm -
- Anh cứ đưa lên đây
cho tôi, còn sử dụng vào công tác gì thì không thể nói
được đâu- Lời của Đại Tá Lý.
- Đành vậy. Nhưng anh cần
bao nhiêu chiếc? Cần vào lúc nào? Và chuyển vận từ đâu
tới đâu?
- Anh có bao nhiêu chiếc
thì đưa lên tôi bấy nhiêu, và kể từ sáng mai
(16/3/1975). Không trình có thể là từ Plei Ku đến Nha
Trang hoặc Sàigòn -
- Vậy thì như thế này.
Sáng mai tôi cho lên anh 2 chiếc, trong khi 2 chiếc kế tiếp
túc trực tại phi trường Tân Sơn Nhất và anh cần là
cất cánh ngay, vì một lúc anh đâu sử dụng được 4
chiếc. Được không? -
- Được. 8 giờ sáng mai
anh cho có mặt tại phi trường Cù Hanh nghe -
- Xong. Mình thỏa thuận
như vậy nhé -
Tôi trình Đại Tá Loan là
vẫn không biết được gì thêm ở Quân Đoàn II. Đại Tá
Loan hỏi Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng
3/Bộ Tổng Tham Mưu, Chuẩn Tướng Thọ cũng không tiết
lộ điều gì. Bên Không Quân xác nhận là có thể sử
dụng tối đa 9 chiếc C.130, nhưng sau khi sử dụng như vậy
thì các nhu cầu tiếp theo không thể thực hiện được
ít nhất là một tuần vì phải tu bổ lại. Bộ Chỉ Huy
Không Chiến, cơ quan điều động phi cơ, đồng ý về
thỏa thuận giữa tôi với Đại Tá Lý, nghĩa là 2 chiếc
C130 cất cánh lên Pleiku thì 2 chiếc kế tiếp túc trực
tại căn cứ Tân Sơn Nhất.
Sáng ngày 16/3/1975, Bộ
Chỉ Huy Không Chiến điện thoại tôi:
- Trình Đại Tá, trưởng
phi cơ C.130 đang trên không phận phi trường Cù Hanh (Plei
Ku), cho biết là không thể nào đáp xuống phi trường
được, vì người ta đông không thể tưởng tượng nỗi.
Chẳng biết là chuyện gì xảy ra vì không liên lạc được
dưới đất. Và hai chiếc C.130 đang chờ lệnh Đại Tá
đó -
- Anh chuyển đến Trưởng
phi cơ, hãy chờ tôi vài phút để tôi liên lạc với Quân
Đoàn xem tình hình ra sao đã -
Gọi Quân Đoàn II và tôi
nói chuyện với Đại Tá Lý:
- Phi cơ tôi đang trên
không phận của anh đó, nhưng không thể đáp được. Nếu
anh muốn họ đáp xuống thì anh phải giải toả sân bay
giùm đi vì nếu chậm quá thì họ sẽ về lại Sài Gòn
đó. Mà chuyện gì xảy ra vậy Anh? -
- Tại vì người ta tranh
nhau chờ lên phi cơ mới có chuyện tràn ngập đường
băng như vậy. Để tôi cho Quân Cảnh giải toả, anh bảo
phi cơ đáp xuống cho tôi đi -
- Thì phi hành đoàn đang
chờ đường băng trống là đáp xuống, trừ khi anh không
giải toả nỗi. Anh nhớ ưu tiên cho Trung Tá Thời, Liên
Đoàn Trưởng Yểm Trợ Tiếp Vận của tôi ở Plei Ku, chở
một số kiện hàng quan trọng xuống Qui Nhơn hoặc Nha
Trang à nghe -
Tôi lại nhờ Bộ Chỉ
Huy Không Chiến chuyển đến phi hành đoàn C.130. Và sau
đó, phi cơ đáp xuống được tuy rất khó khăn vì đông
nghẹt người là người hai bên đường băng. Để rồi
một hình ảnh hỗn loạn chưa từng thấy -theo lời thuật
của Trưởng phi cơ- là cả một rừng người chen lấn xô
đẩy, thậm chí đạp lên nhau để tranh lên phi cơ, và
hết sức khó khăn đến độ nguy hiểm, phi hành đoàn mới
cho phi cơ cất cánh được.
Hóa ra là Bộ Tư Lệnh
Quân Đoàn chuyển xuống Nha Trang. Tôi trình ngay cho Đại
Tá Loan vì ước tính là sắp đánh nhau với quân cộng
sản rồi. Ước tính này không phải là vô căn cứ, bởi
vì cộng sản đã chiếm thủ phủ Cao Nguyên, bây giờ
chúng tấn công vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II cũng là
điều có thể xảy ra lắm chớ. Nhưng chúng tôi nhầm …
Vì sáng ngày 17/3/1975,
trong lúc 2 chiếc C.130 trên không phận Plei Ku thì điện
thoại nhà tôi reo, hôm nay là chủ nhật nên tôi đi làm
muộn:
- Đại Tá Hoa tôi nghe -
- Bộ Chỉ Huy Không Chiến
đây Đại Tá. Trưởng phi cơ cho biết là toàn thị xã
Plei Ku hôm nay không có một bóng sinh vật nào cả, và bây
giờ phi hành đoàn xin phép về lại căn cứ -
- Anh hỏi lại phi hành
đoàn giùm tôi, nếu sự thực hoàn toàn đúng như vậy
thì tôi đồng ý phi cơ quay về. Xin nhớ, đây là trách
nhiệm rất quan trọng nghe anh -
Tôi điện thoại qua nhà
Đại Tá Phạm Kỳ Loan, và ngay sau đó Đại Tá Loan liên
lạc Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ (Trưởng Phòng 3/Bộ
Tổng Tham Mưu) nhưng Chuẩn Tướng Thọ vẫn không nhỏ
được một giọt thông tin nào về tình hình đó cả. Tôi
và Đại Tá Loan tức lắm, nhưng chúng tôi không có cách
nào khác vì Trung Tướng Khuyên đi Tokyo chưa về. Có vẻ
như chúng tôi bị coi như là những sî quan không đáng tin
cậy thì phải, ít nhất cũng là không được tin cậy
trong cuộc hành quân này, dù rằng Đại Tá Loan đang là
cấp chỉ huy cao nhất của ngành Tiếp Vận với gần
100.000 quân nhân công chức chuyên ngành và quản trị một
khối lượng dụng cụ chiến tranh trên dưới 7 tỉ mỹ
kim!
Tất cả các hệ thống
liên lạc truyền tin bằng vô tuyến lẫn hữu tuyến của
quân đội, cũng như hệ thống liên lạc bên hành chánh,
đều không liên lạc được với bất cứ cơ quan đơn vị
nào ở Plei Ku cả. Đại Tá Bửu Khương (ở Qui nhơn) cũng
không có tin tức gì khá hơn trong khi đoàn quân xa hơn 100
chiếc của Liên Đoàn 2 Vận Tải vẫn còn kẹt trên Plei
Ku vì quốc lộ 19 nối liền Qui Nhơn – Plei Ku bị quân
cộng sản chiếm giữ nhiều chặng. Một tình hình không
thể hiểu nỗi ít nhất là đối với ngành Tiếp Vận
chúng tôi. Không biết tại sao lúc ấy chúng tôi không
nghĩ đến giả thuyết nào khác, chẳng hạn như Quân Đoàn
II vờ rút quân ra ngoài để thành phố bỏ ngỏ cho q6an
cộng sản tiến vào, và bất thình lình quật lại tấn
công chúng ngay trong thành phố. Còn về giả thuyết rút
bỏ Cao Nguyên thì nhất thiết không thể có trong tư tưởng
của bất cứ sĩ quan nào chớ chẳng riêng gì chúng tôi.
Cho dù một giả thuyết như vậy thôi cũng không có trong
hàng sĩ quan cấp dưới, nhưng nó lại là một kế hoạch
thật sự của hàng sĩ quan cấp Tướng lãnh đạo đất
nước 20.000.000 dân, trong đó có một quân đội hơn
1.000.000 người!
Cả hai chúng tôi -Đại
Tá Loan và tôi- không thông báo tình hình tệ hại đó cho
bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận biết, trong khi chúng tôi
hết sức lo lắng cho tất cả quân nhân nói chung và số
phận của anh em trong ngành Tiếp Vận ở Plei Ku và Kon Tum
nói riêng, vì chúng tôi không có bất cứ một thông tin
nào về tình hình đó, kể cả nguồn cung cấp chính xác
nhất là vị Tướng Trưởng Phòng 3 ngang hàng với cơ
quan chúng tôi, và vị Tổng Tham Mưu Trưởng cấp trên của
chúng tôi cũng vậy.
Chiều 18/3/1975, điện
thoại reo:
- Đại Tá Hoa tôi nghe -
- Khương đây anh Hoa- Đó
là Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2
Tiếp Vận, đồn trú tại Qui Nhơn.
- Anh có tin gì về anh em
mình trên Plei Ku chưa? -
- Liên Đoàn 2 Vận Tải
mới liên lạc vô tuyến với đoàn xe bị kẹt trên Plei
Ku rồi anh. Đoàn xe này đang cùng với hằng ngàn quân xa
và dân xa rút bỏ Plei Ku và Kon Tum, đang di chuyển trên
đường liên tỉnh số 7 để xuống Tuy Hòa. Toàn bộ lực
lượng gồm nhiều đơn vị chiến đấu, cùng với Pháo
Binh, Thiết Giáp, bị sa lầy sau khi vượt qua Cheo Reo. Phần
thì đường hư cầu sập làm nhiều chiến xa M.48 và đại
bác 175 cơ động lật xuống hố, phần thì các đơn vị
cộng sản tấn công nhiều mặt, đã gây tổn thất nặng
cho cả quân đội lẫn dân sự nhưng chưa thấy phản ứng
của Quân Đoàn. Anh em mất tinh thần lắm anh ơi! -
- Được rồi. Bảo vệ
đoàn quân và khi nào xuống đến Tuy Hoà, chắc chắn là
trách nhiệm của Quân Đoàn. Bây giờ anh nên chuẩn bị
tổ chức nhiều toán do một sî quan của Bộ Chỉ Huy Tiếp
Vận chỉ huy và đặt tại Tuy Hoà, mỗi toán phụ trách
một công tác, để khi đoàn quân xuống đến Tuy Hòa thì
cấp phát ngay cho bất cứ đơn vị nào mà không cần theo
thủ tục tiếp liệu thông thường, chỉ cần viết tay và
ký nhận là đủ. Hàng mang theo cấp phát là: Lương khô
đủ ăn 3 ngày, 1 bộ quần áo trận, đổ đầy xăng dầu
cho xe chạy bánh và xe chạy xích. Toán Quân Y thì cấp
thuốc cho các bệnh thông thường và cấp cứu đầu tiên.
Anh thấy được không? -
- Được anh. Để tôi lo
-
- Anh nói Liên Đoàn 2 Vận
Tải ráng giữ liên lạc và khi có bất cứ tin tức gì về
đoàn quân này thì anh cho tôi biết ngay nghe anh Khương-
Sở dĩ có đoàn xe hằng
trăm chiếc bị kẹt ở Plei Ku, là vì sau khi Phước Long
mất, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên ra lệnh cho tôi thực
hiện kế hoạch chuyển tiếp liệu loại 1 (lương thực
thực phẩm), loại 3 (nhiên liệu), loại 5 (đạn dược
chất nổ), lên Plei Ku dự trữ cho 20.000 quân phòng thủ
trong 30 ngày mới bổ sung. Do vậy mà hằng ngày đoàn xe
cả trăm chiếc đi đi về về giữa Qui Nhơn với Plei Ku
để vận chuyển tiếp liệu từ Qui Nhơn lên Plei Ku.
Tôi sang văn phòng Đại
Tá Loan, và sau đó tôi điện thoại lên Đại Tướng Tổng
Tham Mưu Trưởng:
- Tôi Hoa đây anh Nguyện
(Đại Tá Nguyễn Kỳ Nguyện, chánh văn phòng), anh cho tôi
trình vấn đề gấp với Đại Tướng -
- Anh chờ tôi một chút -
- Tôi đây. Anh có chuyện
gì vậy? -
- Thưa Đại Tướng, tôi
Hoa đây -
- Có việc gì vậy? -
- Vài phút cách đây, Đại
Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận,
cho tôi biết về đoàn quân rút bỏ Plei Ku và Kon Tum đang
bị sa lầy … (tôi thuật lại chi tiết mà tôi và Đại
Tá Khương đã nói với nhau).
- Anh có chắc là đúng
như vậy không? -
- Từ chổ đoàn xe bị
kẹt đến Đại Tá Khương như thế nào thì tôi không dám
chắc, nhưng từ Đại Tá Khương đến tôi là hoàn toàn
chính xác, thưa Đại Tướng -
- Thôi được. Anh đừng
nói với ai nữa nghe -
- Vâng -
Đại Tá Loan và tôi đều
ngẩn ngơ về câu sau cùng của Đại Tướng Tổng Tham Mưu
Trưởng. Chúng tôi ngẩn ngơ vì không hiểu tại sao tình
hình đến như vậy mà vẫn muốn giấu kín chúng tôi nữa!
Vài phút sau đó, Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ điện
thoại tôi:
- Cưng ơi (Chuẩn Tướng
Thọ thường gọi tôi như vậy), cưng có liên lạc với
đoàn xe trên đường số 7 hả? -
- Tôi không trực tiếp
liên lạc nhưng Liên Đoàn 2 Vận Tải của chúng tôi đã
liên lạc được với đoàn xe chở tiếp liệu lên Plei Ku
và bị kẹt trên đó, nay thì cùng trong đoàn quân sa lầy
mà vừa rồi tôi đã trình Đại Tướng -
- Có. Đại Tướng mới
gọi anh đây. Cưng cứ biết vậy thôi nghe -
Tôi có biết chút ít về
đường liên tỉnh số 7 này, từ đoạn Plei Ku vào đến
Cheo Reo và xuống đến Cung Sơn. Vì cuối năm 1955 -lúc bấy
giờ tôi đang là Thiếu Úy, Đại Đội Trưởng thuộc
Tiểu Đoàn Khinh Quân 510- toàn bộ Tiểu Đoàn chúng tôi
cùng với Tiểu Đoàn Khinh Quân 507 và 527, di chuyển từ
Vỉnh Long lên Cao Nguyên và đồn trú tại Cheo Reo, để
thành lập Trung Đoàn 35 Bộ Binh trong hệ thống tổ chức
Sư Đoàn Khinh Chiến 12. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đồn trú
tại Plei Ku. Các Tiểu Đoàn được cấp phiên hiệu như
sau: Tiểu Đoàn 507 thành Tiểu Đoàn 1/35, Tiểu Đoàn 510
chúng tôi thành Tiểu Đoàn 2/35, và Tiểu Đoàn 527 thành
Tiểu Đoàn 3/35.
Vì các đơn vị yểm trợ
tiếp liệu và hành chánh tài chánh đồn trú ở Plei Ku,
nên chúng tôi thường xuyên đi lại giữa Cheo Reo với
Plei Ku bằng đường liên tỉnh số 7 và một đoạn quốc
lộ 14. Sở dĩ đoạn đường từ ngã ba quốc lộ 14 với
liên tỉnh lộ 7 -tên địa phương là Mỹ Thạch- vào đến
Cheo Reo còn sử dụng được, là vì trong chiến tranh giữa
thực dân Pháp với cộng sản 1945-1954 (lúc đó cộng sản
núp dưới tên Việt Minh), Cheo Reo là cứ điểm quân sự
của Pháp, nên đường này được tu bổ vì nó là “con
đường huyết mạch” của cứ điểm. Còn đoạn từ
Cheo Reo xuống Cung Sơn và Tuy Hoà, quân đội Pháp không sử
dụng nên không tu bổ gì cả. Khi Trung Đoàn chúng tôi đến
Cheo Reo, thì xác những chiếc thiết giáp của Pháp còn
ngổn ngang tại đó, còn chiếc cầu bắc ngang Sông Ba thì
tồi tệ hơn bất cứ chiếc cầu tồi tệ nào. Thuở ấy
“rất là hoà bình”, nên chúng tôi thường đi săn trên
đường từ Cheo Reo xuống đến Cung Sơn, chỉ cần thận
trọng một chút thì xe jeep vẫn bò qua chiếc cầu tồi tệ
ấy được. Trên đoạn đường này, chiếc xe jeep của
chúng tôi chỉ gọi là “bò” chớ không thể gọi là
chạy được vì mặt đường giữa vùng rừng già heo hút
này hầu như không còn gì để gọi là con đường nữa.
Giữa năm 1969, lúc ấy
tôi là Đại Tá, tháp tùng Trung Tướng Nguyễn Văn Là,
đến thăm các đơn vị tại Cheo Reo và các quận lân cận,
con đường bên kia Sông Ba được tu bổ đôi chút. Và nếu
đoạn đường tiếp nối xuống Cung Sơn để ra Tuy Hoà
(tỉnh Phú Yên) không được tu bổ thường xuyên, mà Quân
Đoàn II quyết định sử dụng cho đoàn quân hơn 10.000
người cùng với trên dưới 2.000 quân xa, dân xa, và chiến
xa hạng nặng triệt thoái, quả là tạo được bất ngờ
đối với địch, nhưng phải nói là quá liều lĩnh! Bất
ngờ, nhưng con đường có sử dụng được hay không, lại
là vấn đề trước mặt của Quân Đoàn II nói chung, và
của bộ chỉ huy hành quân cuộc hành quân lui binh này nói
riêng.
Chiều tối hôm sau thì
Trung Tướng Đồng Văn Khuyên từ Tokyo (Nhật Bản) về
đến. Sau khi nghe chúng tôi trình bày về tình hình từ
ngày ông vắng mặt đến nay, ông nói sáng mai sẽ trình
diện Tổng Thống với Đại Tướng (Tổng Tham Mưu
Trưởng), chắc là sẽ có tin tức rõ ràng hơn.
Và đây là những tin tức
đó:
“Sau khi mất Ban Mê
Thuột, áp lực của quân cộng sản rất mạnh. Tổng
Thống nhận định là không đủ khả năng bảo vệ toàn
bộ Cao Nguyên trong khi Ban Mê Thuột cần giữ hơn là Plei
ku với Kon Tum, vì vậy mà Tổng Thống trong buổi họp tại
Cam Ranh, đã quyết định rút bỏ Plei Ku, Kon Tum, Phú Bổn,
để đem lực lượng về phản công lấy lại Ban Mê
Thuột. Tổng Thống giao cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú,
Tư Lệnh Quân Đoàn II, nhiệm vụ thực hiện cuộc hành
quân triệt thoái khỏi 3 tỉnh đó, nhưng phải giữ bí
mật tối đa và bảo vệ toàn vẹn lực lượng (có lẽ
vì bảo mật tối đa mà Tổng Cục Tiếp Vận chúng tôi
không được cho biết gì cả). Thiếu Tướng Phú trình kế
hoạch là rút theo đường liên tỉnh số 7, dù rằng con
đường này không sử dụng từ lâu nhưng đạt được
yếu tố bất ngờ đối với lực lượng cộng sản.
Thiếu Tướng Phú đề nghị Tổng Thống thăng cấp Chuẩn
Tướng cho Đại Tá Phạm Duy Tất, và Chuẩn Tướng Tất
sẽ là Chỉ Huy Trưởng cuộc hành quân lui binh này. Lời
đề nghị được Tổng Thống chấp thuận tại chổ”.
Lúc bấy giờ, Đại Tá
Phạm Duy Tất đang là Chỉ Huy Trưởng Biệt Động
Quân/Quân Đoàn II.
Hết giờ buổi chiều khá
lâu, bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận chỉ còn nhân viên
trực hoạt động. Trung Tướng Khuyên gọi tôi lên văn
phòng (ông ngồi ở văn phòng Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng
Tham Mưu, trên tòa nhà chánh), và ông đưa tôi xem một xấp
không ảnh (ảnh chụp từ trên phi cơ) đã được giải
đoán đầy đủ. Toàn bộ xấp không ảnh cho thấy đoàn
xe không phải theo một hình dài mà là một hình gần như
tròn, vì khi phần đi đầu bị kẹt thì những chiếc sau
cứ lấn qua bên trái hay bên phải với hy vọng tìm được
lối đi, nhưng càng lấn vào rừng thì càng không lối
thoát, và cứ như thế mà cả đoàn xe quá nhiều đó đã
tạo nên dáng như vậy. Ghi chú bên cạnh những khoanh tròn
bằng ngòi bút của chuyên viên giải đoán không ảnh, có
gần 800 xe đã bị thiêu hủy. Nếu như giải đoán viên
không ảnh chính xác hay ít ra cũng gần như vậy, thì chỉ
mới 4 ngày dấn thân vào đường liên tỉnh số 7 mà số
xe bị tổn thất trên dưới 1/3 trong tổng số xe các
loại, quả là rất nặng. Trong số tổn thất đó có Tiểu
Đoàn Pháo Binh 175 ly cơ động và Trung Đoàn Chiến Xa hạng
nặng M48″. Đây là hai loại vũ khí mới được Hoa Kỳ
viện trợ năm 1973 bằng cách các đơn vị pháo binh và xe
tăng của họ chỉ rút người về nước và để toàn bộ
chiến cụ đó lại cho quân đội chúng ta.
Những bài học chiến
thuật trong trường Võ Bị cũng như trường Đại Học
Quân Sự (hậu thân của Viện Nghiên Cứu Quân Sự Đông
Dương của Pháp và là tiền thân của trường Chỉ Huy
Tham Mưu Cao Cấp) đều thừa nhận rằng, trong các cuộc
hành quân thì hành quân rút lui (hay triệt thoái, hay lui
binh) là nhiều hiểm nguy hơn các cuộc hành quân khác, vì
đơn vị “đưa lưng” về phía địch. Khi tấn công thì
trước mặt là địch và sau lưng là hậu tuyến, còn
trong rút lui thì trước mặt lại là hậu tuyến mà sau
lưng trở thành tiền tuyến. Nguy hiểm là vậy. Nguyên tắc
căn bản của bài học “lui binh” là phải có một lực
lượng hành quân giao tiếp để bảo đảm an toàn phía
trước mặt (hậu tuyến), còn lực lượng lui binh thì tự
bảo vệ phía sau lưng (tiền tuyến), ngoài ra phải được
Không Quân quan sát và yểm trợ hỏa lực nữa.
Với cuộc hành quân giao
tiếp chậm chạp từ Tuy Hòa lên, đoàn quân triệt thoái
ngày càng tan tác trên đường lui binh vô cùng hỗn loạn
vì bị quân Việt cộng liên tục phục kích, tập kích.
Khi về đến Tuy Hoà thì tổn thất đến nỗi không còn
khả năng thực hiện kế hoạch phản công chiếm lại Ban
Mê Thuột được nữa. Số dân thường bị chết dọc
đường nhiều không kém số thương vong của quân đội.
Chết vì súng đạn, chết vì xe cộ tranh giành lối đi mà
gây tai nạn bừa bãi, chết vì tranh nhau miếng ăn nước
uống, chết vì cướp giật, ..v..v..
Rút bỏ 3 tỉnh Cao Nguyên
là Plei Ku, Kon Tum, và Phú Bổn, những tưởng bảo toàn
được lực lượng gồm một phần của Sư Đoàn 23 Bộ
Binh, các Liên Đoàn Biệt Động Quân, Pháo Binh, Thiết
Giáp, Công Binh, Truyền Tin, và các ngành khác, để phản
công chiếm lại thủ phủ Ban Mê Thuột, nhưng rồi toàn
bộ Cao Nguyên miền Trung bỗng dưng rơi vào tay quân cộng
sản một cách nhẹ nhàng. Tôi nói “bỗng dưng”, vì rút
bỏ Plei Ku từ đêm thứ bảy 16 rạng ngày chủ nhật
17/3, mà đến 3 giờ 15 phút chiều thứ tư 20/3/75 tín hiệu
của Truyền Tin tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II mới ngưng
hoạt động. Đại Tá Cục Trưởng Cục Truyền Tin nói
với tôi như vậy. Điều này có thể là lúc đó quân
cộng sản mới tiến đến và phá hủy máy móc hoặc tắt
máy, cũng có thể là quân cộng sản chưa chiếm nhưng vì
máy phát điện hết nhiên liệu nên cả hệ thống đều
ngưng hoạt động. Cho dù ở vào trường hợp nào đi nữa,
thì rõ ràng là quân cộng sản mà mình tưởng nó bao vây
hay sắp sửa bao vây Plei Ku, nhưng thật ra chúng còn ở
tận đâu đâu nên mãi 4 ngày sau -đó là thời gian sớm
nhất- chúng mới vào chiếm Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, trong
khi những Sư Đoàn của chúng ở càng xa Plei Ku về hướng
Nam và Đông Nam thì khoảng cách càng gần với đoàn quân
triệt thoái hơn, do dó mà thiệt hại của đoàn quân nặng
nề chưa từng thấy trong hơn 20 năm chiến tranh! Một thất
bại vô cùng đau đớn cho những người cầm súng, nhất
là những người cầm súng dưới quyền chỉ huy của vị
Tư Lệnh đã từng xông pha trận mạc. Thiếu Tướng Phạm
Văn Phú, khi còn là sĩ quan cấp Úy cấp Tá trong hàng ngũ
quân đội Liên Hiệp Pháp lẫn trong quân lực Việt Nam
Cộng Hòa, đã có tiếng là cấp chỉ huy can đãm, không
lùi bước bất kể chiến trận gay go nghiêng ngã như thế
nào. Nay, với chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn II, liệu có
phải là hơi quá tầm lãnh đạo chỉ huy của ông không?
Hay là quyền lực hoặc khả năng của ông bị điều gì
đó giới hạn? Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã tự tử
ngay sau ngày30/4/1975. Tôi đến chùa Vĩnh Nghiêm (Sài Gòn)
vào ngày 2/5/1975 và chào tiễn biệt ông vào cõi vĩnh hằng
giữa hoàn cảnh đau thương của đất nước, dân tộc!
Năm 1960, trong thời gian
tôi học tại Trường Đại Học Quân Sự (hậu thân của
Viện Nghiên Cứu Quân Sự của Quân Đội Viễn Chinh
Pháp), tôi đọc được một tập tài liệu, có nhận định
rằng: “Trong chiến tranh Việt Nam, ai chiếm giữ được
Cao Nguyên miền Trung thì người dó sẽ nắm phần chiến
thắng”. Chắc chắn rằng, những vị Tướng của chúng
ta đang nắm quyền lãnh đạo quốc gia và lãnh đạo quân
đội đều biết tài liệu đó, nhưng có thể các vị bị
chính trị đẩy Cao Nguyên ra khỏi tầm tay chăng?
Ngược dòng thời gian,
thượng tuần tháng 5/1954, Điện Biên Phủ do 13.000 quân
của Pháp trấn giữ, đã thất thủ làm rúng động toàn
bộ quân viển chinh Pháp tại Đông Dương và rúng động
cả nước Pháp. Và hiển nhiên là sự thất trận này đã
đưa nước Pháp đến tình trạng mất toàn bộ Đông
Dương gồm Việt Nam, Cam Bốt, và Lào. Hơn 20 năm sau
-tháng 3/1975- toàn bộ Cao Nguyên miền Trung vào tay quân
cộng sản, làm rúng động toàn quân và toàn dân Việt
Nam Cộng Hòa. Và liệu sự thất bại này có phải là
nguyên nhân dẫn đến toàn bộ Việt Nam Cộng Hòa vào tay
quân cộng sản từ ngày cuối tháng 4/1975 không? Dù gì đi
nữa thì sự thể đã là như vậy rồi!
Tình trạng hỗn loạn bi
đát trong cuộc hành quân lui binh trên đường liên tỉnh
số 7, nếu chưa phải là nguyên nhân chính, cũng là khởi
đầu cho sự hỗn loạn trong các cuộc hành quân lui binh
của các Sư đoàn 1, 2, 3, 22, 23 Bộ Binh, Nhẩy Dù, Thủy
Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Hải Quân, Không Quân,
dọc các tỉnh duyên hải từ Quảng Trị , Huế, Đà Nẳng,
đến Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú
Yên, Khánh Hòa, Cam Ranh.
Trước ngày cuối tháng
3/1975, thì từ Quảng Trị đến Cam Ranh đều bỏ ngỏ.
Tôi nói “bỏ ngỏ” vì không có Tiểu Khu nào hay Trung
Đoàn, Sư Đoàn, Quân Đoàn nào, phòng thủ chống lại
quân cộng sản, hoặc nếu có chống trả như Sư Đoàn 3
Bộ Binh tại sườn Tây Đà Nẳng cũng chỉ trong thời
gian ngắn ngủi là rút lui, còn lại là rút đi trước khi
quân cộng sản đến!
Trong số những vị Tướng
Tư Lệnh đại đơn vị thuộc Quân Đoàn I và Quân Đoàn
II rút khỏi khu trách nhiệm của những vị đó, tôi luôn
tự hỏi về thái độ của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng,
Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân khu I. Tôi được tiếp xúc với
ông qua những công tác “chống đảo chánh” từ năm
1965 khi ông là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Nhẩy Dù. Chính vì
hiểu ông mà tôi tự hỏi như vậy. Bởi trong cuộc tấn
công của quân cộng sản hồi Tết Mậu Thân đầu năm
1968, Huế và nhất là trong khuôn viên thành nội, nơi có
bản doanh cùng một số đơn vị của Sư Đoàn 1 Bộ Binh
đồn trú, đã bị chúng chiếm giữ trong 3 tuần lễ. Lúc
bấy giờ, Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng (cấp bậc lúc
ấy) là Tư Lệnh Sư Đoàn này. Cuộc phản công chiếm lại
từng khu vực trong thành nội Huế rất cam go với tổn
thất đáng kể, Chuẩn Tướng Trưởng đã chứng tỏ
quyết tâm tiêu diệt quân cộng sản hay ít nhất cũng
phải đánh bật chúng ra khỏi Huế trong thời gian ngắn
nhất, khi ông đứng nghiêm chỉnh ở chân cột cờ với
lễ phục và huy chương biểu tượng cho các chiến công
của ông, Chuẩn Tướng Trưởng đã kêu gọi quyết tâm
của quân sĩ dưới quyền ông hãy vì danh dự và trách
nhiệm đối với tổ quốc dân tộc. Qua lời kêu gọi đầy
trách nhiệm cùng với nhiệt tâm của ông, chính là quyết
tâm của vị Tư Lệnh cùng quân sĩ chiến đấu, đã thúc
đẩy cuộc phản công của Sư Đoàn đến chiến thắng vẻ
vang. Đành rằng trong cuộc hành quân phản công này, có
sự chiến đấu yểm trợ của quân lực Hoa Kỳ, nhưng Sư
Đoàn 1 Bộ Binh Việt Nam vẫn là lực lượng chính.
‘Mùa Hè Đỏ Lửa’ năm
1972, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (đã thăng cấp) đang
là Tư Lệnh Quân Đoàn IV/Quân khu IV vùng đồng bằng Cửu
Long, được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cử giữ chức
Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I và tức tốc lên phi cơ ra
Đà Nẳng nhận chức. Một vị Tướng như thế, tôi nghĩ,
ông không thể để Đà Nẳng vào tay quân cộng sản gần
như êm thắm như vậy! Xin nhớ, Trung Tướng Ngô Quang
Trưởng gốc là binh chủng Nhẩy Dù, và binh chủng này là
một trong những binh chủng rất lì với chiến trận.
Nhưng sự thể đã diễn ra như vậy, ắt phải có điều
gì đằng sau quyết định rút bỏ thành phố cảng quan
trọng của miền Trung. Và chỉ có Trung Tướng Ngô Quang
Trưởng mới có thể hiểu đến tận cùng điều ấy mà
thôi.
Ngày 14/1/1995, tôi gặp
anh Nguyễn Thành Trí trong chợ Hong Kong ở Houston, bạn
tôi. Anh là cựu Đại Tá, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy
Quân Lục Chiến, và Sư Đoàn này đặt dưới quyền sử
dụng dài hạn của Quân Đoàn I từ sau trận chiến Mùa
Hè Đỏ Lửa năm 1972. Dưới đây là lời thuật của cựu
Đại Tá Trí về những ngày cuối tháng 3/1975, trong lúc
anh và bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục
Chiến ở khu vực Non Nước, Đà Nẳng:
‘’Khoảng 5 giờ chiều
ngày 28 tháng 3 năm 1975, quân cộng sản tấn công vào Sư
Đoàn 3 Bộ Binh ở sườn Tây Đà Nẳng, và chỉ vài giờ
chống trả là Sư Đoàn rút lui, tạo khoảng trống bên
sườn của Thủy Quân Lục Chiến, và các đơn vị co về
bản doanh Sư Đoàn (Thủy Quân Lục Chiến). Thiêu Tướng
Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, đã
rời khỏi Sư Đoàn và lên chiến hạm của Hải Quân
(Việt Nam) từ lúc chiều. Nhưng trước khi đi ông có đến
gặp Trung Tuóng Ngô Quang Trưởng xin quyết định vì tình
hình rất nghiêm trọng, nhưng Trung Tướng Trưởng không
nói gì cả. Lúc này bên cạnh Thiếu Tướng Bùi Thế Lân
có ông Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng, ông ta có
mang theo máy vô tuyến cầm tay loại nhỏ và chốc chốc
ông ta nói vị trí của ông với ai ở đâu đó tôi (tức
cựu Đại Tá Trí) không rõ. Thiếu Tướng Bùi Thế Lân
nói với tôi rằng: Ông Tổng Lãnh Sự khuyên ổng (tức
Thiếu Tướng Lân) nên bảo toàn lực lượng, nhưng Thiếu
Tướng Lân không nói điều này với Trung Tướng Trưởng.
‘’Khoảng nửa đêm 28
rạng 29/3/1975, có tiếng động cơ trực thăng xuống bãi
đáp bên cạnh, sĩ quan trực chạy ra đón và hướng dẫn
phái đoàn vào bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân
Lục Chiến, gồm các vị: Trung Tướng Ngô Quang Trưởng,
Chuẩn Tướng Khánh (tôi không biết họ) Tư Lệnh Sư Đoàn
1 Không Quân (đồn trú tại Đà Nẳng), Đại Tá Phước
(cũng không biết họ) Không Đoàn Trưởng Không Đoàn
51/Sư Đoàn 1 Không Quân, Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ,
Tỉnh/Thị Trưởng Thừa Thiên/Huế, và Đại Úy sĩ quan
tùy viên của Trung Tướng Trưởng. Vào bộ chỉ huy, sau
khi Trung Tướng Trưởng liên lạc với các đơn vị và
được biết đã rút lui an toàn (tức bỏ Đà Nẳng),
Trung Tướng Trưởng nói với các sĩ quan cùng đi theo ông:
- Bây giờ thì các anh hãy
tự thoát, còn tôi, tôi đi theo Thủy Quân Lục Chiến-
‘’Trung Tướng Trưởng
vừa nói xong thì gần như cùng một lúc, Chuẩn Tướng
Khánh, Đại Tá Phước, Đại Tá Duệ, cùng chào Trung
Tướng Trưởng và lên trực thăng cất cánh ngay. Khoảng
6 giờ sáng ngày 29/3/1975, sĩ quan vào trình tôi là chiến
hạm đang tiến vào để đón các đơn vị Thủy Quân Lục
Chiến. Tôi đến trình Trung Tướng Trưởng:
- Thưa Trung Tướng, tôi
không biết do lệnh từ đâu mà chiến hạm đang chờ đón
tôi và các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Vậy Trung
Tướng nên đi với chúng tôi ngay bây giờ, thưa Trung
Tướng-
‘’Sau một lúc chần
chừ như có ý không muốn rời Đà Nẳng, ông đứng dậy
cùng đi với tôi. Nhưng vì chiến hạm không vào sát bờ
được, cũng không có tàu nhỏ để từ bờ ra chiến hạm,
nên tất cả đều lội nước, và khi mực nước lên đến
ngực cũng là lúc trèo lên tàu. Sau khi mọi người lên
chiến hạm, lúc ấy tôi trông thấy Đại Tá Hường
(Nguyễn Xuân Hường), Tư Lệnh Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh đã có
mặt trên tàu. Chiến hạm lui ra khơi nhưng chưa chạy, có
vẻ như chờ lệnh hay chờ ai đó.
‘’Vài tiếng đồng hồ
sau, chiếc trực thăng chở các sĩ quan rời khỏi bộ chỉ
huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến lúc nửa đêm
qua, đã quay trở lại, không rõ là do thời tiết xấu hay
vì lý do gì đó, và cả ba vị là Chuẩn Tướng Khánh,
Đại Tá Phước, với Đại Tá Duệ, cùng lội nước ra
chiến hạm. Vẫn là chiến hạm đang có Trung Tướng
Trưởng trên đó. Tôi thấy sự chia tay đêm qua sao mà
thản nhiên quá, thản nhiên đến mức không có vẻ gì có
chút tình cảm đọng lại trong giây phút chia tay đó làm
tôi cảm thấy khó chịu. (lời của Phạm Bá Hoa: thuật
chuyện đến đây đôi mắt anh Trí đỏ hoe, chực phát
khóc! Rõ ràng là anh đang xúc động!)
Sau phút im lặng vì xúc
động, cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí thuật tiếp:
‘’Tôi nhờ ông Hạm
Trưởng để 3 sĩ quan này ở phía trước hầu tránh cho
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng trông thấy e không đẹp
lòng nhau. Mãi đến quá trưa, chiến hạm mới rời vùng
biển Đà Nẳng và trực chỉ Cam Ranh. Giữa chiến hạm
với Bộ Tư Lệnh Hải Quân giữ liên lạc vô tuyến chặt
chẻ, nên khi chiến hạm vừa đến vịnh Cam Ranh thì nhận
được công điện của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Theo đó thì Tổng Thống ra lệnh cho tất cả lên bờ, chỉ
riêng Trung Tướng Trưởng vẫn ở trên chiến hạm và về
Sài Gòn ngay. Tôi thắc mắc nếu muốn Trung Tướng Trưởng
về Sài Gòn ngay thì tại sao Tổng Thống hay Bộ Tổng
Tham Mưu không cho phi cơ ra Cam Ranh đón mà lại bảo đi
bằng tàu? Lúc đó Trung Tướng Trưởng nói là ông đi
theo Thủy Quân Lục Chiến chớ không về Sài Gòn. Đến
khi Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II một
đại đơn vị hầu như đã tan rã sau cuộc hành quân lui
binh thảm bại, ông từ Nha Trang vào Cam Ranh khuyên Trung
Tướng Trưởng nên về Sài Gòn theo lệnh Tổng Thống. Và
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I đã
theo chiến hạm về Sài Gòn’’.
Đến đây là hết lời
thuật của cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí, Tư Lệnh Phó
Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến.
Với lời thuật trên đây
của cựu Đại Tá Trí, tôi nghĩ rằng: rất có thể là
các vị Tư Lệnh tại Quân Đoàn I từ binh chủng Bộ
Binh, Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, đến quân chủng
Hải Quân, Không Quân, và cũng có thể ngay cả Trung Tướng
Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I, đã nhận được
lời khuyên ‘bảo toàn lực lượng’ như Thiếu Tướng
Bùi Thế Lân đã nhận của ông Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại
Đà Nẳng cũng nên? Không chừng chiến hạm vào gần bờ
để đón Thủy Quân Lục Chiến cũng từ ‘lời khuyên’
của ông Tổng Lãnh Sự nữa chăng! Vì rõ ràng là cựu
Đại Tá Trí không hề biết lệnh xuất phát từ đâu mà.
Và phải chăng với ‘lời khuyên’ đó đã dẫn đến
các vị có quân có quyền trong tay lần lượt rời khỏi
đơn vị hoặc chỉ huy đơn vị triệt thoái? Điều này
tôi không rõ, nhưng có điều quí vị đều rõ là Bộ Tư
Lệnh Quân Đoàn I và Đà Nẳng vào tay quân cộng sản quá
dễ như khi vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II ở Plei Ku vậy!
Tối ngày 6/9/2003, khi vợ
chồng tôi dự tiệc cưới tại Washington DC, chúng tôi
ngồi chung bàn với cựu Trung Tướng Ngô Quan Trưởng, và
cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tôi có ý định
hỏi Trung Tướng Trưởng về điều thắc mắc của tôi,
nhưng vì cựu Phó Đề Đốc Thoại lại đưa vấn đề
cuộc đảo chánh ngày 1/11/1963 hỏi tôi nên tôi mãi nóí
chuyện với ông, để rồi cuối cùng không còn thì giờ
xin lời tâm sự từ cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng.
Bây giờ xin mời quí vị
quay nhìn vào số lượng đồng bào chạy loạn được các
loại tàu chở từ Huế và Đà Nẳng xuôi Nam và đưa ra
đảo Phú Quốc tạm trú. Phú Quốc thuộc tỉnh Kiên Giang
mà tỉnh lỵ là Rạch Giá, nằm ngay cửa ngỏ vào vịnh
Thái Lan. Số đồng bào chạy loạn này do Bộ Xã Hội phụ
trách nuôi ăn trong khi chờ biện pháp giải quyết chung.
Bộ Xã Hội yêu cầu Tổng Cục Tiếp Vận giúp họ tiếp
tế mỗi ngày 20.000 phần cơm và phi cơ đưa ra Phú Quốc
cung cấp cho đồng bào. Trung Tướng Đồng Văn Khuyên bảo
tôi lo giúp Bộ Xã Hội. Tôi điện thoại lên Trung Tâm
Huấn Luyện Quang Trung, xin tiếp chuyện với Thiếu Tướng
Trần Bá Di, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm này:
- Hoa đây Anh. Có việc
này xin nhờ Anh và hi vọng Anh tiếp tay được- Xin lỗi
quí vị, tôi xưng hô như vậy với Thiếu Tướng Trần Bá
Di, vì chúng tôi thân nhau từ lâu.
- Việc gì mà coi bộ quan
trọng vậy anh?
- Tại Phú Quốc hiện có
khoảng 20.000 đồng bào của các tỉnh miền Trung chạy
vào tạm trú, bên Bộ Xã Hội nhờ quân đội nấu cơm ,
vắt lại từng vắt, và dùng phi cơ quân sự đưa ra Phú
Quốc cho đồng bào. Chuyện này là chuyện hằng ngày nghe
Anh. Gạo thì Bộ Xã Hội cung cấp. Anh liệu Trung Tâm có
thể giúp được không?
- Được chớ. Chuyện
chung mà. Nhưng chừng nào thì tụi tôi nấu?
- Ngay hôm nay. để mai là
chuyến tiếp tế đầu tiên do quân đội nhận giúp. Vậy
Anh cho mượn gạo hôm nay nghe, và mai chúng tôi chở gạo
đến Anh đủ một tuần, sau đó tính tiếp.
- Được. Tôi cho nấu
ngay. Khi xong, tôi cho anh hay.
- Xin cám ơn Anh -
- Cái gì mà anh cám ơn.
Mỗi người mỗi đơn vị phải góp phần trách nhiệm của
mình chớ anh -
Thế là từ hôm ấy, cơm
vắt được đưa ra Phú Quốc bằng phi cơ phi cơ tiếp tế
cho đồng bào tạm trú tại đó. Nhưng rồi tình hình ngày
càng xấu thêm ./.
Phạm Bá Hoa
Bài viết này trích từ
quyển Đôi Dòng Ghi Nhớ ấn hành năm 1994, 1995, 1998, và
tôi đang chuẩn bị để nhà xuất bản ấn hành lần 4
vào mùa hè 2004 này, sau khi bổ túc do những điều mà cựu
Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và cựu Đại Tướng Cao
Văn Viên cho biết thêm
https://ongvove.wordpress.com/2012/03/16/cuoc-rut-quan-tren-duong-so-7-ngay-17-thang-3-nam-1975-va-nhung-he-luy-sau-do/
Lê Trọng - Cựu Chiến binh Quân đội Nhân dân Việt Nam Giới thiệu
Kính mời xem các bài liên quan: