Hình bìa cuốn sách "Những bí mật về chiến tranh Việt Nam - Hồi ức về Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc" (Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers)
Tiến sĩ Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc và là cố vấn Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ
Lời dẫn của Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn: Tiến sĩ Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc và là cố vấn Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ trong buổi phỏng vấn với CNN và trong sách "Những bí mật về chiến tranh Việt Nam - Hồi ức về Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc" (Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers) đã viết: "Không hề có chiến tranh Đông Dương thứ nhất và thứ nhì, chỉ có một cuộc xung đột nối tiếp trong một phần tư thế kỷ. Dùng ngôn từ thực tế, đứng về một phía (Mỹ), ngay từ đầu nó đã là một cuộc chiến của Mỹ: mới đầu là Pháp - Mỹ, sau đến toàn là Mỹ. Trong cả hai trường hợp, nó là một cuộc đấu tranh của người Việt Nam – không phải là tất cả người Việt Nam nhưng cũng đủ để duy trì cuộc đấu tranh – chống chính sách của Mỹ và những kinh viện, ủy nhiệm, kỹ thuật gia, hỏa lực, và cuối cùng, quân đội và phi công, của Mỹ... Cuộc chiến đó không có gì là "nội chiến", như nó đã không là nội chiến trong cuộc tái chiếm thuộc địa của Pháp được Mỹ ủng hộ. Một cuộc chiến mà trong đó một phía hoàn toàn được trang bị và trả lương bởi một quyền lực ngoại quốc – một quyền lực nắm quyền quyết định về bản chất của chế độ địa phương vì những quyền lợi của mình – thì không phải là một cuộc nội chiến... Theo tinh thần Hiến chương Liên Hiệp Quốc và theo những lý tưởng mà chúng ta (nước Mỹ) công khai thừa nhận, đó là một cuộc ngoại xâm, sự xâm lược của Mỹ".
Mời xem video clip mới nhất của Kênh QPVN- Chuyên mục Nhận diện sự thật số 120 ngày 27/4/2018:
Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn và Trung tướng Nguyễn Quốc Thước trả lời trên Kênh QPVN: VÌ SAO LỊCH SỬ CHIẾN THẮNG 30-4 VẪN BỊ XUYÊN TẠC?
Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn và Trung tướng Nguyễn Quốc Thước trả lời trên Kênh QPVN: VÌ SAO LỊCH SỬ CHIẾN THẮNG 30-4 VẪN BỊ XUYÊN TẠC?
Theo yêu cầu của Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn, Google.tienlang xin đăng trọn bộ cuốn sách "Những bí mật về chiến tranh Việt Nam - Hồi ức về Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc" (Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers) của Tiến sĩ Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc và là cố vấn Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ.
*******************
Chương
2 Vịnh
Bắc bộ - tháng 8-1964
Sáng
thứ Tư, ngày 4-8-1964, ngày đầu tiên của tôi với công việc mới ở Lầu Năm Góc, một
người đưa thư tới văn phòng đem theo một bức điện khẩn cho cấp trên của tôi.
Ông ấy đã đi vắng. Các thư ký nói với anh ta là trợ lý Bộ trưởng John
McNaughton đã ra ngoài cùng với Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara. Họ chỉ
anh ta tới tôi, người trợ lý chuyện trách mới. Người đưa thư trao cho tôi bức
điện và đi.
Bức
điện đến từ Hạm trưởng John J. Herrick, Phó chuẩn đô đốc Đội tàu khu trục ở Vịnh
Bắc Bộ, ngoài khơi miền Bắc Việt Nam tại Biển Đông. Theo bản báo cáo, tàu của
ông ta bị các tàu tuần tra của Bắc Việt tấn công khi đang đi trong vùng hải phận
quốc tế, trên 60 dặm ngoài khơi Bắc Việt và đã ra lệnh bắn trả.
Một
ngư lôi đã va phải trạm thuỷ âm của tàu chỉ huy Maddox, một ngư lôi khác sượt
qua tàu khu trục Turner Joy.
Ngay
khi đưa cho tôi bức điện, người đưa thư quay trở lại trung tâm điện tín ở Viện
An ninh quốc tế Lầu Năm Góc, Văn phòng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Trong 10 phút
anh ta quay lại chỗ tôi với một bức điện khác trong cùng một seri:"Tôi bị
ngư lôi tấncông liên tiếp"(1)
Một
vài phút sau, Herrick báo cáo một ngư lôi khác đã bị ông ta bắn trả, hai ngư
lôi khác đã lao xuống nước. Hai tàu khu trục của ông ta bị tấn công và có thể một
trong hai chiếc đã bị hư hại. Hai tàu đang bắn trả bằng hệ thống vũ khí điều
khiển bằng radar. Cuộc đụng độ diễn ra vào một đêm tối, không trăng không sao,
trong nhiều giờ tới gần nửa đêm.
Đây
là một sự kiện không bình thường. Chính xác đây là đợt tấn công thứ hai vào tàu
Hải quân của Mỹ kể từ Đại chiến thế giới II. Còn đợt đầu chỉ cách trước đó
không đầy 3 ngày, ngày chủ nhật, mồng 2 tháng tám, cũng là tàu Maddox của
Herrick đang đi tuần trên Vịnh Bắc Bộ. Vào giữa trưa, cách bờ biển 28 dặm, 3
thuyền ngư lôi của Bắc Việt đã tấn công và phóng ngư lôi vào tàu Maddox. Tất cả
các quả ngư lôi đều trượt và không làm thiệt hại tới tàu khu trục, ngoại trừ một
viên đạn 14,5 ly trúng vào một ống khói. Các thuyền của Bắc Việt đã bị hoả lực
từ tàu Maddox, từ các máy bay hải quân trên tàu sân bay gần đó bắn phá huỷ.
Từ
đó không có một thương vong hay thiệt hại nào của phía Mỹ, Tổng thống Johnson
quyết định không thực hiện thêm hành động nào, trừ việc đưa thêm tàu khu trục
Turner Joy vào hoạt động. Hai tàu khu trục được lệnh tiếp tục hoạt động như một
đội tuần tra để khẳng định quyền qua lại tự do của Mỹ trong hải phận quốc tế. Tổng
thống còn tuyên bố rằng trong trường hợp bị tấn công thêm, các tàu tấn công sẽ
bị không chỉ đánh lui mà là tiêu diệt. Ông ta đã gửi một kháng nghị tới Hà Nội,
cảnh báo "bất cứ một hành độngquân sự nào chống lạicác lực lượng của Mỹmà
không phải do khiêukhích đều sẽ mang lạinhững hậu quả nghiêm trọngkhó tránh nổi"(2).
Tất cả những điều này, trừ những công bố mới nhất, tôi đều đã đọc trên các tờ
báo sáng thứ Hai. Trưa hôm đó, đọc những thống kê được giải mật của giai đoạn
này, tôi đã học thêm được nhiều điều.
Giờ
đây, mỗi khi có bức điện mới tới, tôi thường nhìn vào điểm thời gian ở góc trái
của các bức điện. Hai số đầu tiên chỉ ngày trong tháng; 4 số tiếp theo, thời
gian quân sự (24 giờ là nửa đêm), thời gian chính xác khi bức điện được chuyển
đi. Bức điện đầu tiên được chuyển từ tàu chỉ huy của Herrick lúc 10h42 sáng, giờ
Washington (9h42 ở Vịnh Bắc Bộ). Tôi đối chiếu thời gian chuyển với đồng hồ
trên tường trong văn phòng của tôi ở Lầu Năm Góc, lúc đó khoảng một tiếng rưỡi
sau khi bức điện được chuyển, một khoảng thời gian quá ngắn để một bức điện có
thể tới được chỗ tôi. Sự thật tương tự như thế với bức điện thứ hai, được gửi
lúc 10h52 sáng giờ Washington và tới tay tôi lúc 11h20 , và với các bức điện
khác chỉ mất ít phút. Herrick cho họ quyền cao nhất để chuyện các bức điện bằng
tay, vì thế họ có toàn quyền để chuyển và phân phát các bức điện. Nhưng 20 phút
hay 30 phút đều là một thời gian dài với một hành động như vậy. Toàn bộ việc
trao đổi vào ngày chủ nhật, trên bộ và trên không, đã kéo dài 37 phút. Việc này
đã có thể kết thúc ở đầu bên kia của trái đất, vào đúng lúc tôi đọc bức điện đầu
tiên hoặc bức điện cuối cùng. Một tàu khu trục bị đâm có thể đã chìm trong khi
chúng ta đang xem những buổi diễn tập của nó hoặc sự thành công của nó khi tiêu
diệt một kẻ tấn công. Nhưng không có cách nào cho những người ở Washington biết
về điều này khi họ đọc nó.
Tiếp
đó, CNN cũng không theo dõi được hoạt động trực tiếp của nửa trái đất bên kia,
thậm chí còn chẳng có liên lạc trực tiếp giữa Washington và các tàu khu trục ở
Thái Bình Dương. Sự liên lạc thường xuyên nhất là đài phát thanh và điện thoại
với Đô đốc S.G. Sharp, Tổng Tư lệnh Thái Bình Dương, tại sở chỉ huy của ông ta ở
Hawaii. Các bức điện của CINCPAC giờ đang chất đống trên mặt bàn của tôi, nhưng
chúng không tới thường xuyên và nhanh chóng như các bức điện từ tàu khu trục.
Theo một loạt các điện báo của Hạm trưởng Herrick, chúng tôi thực sự đã không
theo dõi được các hoạt động vào đúng thời điểm diễn ra.
Các
bức điện báo rất gấp gáp. Herrick chắc chắn đã phải nửa chỉ thị nửa ra lệnh vì
hai tàu khu trục đã đột ngột đổi hướng để tránh các quả ngư lôi mà hệ thống định
vị âm thanh dưới nước của tàu Maddox đã phát hiện và trong đêm tối đã bắn vào
các mục tiêu được vạch ra bằng radar của tàu Turner Joy: "Các quả ngư lôi
trượtra ngoài. Một quả khácđã bắn vào chúng tôi.4 quả đang dưới nước.5 quả đang
dưới nước…Đã may mắn tránh đượcít nhất 6 quả".(3)
9
quả ngư lôi đã bắn vào hai con tàu của Herrick, 14, 26. Nhiều tàu phóng ngư lôi
bị trúng hoả lực và ít nhất một chiếc bị chìm. Hoạt động này kéo dài từ 40 phút
tới một tiếng đồng hồ. Biển gầm lên dữ dội vì những đợt hoả lực và những chiếc
máy bay phóng rocket vào các vị trí do radar của tàu Turner Joy vạch ra.
Một
giờ sau đó, bỗng nhiên mọi hoạt động im bặt. Một bức điện tới thông báo không
phải toàn bộ sự việc nhưng cũng đủ để nêu vấn đề. Sau một giờ tương đối yên
tĩnh, người đưa tin tới với một loạt các bức điện từ CINCPAC, Hạm đội 7 và các
bản phân tích từ Bộ Quốc phòng, Cục tình báo Trung ương (CIA) và các bộ phận
khác của Lầu Năm Góc. Tôi đang ngồi trong phòng, hồi tưởng lại, cố gắng lắp
ghép các thông tin theo thứ tự cho McNaughton, thì người đưa tin ấn vào tay tôi
một bức điện khẩn từ Herrick: "Hành động lặp lại đãtạo ra nhiều cuộc đụngđộ
như đã báo cáovà các quả ngư lôiđược phóng ra rất đángnghi ngờ. Thời tiết bấtthường
ảnh hưởng tới radarvà những người điều khiểnhệ thống định vị âmthanh dưới nước
quá sốtsắng có thể là lýdo giải thích cho việccó nhiều báo cáo. Khôngcó những
hình ảnh thựccủa tàu Maddox. Hãy chonhững đánh giá cụ thểtrước khi diễn ra bấtcứ
một hành động nàotiếp theo"(4).
Lúc
đó là hơn 2h chiều. Bức điện được gửi đi lúc 1h27 chiều, giờ Washington. Nửa giờ
sau một bức điện khác từ Herrick, đánh giá tóm tắt hành động tích cực và tiêu cực
đối với một cuộc tấn công, kết luận:"Toàn bộ hành động đãđem lại nhiều sự
nghingờ, ngoại trừ trận phụckích có chủ định ngaytừ ban đầu. Hãy chomáy bay
trinh sát kỹvào ban ngày"(5). Hàng ngày, cứ cách khoảng 3-4 tiếng máy bay
lại trinh sát trên vùng vịnh để tìm ra các vết dầu loang và các mảnh tàu bị vỡ
có thể do trúng hoả lực, những dấu hiệu của một cuộc tấn công chứ không chỉ là
một cuộc va chạm với các mục tiêu mà radar đã vạch ra.
Trong
đầu tôi, những bức điện này đã xoá đi hình ảnh một vở kịch được truyền "trực
tiếp" trong 2 giờ mà chúng tôi đang dõi theo. Thông tin mới này là một gáo
nước lạnh. Tới khoảng 3h, để đáp lại những yêu cầu gấp gáp cần được chứng thực,
Herrick đánh điện: "Các hoạt động chi tiếtthể hiện một bức tranhlộn xộn
cho dù chắcchắn trận phục kích banđầu là có thật". Nhưng làm sao anh ta có
thể chắc chắn về điều đó, hoặc tại sao, trước đó 1 giờ, khi anh ta dường như đã
đủ tự tin, thì không còn ai có những báo cáo tiếp theo chuyện về cho tới tận giờ?
Herrick
tiếp tục khẳng định, lúc 6 giờ Washington (5h sáng giờ vùng vịnh), chiếc thuyền
đầu tiên áp sát tàu Maddox có thể đã bắn một quả ngư lôi vào tàu Maddox (theo
âm thanh nghe thấy chứ không phải nhìn thấy). Tất cả các báo cáo về quả ngư lôi
bắn vào tàu Maddox đều bị nghi ngờ vì người ta đoán rằng do người điều khiển hệ
thống định vị âm thanh dưới nước đã bị nhầm khi nghe thấy tiếng đập chân vịt của
tàu. Vì thế sự thừa nhận của anh ta về những báo cáo đã gửi đi đều không đáng
tin cậy. Đống bằng chứng tới trong vài ngày dường như đã không có cuộc tấn công
nào xảy ra vào ngày 4-8; Năm 1967, các tài liệu dường như đều khẳng định không
có cuộc tấn công thứ hai, và năm 1971 tôi buộc phải tin vào sự ngờ vực này. Năm
1966, một bằng chứng đáng tin cậy của các sĩ quan Bắc Việt bị bắt từng tham gia
vào cuộc tấn công ngày 2 tháng tám đã bác bỏ bất cứ cuộc tấn công nào vào ngày
4-8. Cuối năm 1970, nhà báo Anthony Austin phát hiện và đưa cho tôi bằng chứng
khẳng định, cuộc tấn công ngày 4-8 có lẽ có liên quan tới cuộc tấn công ngày 2
tháng tám. Năm 1981, với những bằng chứng mới trong cuốn nhật ký của mình, nhà
báo Robert Scheer đã khẳng định với Herrick rằng báo cáo về quả ngư lôi đầu
tiên không được tìm thấy. Dẫu sao, ngày 4-8, từ những báo cáo được bảo đảm chuyện
tới cho Herrick, tôi kết luận rằng có thể đã có một cuộc tấn công dưới dạng nào
đó. Đúng lúc đó, rõ ràng đã có một cơ hội tốt mà lại không xảy ra. Chính thế mà
lời đề nghị tạm ngừng để điều tra trước khi thực hiện hành động của Herrick dường
như rất rõ ràng, ông ta nói ngắn gọn:"Quay tàu lại, chấm dứtẩu đả!".
Nhưng đó không phải là những gì được chuyển tải về Washington trưa ngày thứ tư
hôm đó.
Các
bức điện mới của Herrick đã không làm chậm tiến trình chuẩn bị cho một cuộc
không kích trả đũa nhanh chóng ở Washington và ở Thái Bình Dương, cụ thể hơn là
Vịnh Bắc Bộ.
Những
gì họ đã làm để khuyến khích cho công việc này là một loạt các cuộc điều tra
gây xôn xao để tìm bằng chứng, nhân chứng ủng hộ cho những hành động ban đầu của
cuộc tấn công hay ít ra để khẳng định một thực tế là đã có một cuộc diễn ra.
Vì
những việc này đã tới Washington nên Tổng thống đã triệu tập một cuộc họp với Hội
đồng An ninh quốc gia (NSC) cơ bản là để thông báo những hành động đã dự tính.
Tiếp đó, ông thông báo với các nhà lãnh đạo quốc hội. Các tàu sân bay đã vào vị
trí để thực hiện các chuyến bay càng sớm càng tốt vào sáng hôm đó. Giờ
Washington có thể vào khoảng từ 6h tối đến gần nửa đêm. Còn Tổng thống thì quyết
định nói với công chúng Mỹ về các cuộc tấn công của Mỹ ít nhiều như chúng đang
diễn ra.
Ông
ta không muốn họ biết về những cuộc không kích trên các bản tin buổi sáng của
ngày hôm sau, mà phải san nhiều giờ khi chúng diễn ra ở phía bên kia của thế giới
vào khoảng thời gian sớm hơn.
Hải
quân thấy quan ngại, vì không có cảnh báo của Tổng thống với các tay súng phòng
không của Việt Nam rằng một cuộc tấn công sẽ xảy ra, trước khi các máy bay rơi
vào tần số quét radar của Bắc Việt. Tổng thống nhất quyết không làm như thế.
Ông ta yêu cầu giờ bay lúc 7h tối, sau đổi sang 8h rồi đến 9h vì tàu sân bay
Constellation vẫn chưa tới được vị trí và chưa thông báo hết cho các phi công.
Tổng thống quyết định diễn thuyết trước 11h30 tối. Từ McNamara tới CINCPAC, (đô
đốc Sharp ở Hawaii đều đang chú ý xem, liệu Tổng thống có thể phát biểu trước khi
các máy bay tập trung ném bom các mục tiêu, hoặc khi những chiếc máy bay đầu
tiên bắt đầu thực hiện nhiệm vụ ông ta hỏi liệu chúng có thể bị radar phát hiện
ngay lập tức không(6), chính vì thế, sẽ không có lời phát biểu của ông ta sau
đó để có thể truyền tin tới Hà Nội? Câu trả lời là đúng thế, tuy nhiên Hà Nội sẽ
không biết được nơi các máy bay sẽ tới, nên ông ta có thể cắt bỏ một số mục
tiêu.
Lúc
này tôi đang ngồi với John McNaughton trong văn phòng cùng với Vụ trưởng Vụ
quan hệ Viễn Đông và các thành viên khác, đọc các bức điện từ các tàu sân bay
và CINCPAC để cố trả lời các câu hỏi của McNamara hoặc Nhà Trắng. Chiếc ti vi lớn
trong văn phòng của McNaughton vẫn mở, âm thanh sẽ được hạ xuống, nếu Tổng thống
quyết định tham gia vào chương trình này.
Nhiều
người đề nghị Tổng thống phát biểu chậm lại cho tới khi các máy bay vào tầm kiểm
soát của radar đối phương, nhưng đã quá muộn. Đô đốc Sharp nói với McNamara lúc
11h20 tối rằng tàu sân bay Ticonderoga đã phóng những chiếc máy bay và Tổng thống
vẫn nói trên ti vi lúc 11h37, ông ta thông báo "chiến dịch không quân
chínhthức bắt đầu"(7) cho dù thực tế Constellation vẫn chưa phóng máy bay
đi và chưa có chiếc máy bay nào tới bờ biển Bắc Việt hay vào tầm quét của
radar. Vì thế thông báo này đã là lời cảnh báo cho Hà Nội.
McNamara
tổ chức một cuộc họp báo ở Lầu Năm Góc ngay sau nửa đêm. Chúng tôi thức trắng cả
đêm ở văn phòng cùng với những đợt ném bom, để chuẩn bị cho cuộc họp báo của
McNamara vào ngày hôm sau. Ngày đầu tiên của tôi ở Lầu Năm Góc đã kéo dài suốt
24 giờ đồng hồ.
Thông
báo của Tổng thống và cuộc họp báo của McNamara vào cuối ngày 4-8 thông báo cho
công chúng Mỹ biết rằng Bắc Việt lần thứ hai trong ngày đã tấn công các tàu chiến
của Mỹ trên "đường tuần tra thuộc hải phận quốc tế"(8); rằng đây là một
hành động cố tình gây chiến mà không có căn cứ; rằng bằng chứng cho lần tấn
công thứ hai giống với lần thứ nhất là rõ ràng; rằng cuộc tấn công của Bắc Việt
không có nguyên nhân và rằng Mỹ đáp trả lại để ngăn chặn bất cứ sự tái diễn nào
và không có ý định mở rộng chiến tranh.
Vào
đêm ngày 4 hoặc trong vòng 1 đến 2 ngày, tôi nhận ra rằng mỗi lời thông báo này
đều sai sự thật.
"Không
rõ ràng?" Trong thông báo đầu tiên của Tổng thống và những lời phát biểu
chính thức sau đó đều ám chỉ rằng cuộc tấn công ngày 4-8 vào các tàu của chúng
tôi đã gây ra các cuộc không kích trả đũa là một thực tế giản đơn. Không có sự
cản trở chính thức nào từ phía Quốc hội, công chúng và ngay cả từ trong tư duy
của những nhà hải quân từng trải và các nhà nhân tích tình báo vào thời điểm trả
đũa của chúng tôi. Sớm hay muộn thì sự nghi ngờ vẫn đeo bám chặt lấy bằng chứng
cho rằng một cuộc tấn công đã xảy ra vào ngày 4-8 trong bất cứ trường hợp nào.
"Một
cuộc tuần tra thường ngày thuộc hải phận quốc tế?". Hai tàu khu trục đang
làm nhiệm vụ tình báo với mật danh cuộc tuần tra DESOTO, đã thâm nhập vào bên
trong nơi mà Bắc Việt coi là hải phận của họ. Chúng tôi khẳng định rằng Bắc Việt
đã công bố hải phận của họ giống như các quốc gia Cộng sản khác, 12 dặm tính từ
bờ biển và từ các hòn đảo của họ. Mỹ đã không thừa nhận ranh giới bị mở rộng
này, nhưng các tàu hải quân của Mỹ cũng đã được chỉ thị rõ ràng phải giữ khoảng
cách ít nhất 15 dặm từ các hòn đảo hoặc đất liền của Trung Quốc. Tuy nhiên, trước
sự kiện ngày 2 tháng tám, tàu Maddox đã thường xuyên ở khoảng cách 8 dặm từ đất
liền của Bắc Việt và 4 dặm từ các hòn đảo của họ. Mục đích của việc này cho thấy
chúng tôi không những đã bác bỏ những lời công bố về ranh giới của Bắc Việt mà
còn khiêu khích họ tấn công vào radar phòng thủ bờ biển để các tàu khu trục của
chúng tôi có thể đánh dấu được các khu vực phòng thủ của họ và chuẩn bị cho các
cuộc tấn công trên không hoặc trên biển. Bởi thế, hoàn toàn đúng khi nói cuộc tấn
công ngày 2 tháng tám xảy ra ở khoảng cách 28 dặm ngoài khơi, nhưng do có lời cảnh
báo về một cuộc tấn công sắp xảy ra khi tàu Maddox chỉ cách bờ biển Bắc Việt có
10 dặm đã làm chủ tàu phải thay đổi hải trình và quay đầu ra biển để các tàu có
ngư lôi bám đuổi theo.
"Vô
cớ?(9) Hà Nội công bố: các lực lượng "tay sai" của Mỹ đã nã pháo vào
2 hòn đảo ngoài khơi của họ là Hòn Me và Hòn Niêu đêm 30 và 31 tháng Bảy. Trong
các công bố công khai, Bộ Ngoại giao Mỹ đã phủ nhận mọi cuộc tấn công như thế
cũng như McNamara đã phủ nhận trong các cuộc họp báo ngày 4 và 5 tháng tám. Cuộc
tiếp kiến hơn hai ngày sau đó, Ngoại trưởng Mỹ, Dean Rusk và McNamara đã thừa
nhận các cuộc tấn công trên nhưng vẫn cho rằng đó thực sự không thể coi là những
khiêu khích của Mỹ mà chỉ là ý định khích lệ các cuộc phản công của Bắc Việt vì
đó hoàn toàn là các hoạt động của "người miền Nam" do hải quân nguỵ
tiến hành nhằm ngăn chặn sự xâm nhập của miền Bắc. Rusk nói rằng Mỹ ủng hộ và
đã biết trước hành động nhưng không cụ thể; có rất ít thông tin về vấn đề này ở
Washington. Chúng không có mối liên quan nào tới các đội tuần tra tàu khu trục
của chúng tôi, không có sự phối hợp nào và thực tế chỉ huy các tàu khu trục đều
không biết gì về các hoạt động đó. Điều đó chỉ rõ rằng trong bất cứ trường hợp
nào cũng đều không có cuộc oanh tạc như thế diễn ra, trong hoàn cảnh cuộc tấn
công thứ hai hoặc từ ngày 31 tháng Bảy. Giải pháp mà Quốc hội đang phải thông
qua nhanh chóng và gần như không có sự nhất trí, chẳng khác gì một cử chỉ ủng hộ
cho hành động của Tổng thống để thấy sự đoàn kết với Hà Nội và ngăn cản các cuộc
tấn công sau này vào các lực lượng của chúng ta. Các nhận định này đều không
đúng.
Nhận
công việc mới, tôi phải đọc những bản phiên mã hàng ngày, đồng thời rút kinh
nghiệm qua các bức điện, các báo cáo, các buổi thảo luận ở Lầu Năm Góc và thấy
mọi điều người ta nói với công chúng và Quốc hội đều là những lời nói dối.
Trong nhiều ngày, tôi biết rằng chỉ huy của các tàu khu trục không chỉ biết về
các cuộc oanh tạc bí mật mà còn yêu cầu đội tuần tra rút về hoặc kết thúc sau đợt
tấn công thứ nhất vào ngày 2 tháng tám vì họ đang chờ đợi các đợt tấn công trả
đũa. Yêu cầu của họ bị từ chối. Hơn nữa, tôi còn biết không hề có hoạt động nào
của quân nguỵ, kể cả các hoạt động chung. Chúng hoàn toàn là các hoạt động của
Mỹ với kế hoạch mật danh 34A. Các hoạt động chống thâm nhập của nguỵ quân mà
McNamara mô tả với Quốc hội hoàn toàn khác với những gì ông ta biết. Hà Nội cho
biết, trong các cuộc oanh tạc chống lại Bắc Việt, Mỹ đã sử dụng các tàu tuần
tra nhanh như Nasty (CIA mua từ Nauy), thuê các thuỷ thủ điều khiển mọi hoạt động
của kế hoạch. CIA tiến hành huấn luyện với sự giúp đỡ của hải quân Mỹ và tuyển
các tân thuỷ thủ; một số tân thuỷ thủ được tuyển từ hải quân Sài Gòn, một số
khác là nguồn của CIA từ Đài Loan và một số nơi ở châu Á cùng với các lính đánh
thuê trên khắp thế giới. Các hoạt động được tiến hành chủ yếu dưới sự điều khiển
của CIA nhưng hiện nay là sự kết hợp giữa CIA và MACV (Bộ Chỉ huy viện trợ quân
sự Mỹ tại Việt Nam) phối hợp với hải quân. Mặc dù, sử dụng nguồn nhân lực nước
ngoài để tạo nên sự tin cậy hơn nếu bị bắt, nhưng kế hoạch 34A thực sự là các
hoạt động của Mỹ cũng như cuộc tuần tra DESOTO của các tàu khu trục thuộc hải quân
Mỹ. Hơn nữa, Bắc Việt cũng không lầm khi tin rằng 2 kiểu hoạt động của Mỹ đã được
phối hợp ở các mức độ khác nhau. Kế hoạch DESOTO ở một lĩnh vực cụ thể thì lợi
ích được nhân đôi, nhưng trong kế hoạch radar bờ biển và ngăn chặn thông tin,
thì hoạt động tăng cường được tiến hành dọc theo các khu vực phòng thủ bờ biển
của Bắc Việt bằng các đọt oanh tạc theo kế hoạch 34A.
Theo
nhận thức của Washington, dựa vào những mô tả chi tiết của các hoạt động được định
trước, các quan chức cao cấp đã đọc và im lặng trước các kế hoạch đó. Tôi sớm
biết điều này, vì đúng tháng đó tôi tới làm người đưa tin và thường xuyên chuyện
các kế hoạch tối mật này tới các quan chức cao cấp để lấy chữ ký. Họ gồm: Thứ
trưởng Bộ Quốc phòng Cyrus Vance, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao L. Thompson và Cố vấn
An ninh quốc gia McGeorge Bundy trong Nhà Trắng. Họ đều nằm trong số các thành
viên của Uỷ ban 303, đã giám sát và tán thành với tất cả các hoạt động bí mật của
Tổng thống. Trong khi họ đọc các tài liệu, tôi ngồi trong văn phòng cùng với một
đại tá từ chi nhánh các hoạt động bí mật của Tham mưu trưởng liên quân người đã
đưa cho tôi tập hồ sơ này.
Sự
mâu thuẫn giữa những gì mà các thư ký của Uỷ ban đối ngoại Thượng viện và nói
cho các thượng nghị sỹ và những gì tôi mới được biết trong tuần đần tiên khi
làm nhân viên ở Lầu Năm Góc đang là điều rất cuốn hút. Người ta đang thúc giục
Thượng nghị sỹ Frank Church phải thừa nhận: "Chính phủ của chúng tôi đã
cung cấp các tàu thuyền này mà không hề biết chúng sẽ được sử dụng vào các cuộc
tấn công Bắc Việt"(10).
Ngoại
trưởng Rusk thì nói: "Theo nghĩa rộng hơn thì như thế, nhưng theo chi tiết
cụ thể thì chúng ta đã không theo đuổi việc này ngay từ ở Washington"(11).
Trái
ngược với sự phủ nhận này, tôi biết rất rõ rằng chi tiết cụ thể của các hoạt động
này đều được các nhà chức trách cao nhất ở Washington (cả quân sự và dân sự) biết
đến và tán thành.
Tiếp
theo các đợt oanh tạc tháng 8 là kế hoạch cho tháng chín.
Tôi
đem kế hoạch này sang cho Bộ Ngoại giao và Thứ trưởng Rusk, sau đó McG. Bundy
đã ký, gồm các hoạt động dự tính sẵn:
Bắt
hai đội hoạt độngtrong rừng, chuyển những ngườibị bắt để thẩm vấntừ 36-48 tiếng,
gỡ bỏbẫy treo với các thiếtbị chống ồn và giảithoát những người bị bắt,sau khi
thẩm vấn, thờigian phụ thuộc vào điềukiện thời tiết của biểnvà thông tin tình
báolúc đó, … Phá huỷtuyến đường I bằng độithâm nhập cùng với cácđội yểm trợ hoả
lựcđặt mìn nổ chậm đểchặn xe moóc, đặt mìnsát thương trên các hướng…Ném bom
chòi quan sátMũi Đao bằng cối 81và súng 40 ly từ2 tàu ngư lôi… Pháhuỷ đường xe
lửa HàNội-Vinh, đặt mìn nổ chậmvà mìn sát thương quanhkhu vực…(12)
Một
số các chi tiết hoạt động, như đặt các vũ khí sát thương và các băng đạn cối 81
ly, dường như không đáng để các quan chức quan tâm chú ý tới, nhưng đây là cuộc
chiến duy nhất mà chúng ta cần tới những thứ vũ khí đó. Dĩ nhiên đó mới chính
xác là bản chất "nhạy cảm" của các hoạt động - sự bất hợp pháp, sự
nguy hiểm của việc vạch trần sự thật, leo thang và bí mật… - điều này đòi hỏi
các quan chức cao cấp phải lừa dối Thượng nghị viện nếu các vấn đề gia tăng và
vì thế, cần phải có sự am hiểu và chỉ đạo những gì mà họ thấy cần phải lừa dối.
Đây
cũng chưa phải là điểm kết trong sự phối hợp ở Washington. Cứ sau một kế hoạch
tháng giống như thế được chấp thuận tướng Westmoreland, Tư lệnh quân đội Mỹ ở
Việt Nam lại yêu cầu được phép thực thi từng nhiệm vụ riêng rẽ và tôi lại phải
đem kế hoạch đến các nơi để xin ý kiến. Khi một cuộc tấn công dự tính cho tháng
sau được đề đệ trình tới Washington - thời gian chính xác sẽ phụ thuộc vào các
điều kiện thời tiết và biển - thực tế và kết quả sẽ được báo cáo trở lại
Washington trước khi một cuộc tấn công khác được Washington chấp nhận. Ngày 2
tháng tám, trong cuộc họp vào sáng chủ nhật, Tổng thống Johnson nhận được tin
báo về cuộc tấn công tàu Maddox ngay ban ngày, một cuộc thảo luận đã diễn ra, nội
dung chủ yếu về kết quả của các cuộc tấn công bí mật ngày 31 tháng Bảy vào các
hòn đảo Tổng thống với tư cách cá nhân đã chấp nhận các đợt oanh kích bí mật
sau đó, vàn các đêm ngày 3 và 5 tháng tám.
Tối
ngày 4, tại một cuộc họp của NSC, Tổng thống hỏi: "Có phải họ muốn chiến
tranh bằng cách tấn công các tàu của chúng ta ngay giữa Vịnh Bắc Bộ?"(13)
Giám đốc Cục Tình báo John McCone trả lời: "Không. Bắc Việt đang phản ứng
theo kiểu tự vệ đối với cuộc tấn công của chúng ta vào các hòn đảo ngoài khơi của
họ". Ông ta đề cập tới các cuộc oanh kích ngày 31 tháng Bảy, nhưng câu trả
lời của ông ta lại hàm ý về cuộc tấn công theo giả định sáng hôm đó, sau đó có
thêm một cuộc tấn công khác lần này vào đất liền của Bắc Việt và vào đêm hôm
trước.
Nhận
định này không ngăn cản được Tổng thống thúc giục Quốc hội phải thông qua nghị
quyết ngay ngày hôm sau: "Chúng ta đã đáp lại vụ khiêu khích vô cớ của họ…
"
Ngày
7 tháng tám, Quốc hội thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ: "Quốc hội tán
thành vàủng hộ quyết định củaTổng thống theo yêu cầucủa Tổng Tư lệnh làáp dụng
mọi biện phápcần thiết để đẩy lùicác đọt tấn công cóvũ trang chống lại cáclực
lượng của Mỹ vàcòn nhằm ngăn ngừa sựgây chiến tiếp theo… Mỹ…đã chuẩn bị. Theo
quyếtđịnh của Tổng thống làtiến hành mọi bước cầnthiết, bao gồm cả việcsử dụng
lực lượng vũtrang để trợ giúp bấtcứ nước thành viên nàotheo yêu cầu của Hiệpước
phòng thủ chung ĐôngNam Á nhằm bảo vệnền tự do của nướcđó".(14) có một số
lo ngại liên quan tới sự không rõ ràng của nghị quyết do chính phủ soạn thảo.
Thượng nghị sỹ W. Morse gọi đó là một tuyên bố giật lùi của cuộc chiến tranh.
Thượng nghị sỹ G. Nelson đưa ra một ý kiến bổ sung nhằm giải thích cho một ý kiến
trong Quốc hội là: "Chính sách tiếp theo là phải hạn chế vai trò của chúng
ta trong việc cung cấp viện trợ, huấn luyện và cố vấn quân sự", và
"chúng ta sẽ tiếp tục tìm cách tránh một cuộc can thiệp quân sự trực tiếp ở
Đông Nam Á". Thượng nghị sỹ Fulbright, người chỉ đạo việc thông qua nghị
quyết trong Thượng viện nói: "Tôi tin ý kiến bổ sung này "được chấp
nhận" như "một sự phản ánh chính xác những gì tôi tin là chính sách của
Tổng thống". Ông ta bác bỏ nó chỉ vì (khi Johnson có căng thẳng với ông ta
về chuyện riêng) sự chậm trễ trong việc giải quyết các bất đồng về ngôn ngữ giữa
Thượng nghị viện và Hạ nghị viện sẽ làm giảm đi hình ảnh ủng hộ của một quốc
gia thống nhất cho các hành động gần đây của Tổng thống. Vào lúc này, có thông
báo cho rằng Hạ nghị viện đã thông qua nghị quyết 4 16 ngay sau 40 phút tranh
luận. Fulbright hy vọng Thượng viện cũng sẽ có sự nhất trí đó. Ngay sau đó, Thượng
viện bỏ phiếu 2/88, nghĩa là chỉ có 2 Thượng nghị sỹ là Morse và Ernest
Gruening bỏ phiếu chống lại.
Một
số Thượng nghị sỹ là G. McGovern, F. Church, Albert Gore và J. Cooper, đã bày tỏ
cùng mối quan tâm như Nelson.
Fulbright
thừa nhận rằng riêng vấn đề ngôn ngữ đã đủ rộng lớn để cho phép Tổng thống tiến
hành can thiệp trực tiếp trên chiến trường gồm các sư đoàn bộ binh Mỹ đó chính
là những gì làm họ phải lo lắng. Nhưng họ chấp nhận những đảm bảo của Fulbright
rằng không có sự tính toán nào trong chính phủ về việc sử dụng nghị quyết này
như một uỷ quyền để thay đổi vai trò của Mỹ trong cuộc chiến tranh. Ông ta
không hề nghi ngờ rằng Tổng thống sẽ tham khảo ý kiến Quốc hội trong trường hợp
cần thiết có một thay đổi lớn trong chính sách hiện tại. Phần lớn những người
theo Đảng Dân chủ cho rằng nghị quyết này chính là cách để thu hút sự ủng hộ của
hai đảng phái chính trị cho hành động mạnh tay của Tổng thống, cắt giảm chiến dịch
Goldwater công bố, Johnson không đáng tin trong các mối quan hệ ngoại giao và
không quyết đoán về vấn đề Việt Nam, vì vậy, đã giúp đánh bại Goldwater, họ thấy
sự ủng hộ của họ cho nghị quyết này như một cách để tránh leo thang ở Việt Nam,
mà chỉ có Goldwater là đầy hứa hẹn.
Nhưng
tất cả đảm bảo của Fulbright đều không có căn cứ giống như của Johnson, Rusk và
McNamara. Chỉ khác một điều là ông ta đã không biết về điều đó. Ông ta bị lừa dối
và ngược lại ông ta đã lừa dối lại Thượng viện mà không thành văn. Tất cả những
lừa dối này có ý nghĩa quan trọng hơn hẳn.
Chúng
ta tìm cách để tránh mở rộng chiến tranh? Chính Tổng thống Mỹ, mùa hè năm đó đã
bí mật và thẳng thắn đe doạ Hà Nội bằng một cuộc chiến tranh rộng hơn chống lại
chính quyền Bắc Việt nếu các nhà lãnh đạo của Bắc Việt không tiến hành các bước
để kết thúc cuộc xung đột mà không ai trong chính quyền nghĩ rằng họ có thể làm
như thế. Các bức điện của John cho Hồ Chí Minh thông qua một người trung gian
người Canada cũng cho thấy một lời cảnh báo bí mật của Tổng thống Mỹ với các
nhà lãnh đạo Hà Nội là sẽ mở rộng chiến tranh nếu họ không chấm dứt được xung đột.
Những
lời cảnh báo được chuyển tới Bắc Việt qua Blair Seaborn, người Canada, một
thành viên của Uỷ ban Giám sát quốc tế (ICC) tổ chức này được thành lập để giám
sát quy tắc của các Hiệp ước Geneva 1954 và 1962. Trong cuộc gặp đầu tiên ở Hà
Nội ngày 18 tháng tám, ông ta đã gặp riêng Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Seaborn đã
chuyển tiếp lời cảnh báo của các quan chức Mỹ phối hợp với người Canada rằng:
"Sự kiên nhẫn của quan chức và công chúng Mỹ đối với sự khiêu khích của Bắc
Việt đang dần suy giảm" và nếu cuộc xung đột vẫn tiếp tục leo thang thì
"tất nhiên chính Bắc Việt sẽ phải gánh chịu hậu quả to lớn".(15)
Trong
số những người ủng hộ những lời cảnh báo này, chủ yếu là các cố vấn dân sự và
quân sự của Tổng thống, không ai dám coi đó là những trò bịp bợm. Tham mưu trưởng
liên quân được chỉ định trực tiếp chuẩn bị các kế hoạch chi tiết cho các đợt tấn
công vào Bắc Việt. Cuối tháng Năm kế hoạch được hoàn thành với 94 mục tiêu. Các
mục tiêu trả thù được lựa chọn rất nhanh chóng từ danh sách 94 mục tiêu trên,
vào ngày 5 tháng tám. Cả kế hoạch và lời cảnh báo của viên trung gian người
Canada đã gây chú ý trong bản thảo chi tiết được thống nhất trong chính phủ kể
từ tháng Ba và tháng tư - gần đây nhất là ngày 23 tháng Năm - dẫn tới cuộc tấn
công bằng không quân "ngày D" vào Bắc Việt(16), và tiếp tục tới khi
chủ nghĩa khủng bố, các cuộc tấn công vũ trang, kháng chiến vũ trang chống lại
những nỗ lực bình định của Mỹ ở miền Nam chấm dứt". Yếu tố quan trọng khác
là đặt kế hoạch cho 20 ngày trước khi các cuộc tấn công bắt đầu (D-20):
"Duy trì được giải pháp chung (từ Quốc hội) tán thành việc thông qua các
hành động và uỷ quyền cho bất cứ việc gì cần thiết liên quan tới Việt
Nam".
Mặc
dù bản thảo chi tiết 30 ngày phải hoãn lại vào cuối tháng Năm vì các cố vấn cao
cấp của Tổng thống, nhưng họ đã đệ trình lên ông ta gần như tất cả các khoản mục
của bản thảo. Họ còn dự tính một cuộc không kích chống lại Bắc Việt nhằm tăng tầm
quan trọng của lời cảnh báo bí mật. Điều này đi kèm với lời đề nghị của Đại sứ
Mỹ, H. Lodge tại Sài Gòn, ủng hộ mạnh mẽ các đợt tấn công miền Bắc, người đã sớm
đưa ra ý tưởng chuyện lời cảnh báo thông qua người Canada. Ngày 15 tháng Năm,
trong một bức điện gửi tới Tổng thống, Lodge cho rằng:
"Nếu
trước chuyến đi của người Canada tới Hà Nội mà có một hành động khủng bố về tầm
quan trọng đích thực, thì một mục tiêu cụ thể ở Bắc Việt sẽ được coi như sự khởi
đầu cho sự có mặt của Tổng thống ở đó… "(17)
Điều
này đã không xảy ra trước chuyện thăm đầu tiên của Seaborn tới Hà Nội vào tháng
Sáu. Chuyện thăm thứ hai của ông ta được dự tính vào ngày 10 tháng tám. Các sự
kiện từ ngày 2 đến ngày 7 tháng tám cho phép Mỹ chỉ ra rằng, trong trường hợp
có bất cứ sự nghi ngờ nào ở Hà Nội, lời cảnh báo đó đều có nghĩa theo các điều
khoản cụ thể. Hơn nữa, cuộc thảo luận thứ hai cho phép chính quyền hiểu rõ những
gì có thể thực thi với giới chức trách mà Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ đã thừa nhận để
Hà Nội khỏi bị lừa dối bởi những gì mà Thượng nghị sỹ Fulbright đã giải thích
cho các đồng nghiệp phái Dân chủ của ông ta.
Cuối
cùng là cấp trên của tôi, John McNaughton, được yêu cầu đưa ra những ý kiến cho
chuyến đi ngày 10 tháng tám của Seaborn. Đó cũng là điều vì sao McNaughton quyết
định nói với tôi và cho tôi xem tập hồ sơ về tiến trình hăm doạ, mô tả nó như một
trong những điều tuyệt mật của chính phủ. Ông ta nói với tôi rằng tôi không được
để lộ việc này với ai, kể cả những người cấp dưới thân cận với ông ta. Một lý
do về sự bí mật trong thông tin mà McNaughton cho tôi biết là: đó là vai trò rất
mập mờ của một thành viên ICC đang khảo sát những nguy cơ của Mỹ đối với Hà Nội.
(Và việc có một người trung gian là cần thiết vì Mỹ không hề có một đại diện
chính thức hay mối liên lạc nào với chính quyền Hà Nội). Vai trò đó tới các
thành viên của ICC, Phần Lan và Ấn Độ, hay tới Nghị viện Canada đều không thể
biết, vì thế sẽ không thể chấp nhận nó nhanh như chấp nhận Phó Thủ tướng
Canada, Lester Pearson.
Điều
nhạy cảm nhất của thông tin này là lời cảnh báo của Tổng thống tới các nhà lãnh
đạo phía đối phương đã tới rất gần buộc ông ta phải tham gia vào tiến trình
hành động mà đối thủ cộng hoà của ông ta, Thượng nghị sỹ Goldwater đang chủ
trương ủng hộ còn Tổng thống Johnson đang phản đối và miêu tả chiến dịch này
như một sự liều lĩnh đáng sợ. Mặt khác, nó đặt những ý đồ của chính quyền liên
quan tới Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ trong một nguyên tắc hoàn toàn khác với những
gì Quốc hội được thông báo. Thực tế, ngày 7 tháng tám, khi Quốc hội đang bỏ phiếu
cho Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, J.McNaughton cũng đang nêu ra các ý kiến trong bức
thông điệp mà Seaborn sẽ chuyến đi. Ý kiến được chính quyền và những người
Canada chấp nhận, yêu cầu Seaborn kết luận những đánh giá của anh ta theo các
điểm sau:
1.
Các sự kiện trong ít ngày qua sẽ thêm vào lời tuyên bố lần trước rằng: "Sự
kiên nhẫn của quan chức và công chúng Mỹ với sự hiếu chiến của Bắc Việt đang
ngày càng giảm đi"(18).
2.
Nghị quyết Quốc hội được thông qua với hầu hết sự nhất trí khẳng định mạnh mẽ sự
thống nhất và quyết tâm của chính phủ và nhân dân Mỹ không chỉ liên quan tới
các cuộc tấn công sau này vào các lực lượng quân sự của Mỹ mà còn rộng hơn là
kiên quyết dùng mọi biện pháp cần thiết chống lại những nỗ lực phá hoại và xâm
chiếm miền Nam Việt Nam và Lào của Bắc Việt.
3.
Mỹ đi tới kết luận rằng vai trò của Bắc Việt ở miền Nam Việt Nam và Lào là rất
quan trọng. Nếu Bắc Việt vẫn kiên quyết thực hiện ý đồ, Bắc Việt có thể phải
gánh chịu những hậu quả.
Phản
ứng của ông Phạm Văn Đồng ngày 13 tháng tám, theo báo cáo của Bộ Ngoại giao là
"rất tức giận" và lạnh lùng, không nhượng bộ như trong chuyện thăm đầu
tiên. Sau đó, ông Đồng nói triển vọng của Mỹ và quân đồng minh ở miền Nam Việt
Nam là "không có"(19): không lối thoát, một kết cục thảm bại. Giờ
đây, hậu quả của những trận oanh tạc của Mỹ, ông nói, Mỹ đã nhận thấy "cần
thiết phải đưa chiến tranh ra miền Bắc để tìm một lối thoát khỏi tình trạng bế
tắc… ở miền Nam"(20).
Ông
Đồng đã nhận được bức thông điệp. (Nhưng bức thông điệp đó vẫn còn là một bí mật
với cử tri, Quốc hội Mỹ tới tận 8 tháng sau). Một cuộc chiến tranh lớn hơn sắp
diễn ra.
Chú
thích:
(l)
"Tôi bị ngư lôitấn công liên tiếp" -trích trong cuốn "Trận đánhảo
tưởng dẫn tới cuộcchiến tranh", tr.62.
(2)
"Bất cứ một hànhđộng quân sự nào chốnglại các lực lượng củaMỹ… " -
Austin tríchdẫn, tr.27.
9h42
chiều ở Vịnh BắcBộ: Những tài liệu khácnhau đưa ra những thờiđiểm khác nhau cho
cácbức điện, phản ánh cáckhu vực thời gian khácnhau ở Đông Nam Á- theo các thuật
ngữbên hải quân là giờGolf, Hotel và India. Ởđây tôi sử dụng giờGolf cho tàu chỉ
huycủa Herrick ngoài khơi BắcViệt, sớm hơn giờ Washington11 tiếng. (Sài Gòn
làgiờ Hotel sớm hơn giờWashington 12 tiếng; nhiều tàiliệu sử dụng như trênđể
thuận lợi cho việcmiêu tả). Về các khuvực thời gian, xem Moise,tr 63-64.
(3)
"Các quả ngư lôitrượt ra ngoài" - tríchtrong cuốn "Trận đánh ảotưởng
dẫn tới cuộc chiếntranh", tr. 62.
(4)
"Hành động lặp lạiđã tạo ra nhiều cuộcđụng độ như đã báocáo" - Moise
trích dẫn,tr. 143.
(5)
"Toàn bộ hành độngđã đem lại nhiều sựnghi ngờ": Sách đã dẫn(Sđd).
Herrick
đánh điện: Tài liệuLầu Năm Góc, (sau đâyviết tắt là Tài liệuLầu Năm Góc) Gravel
xuấtbản, tập 3, tr. 185.Scheer, 22. Xem Moise, tr177.
(6)
Liệu chúng có thểbị radar phát hiện ngaylập tức không? Moise.
(7)
"Chiến dịch không quânchính thức bắt đầu" -Austin trích dẫn, tr 47.
(8)
"Đường tuần tra thuộchải phận quốc tế": Sifftrích dẫn, tr. 117.
(9)
"Vô cớ" Sđd, tr.119.
(10)
"Chính phủ của chúngtôi đã cung cấp cáctàu thuyền này", trích
trongTài liệu Lầu Năm Góc,Bantam xuất bản, tr. 266.
(11)
"Theo nghĩa rộng hơnthì như thế" - Sđd.
(12)
"Bắt 2 đội hoạtđộng trong rừng": Tài liệuLầu Năm Góc, Gravel xuấtbản,
tập 3, tr. 553-54.
(13)
(14): Với tư cáchcá nhân Tổng thống đãchấp nhận các đợt oanhkích bí mật sau
đó:Moise trích dẫn, tr. 104-4.
"Có
phải họ muốn chiếntranh bằng cách tấn côngcác tàu của chúng ta":Kahin
trích dẫn, tr.224.
"Quốc
hội tán thành vàủng hộ": Siff trích dẫn,tr. 115.
(15):
"Không hề nghi ngờrằng": Austin trích dẫn, tr.88.
"Sự
kiên nhẫn của quanchức và công chúng Mỹ":Herring trích dẫn, tr.22.
(16)
Cuộc tấn công khôngquân "ngày D": Tài liệuLầu Năm Góc, Gravel xuấtbản,
tập 3, tr 167-68.
(17)
"Nếu trước chuyến đicủa người Canada": Hemng tríchdẫn, tr.17.
(18)
"Các sự kiện trongít ngày qua": Tài liệuLầu Năm Góc, Gravel xuấtbản,
tập 3, tr. 519.
(
19) (20) "Không có":Herring trích dẫn, tr. 32.
"Cần
thiết phải": Sđd, tr.8.
Chương
3. Người chiến binh của chiến tranh lạnh, người giữ bí mật.
Sau
phần giới thiệu không mấy sáng sủa của tôi về vấn đề Việt Nam năm 1961, tôi đã
tránh được vấn đề này khi là cố vấn Quốc phòng trong 3 năm tiếp theo. Điều đó
thật đơn giản.
Nhiệm
vụ trọng tâm của tôi, với tư cách là một nhà phân tích của Công ty Rand và là cố
vấn cho Washington, vẫn là những gì đã có từ 3 năm trước: tránh cuộc chiến
tranh hạt nhân tổng thể, trong bối cảnh của cuộc chiến tranh lạnh. Chuyến đi ngắn
ngày của tôi tới Đông Nam Á cũng liên quan tới điều này. Đó là một phần của
công trình nghiên cứu và phát triển các loại vũ khí thông thường trong các cuộc
chiến tranh, nhằm hạn chế sự đeo đuổi của chính quyền Eisenhower đối với các loại
vũ khí hạt nhân dùng cho tất cả các cuộc xung đột. Nhưng với tôi, đó là một trò
chơi hiếm thấy đối với các vấn đề tôi quan tâm cũng như các vấn đề mà tôi đã
nghiên cứu, về việc ngăn ngừa một cuộc tấn công hạt nhân bất ngờ của Liên Xô và
tránh được sự bùng nổ tai hại của chiến tranh hạt nhân. Mặc dù, tôi được mời để
bàn chuyện và tham gia vào các cuộc thảo luận về chính sách trong phạm vi các
cơ quan của chính phủ ở Washington, tất cả đều về chủ đề vũ khí hạt nhân và
cách phòng ngừa, nhlng không một ai hỏi ý kiến của tôi cũng như nhờ tôi giúp một
tay vào chính sách về Việt Nam. Điều này nằm ngoài phạm vi của tôi và tôi cảm
thấy vui khi tiếp tục theo con đường đó.
Nhưng
đến giữa năm 1964, tôi chấp nhận lời đề nghị rời khỏi Rand để đến Bộ Quốc phòng
làm cố vấn cho một quan chức cấp cao có nhiệm vụ hoạch định chính sách về Việt
Nam. Điều này cần phải giải thích thêm. Tôi không có mối quan tâm nào mới về Việt
Nam, cũng như không có được thái độ lạc quan hơn vào những triển vọng của chúng
ta ở đó. Một sự trái ngược hoàn toàn; trong nhiều tuần với công việc mới, những
thứ tôi được đọc trong các bức điện mật từ đại sứ quán của chúng ta ở Sài Gòn gửi
về đã khẳng định những nghi ngờ xấu nhất của tôi về tình hình ở đó và vì thế đã
không có gì là bất ngờ. Vậy tại sao với nhiều vị trí có thể chọn lựa trong
chính phủ, tôi lại chọn một công việc với toàn những điện tín đặc biệt, ảm đạm
này? Điều gì đã đẩy con cá ươn vào đĩa ăn của tôi?
Theo
tôi thì đó là công việc nghiên cứu. Cho dù bề ngoài có vẻ không rõ ràng nhưng
đó là việc nghiên cứu đã được xác định nhằm một kết cục tương tự như những gì
diễn ra 6 năm trước, đó là tránh chiến tranh hạt nhân. Chắc chắn, tôi không thể
ngờ được rằng 3 năm sau chuyến đi của tôi tới Việt Nam, giờ đây tôi sẽ phải làm
việc 70 giờ 1 tuần ở Lầu Năm Góc để giúp đất nước chúng ta dính líu vào cuộc
chiến tranh ở đó. Những gì tôi đã làm trong hơn 6 năm trước chuyến đi đó, chuẩn
bị cho một cuộc chiến tranh hạt nhân tổng thể. Thật là mỉa mai cho tôi đối với
công việc này vì việc làm đó lại bắt nguồn từ tình cảm của lôi kể từ khi tôi
còn là một đứa trẻ trong Thế chiến II - việc ném bom vào dân thường và sự ghê tởm
của tôi về các loại vũ khí hạt nhân giống như những quả bom đã được ném xuống
vào lúc kết thúc chiến tranh. Thái độ mà tôi thể hiện bằng phản ứng chống lại
cuộc chiến tranh Việt Nam, đã trở thành công việc thường ngày trong cuộc sống của
tôi, vì thế cũng chẳng có vấn đề gì nếu nó lại thay đổi vào giai đoạn giữa của
cuộc đời.
Tôi
sinh năm 1931 ở Chicago, nơi cha mẹ tôi đã nghỉ việc khi là kiến trúc sư. Chúng
tôi chuyển tới Springfield, Illinois, khi tôi 5 tuổi và tới Detroit mấy năm sau
đó. Tôi nhớ như in thông báo của đài phát thanh về cuộc tấn công vào tàu chiến
của chúng ta ở Trân Châu Cảng khi tôi 10 tuổi, san sự việc đó cha tôi đã giành
những năm trong chiến tranh để thiết kế các nhà máy chế tạo bom. Tôi nhớ rất rõ
những đoạn phim sinh động, những bản thông báo trên đài về trận ném bom, chủ yếu
vào dân thường, hai năm trước đó. Những đoạn phim thời sự về các trận ném bom của
phát xít Đức vào Ba Lan, Stukas giết hại những gia đình tị nạn và những đứa trẻ
trên đường phố, phá huỷ toàn bộ trung tâm thành phố Rotterdam, và đặc biệt là
cuộc oanh tạc chớp nhoáng vào London đã làm cho tôi thấy rõ bản chất của chủ
nghĩa Quốc xã. Không thể là gì khác, không chỉ là sự xâm lược của Đức, những cuộc
tấn công bất ngờ, dữ dội, sự hành hạ người Do Thái trước chiến tranh (Tôi không
biết gì về kế hoạch huỷ diệt trong chiến tranh), tất cả dường như rất rõ ràng
đó là một tội ác, khi người ta cố tình ném bom vào phụ nữ và trẻ em. Đấy là
không kể tới những trại tập trung mà tôi từng biết sẽ sẵn sàng nhấn chìm cả gia
đình tôi nếu chúng tôi ở Đức. (Mặc dù cha mẹ tôi sinh ra ở Mỹ, lớn lên ở Denver
trong các gia đình không theo tôn giáo, ông bà nội, ngoại của tôi đều là người
Do Thái di cư từ Nga sang vào cuối những năm 1880. Mẹ tôi đã trở thành một người
Khoa học Thiên Chúa trước khi lấy cha tôi, một người goá vợ mà bà biết khi ông
còn trẻ ở Denver, cha tôi hết lòng khích lệ bà theo tôn giáo đó trước khi sinh
ra tôi. Có lần cha tôi nói với tôi, chúng ta vẫn là người Do Thái, cho dù
"không theo tôn giáo nào". Tôi đã lớn lên như là một người theo Thiên
Chúa giáo, trong một gia đình hoàn toàn mộ đạo theo Thiên Chúa dòng Sience,
nhưng điều đó cũng không làm chúng tôi mất đi cái gốc của người Do Thái trong
con mắt của cha mẹ tôi, hoặc như tôi biết, là trong con mắt của bọn Quốc xã).
Ở
trường tiểu học, sau vụ Trân Châu Cảng, chúng tôi đã học những bài về không
kích. Một hôm thầy giáo cho chúng tôi xem một bộ phim về cuộc oanh tạc chớp
nhoáng vào London và giới thiệu cho chúng tôi mẫu của một quả bom có ngòi nổ ngắn,
mảnh, ánh bạc được sử dụng để khởi động và phát lửa. Chúng tôi được thầy giáo
cho biết đây là một quả bom từ trường, khi cháy, nước cũng không dập tắt được.
Phải dùng cát để dập tắt nhằm giữ cho ôxy không lọt được vào bên trong. Mỗi
phòng học trong trường đều có một thùng lớn đầy cát để đề phòng loại bom này.
Tôi
đã làm như vậy vì đó là cách giúp chúng tôi phân biệt nỗ lực chiến tranh, giống
như những tấm rèm che trên các ô cửa sổ, mà người quan sát và người bảo vệ cuộc
không kích ở trong mỗi toà nhà đó, từ đó khả năng thâm nhập của các máy bay ném
bom của Nhật Bản hay của Đức vào Detroit dường như rất nhỏ bé, khi nhìn lại.
Nhưng khái niệm về bom từ trường đã gây cho tôi ấn tượng rất mạnh mẽ. Thật rùng
rợn khi nghĩ về những con người đã chế tạo và ném xuống đầu người khác một chất
cháy không dễ gì có thể dập tắt, một mảnh của nó, chúng tôi được nghe nói lại,
sẽ đốt cháy da thịt vào đến tận xương tuỷ và cứ thế cháy mãi không tắt. Với
tôi, thật khó có thể chấp nhận những người đã đang tâm giết chết trẻ em theo
cách đó. Thế nhưng mọi việc vẫn diễn ra.
Sau
này những thước phim thời sự đưa tin về các máy bay ném bom của Mỹ và Anh đã
dũng cảm bay qua hệ thống hoả lực phòng không để ném bom vào các mục tiêu ở Đức.
Tôi không được biết trước là họ đã thường ném những quả bom giống như những quả
bom mẫu mà chúng tôi đã được học trong trường hoặc có những chất có tính năng
tương tự là có thể bám vào da thịt, cháy mãi như chất phốt pho trắng và sau này
lànapan. Chúng tôi không xem phim về những gì đang diễn ra đối với người dân ở
dưới tầm ngắm của các máy bay ném bom của chúng ta hay trong những cơn bão lửa ở
Hamburg, Dresden hay Tokyo. Chúng tôi đã tin vào những gì đã được học rằng: đó
là các trận ném bom chính xác vào ban ngày của chúng tôi bằng máy ngắm mục tiêu
của người Bắc Âu chỉ nhằm vào các nhà máy sản xuất vũ khí và các mục tiêu quân
sự, mặc dù một vài dân thường vẫn vô tình bị trúng bom. Các nhà lãnh đạo nước
Anh thường nói với công chúng của họ điều tương tự về các vụ ném bom đánh dấu sẵn
mục tiêu vào ban đêm của Anh, nhưng đó là một sự lừa dối hoàn toàn. Sự bí mật
và những lời nói dối có tính chất chính thức đã che đậy một chiến dịch cố tình
ném bom khủng bố của Anh nhằm trực tiếp vào khu dân cư, trong đó Mỹ đã tham gia
ném bom Đức và Nhật những năm sau này.
Tôi
đã không biết, một cách vắn tắt, là vào thời gian đó làm thế nào chúng ta lại bắt
chước theo những bài thực hành ném bom của phát xít Đức, đặc biệt là trận ném
bom thiêu trụi các thành phố của Nhật Bản. Tuy nhiên, không phải vô tình mà những
năm sau này tôi đã nghiên cứu về lịch sử của việc ném bom chiến lược, trong đó
có cả công trình nghiên cứu ném bom chiến lược của Mỹ được đánh giá là khá chi
tiết. Tôi thấy đồng tình với các kết luận của nhiều nhà phê bình rằng không phải
loại bom khủng bố hay bom "chính xác" của các nhà máy sản xuất đã góp
phần quyết định rút ngắn thời gian tiến hành chiến tranh, sau khi đã cân nhắc mọi
mặt, trong khi các loại ném bom trước đây, theo tất cả các tiêu chuẩn cũ, vẫn
rõ ràng là một tội phạm chiến tranh, và đã được dùng qui tội cho chúng ta cũng
như cho phát xít Đức. Thậm chí trước đó, mục tiêu nhầm lẫn ném bom vào dân thường
ở Hirosima và Nagasaki đã khiến tôi, vào cuối cuộc chiến có những suy nghĩ vô
cùng trái ngược về quyền sở hữu của chúng ta về các loại vũ khí nguyên tử, mà
như tất cả những gì đã nói trên, thì đều là những công cụ của việc ném bom khủng
bố. Khi nghiên cứu tiếp tục về vấn đề đó tôi đã có thái độ hoài nghi lâu dài với
những tuyên bố của những người bào chữa cho phương thức ném bom chiến lược, ở
Việt Nam hay ở bất cứ đâu. Nhưng 15 năm sau chính tôi lại phải viết đề cương
cho các kế hoạch chiến tranh, trong đó bao gồm cả khả năng tiến hành các cuộc tấn
công trả đũa bằng các loại vũ khí hạt nhân vào các thành phố.
Một
yếu tố chỉ rõ nghịch lý trên khi tôi thực hiện chuyển sang Việt Nam là tôi đã
trở thành một chiến binh của Chiến tranh lạnh ở cuối độ tuổi đôi mươi cùng với
nhiều người Mỹ khác.
Điều
này không phải vì tôi lớn lên, trở thành một người theo đảng Bảo thủ như cha
tôi. Tôi là một người Dân chủ của Chiến tranh lạnh, là người Dân chủ tự do,
luôn tôn trọng F. Roosevelt vì vai trò của ông ta ở New Deal và trong Đại chiến
thế giới II, luôn tin tưởng vào sự nghiệp của các nghiệp đoàn và quyền công
dân. Tôi có được sự quan tâm sau này là xuất phát từ anh trai tôi, Harry, hơn
tôi 11 tuổi, người đã trở thành người cấp tiến thời kỳ Đại suy thoái. Khi tôi học
năm cuối ở trường trung học, Harry đưa cho tôi một cuốn sách kinh tế vào dịp
Noel và làm tôi bị lôi cuốn vào cuộc đấu tranh của người lao động. Lúc đó tôi
là sinh viên được hưởng học bổng toàn phần ở trường Cranbrook, đồi Bloomfield,
nơi nhiều phụ huynh là uỷ viên quản trị của tập đoàn xe hơi Detroit, những người
đứng ở phía bên kia của cuộc đấu tranh; nhưng khi tôi tốt nghiệp tháng Sáu năm
1948, thần tượng của tôi là Walter Reuther, vì thế tôi tha thiết được tham gia
vào tổ chức những người công nhân ô tô hợp nhất của ông và làm việc trong một
xưởng tự động hoá mùa hè năm đó trước khi tôi vào đại học.
Tôi
cần cha tôi cho phép để tham gia vào tổ chức này ở tuổi 17.
Cha
tôi là người theo đảng Cộng hoà và chống tư tưởng hợp nhất, nhưng ông đã cho
phép và tôi được giao vận hành một máy đột nhập vào ban đêm và tham gia các
phiên họp của nghiệp đoàn.
Tôi
giành được suất học bổng 4 năm của Công ty Pepsi-Cola vào một trường đại học
theo sự lựa chọn và tôi chọn Harvard vì tôi được biết, khoa kinh tế của trường
này rất chất lượng. Tôi học chuyên về kinh tế ở Harvard, chuyên ngành lao động,
với ý định trở thành một người tổ chức lao động hoặc một nhà kinh tế học nghiệp
đoàn.
Nhận
thức của tôi về chính sách ngoại giao sau chiến tranh bắt đầu cùng lúc khi tôi
quan tâm tới lĩnh vực kinh tế và lao động, với học thuyết Truman được công bố
vào mùa xuân năm 1947, năm cuối của tôi ở trường trung học. Khi theo dõi tin tức
những năm sau này về cuộc đảo chính của Cộng sản ở Tiệp Khắc các chế độ kiểu
Stalin, về các phiên toà chính trị ở Liên Xô và Đông Âu, trận phong toả Berlin,
sau đó là cuộc tấn công Bắc Triều Tiên và các cuộc nổi dậy ở Đông Âu, tôi dần
chấp nhận các luận điểm và thái độ về cuộc Chiến tranh lạnh. Những điều này đã
vượt quá cả sự căm ghét các chế độ đàn áp tàn bạo kiểu Stalin, mà tôi không bao
giờ quên, dù là ở Liên Xô và Đông Âu Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Cuba hay Việt
Nam. Nhìn lại một cách khái quát, các luận điểm này gần như đã kết nối mọi cuộc
khủng hoảng với sự đối mặt của chúng ta với Liên Xô và phân biệt với những
thách thức mà chúng ta đã phải đương đầu trước và trong Chiến tranh Thế giới lần
II. Có thể, luận điểm cơ bản này là sự cân bằng giữa Stalin với Hitler, không
chỉ về sự lãnh đạo cực quyền của họ ở trong nước (nơi có sự tương đồng về chức
năng rất hiệu lực), mà còn về mối đe doạ của họ đối với nền tự do trên toàn thế
giới và trục tiếp là với Tây Âu và Mỹ, là mối nguy hiểm họ đã gây ra bằng sự
xâm lược quân sự và là sự cần thiết cần đối chứng với sự chuẩn bị về quân sự, với
sự thận trọng và sự sẵn sàng cho việc phòng thủ tập thể. Đặc biệt, sự cân bằng
giữa Stalin và Hitler đã loại trừ được các cuộc thương lượng đầy cố gắng với
các chế độ Cộng sản để tìm ra giải pháp cho các cuộc xung đột và kiểm soát vũ
khí.
Tôi
bắt đầu nhìn lại chính mình khi đã làm việc nhiều năm sau đó như là một người
theo Đảng Dân chủ của Truman: sự tự do với các vấn đề trong nước, nhưng lại thực
tế và cứng nhắc mặc dù đã có vạch ra giải pháp khi đối đầu với Liên bang Xô viết
Một người chiến binh tự do của chiến tranh lạnh, ủng hộ người lao động và chống
lại Cộng sản, giống như các Thượng nghị sỹ H. Humphrey và sau này là Henry
Jackson hoặc chính là W Reuther. Tôi ngưỡng mộ hành động của Truman trong việc
đưa những máy bay ném bom chở đầy than và lương thực đến trợ giúp cho người dân
ở Berlin và phản ứng của ông ta với những điều được xem như sự xâm lược trắng
trợn ở Triều Tiên. Tôi cũng khâm phục quyết định của ông là duy trì ở Triều
Tiên một cuộc chiến tranh có giới hạn, bác bỏ những yêu cầu của tướng D.
MacArthur đòi mở rộng chiến tranh sang Trung Quốc và sử dụng các loại vũ khí hạt
nhân. Tin tưởng vào chính sách của chính phủ, bản thân tôi đã chuẩn bị để tới
Triều Tiên cho dù không hề tha thiết về việc đó. Tôi đã đính hôn vào mùa thu của
năm học cuối ở trường Đại học Harvard, với Carol Cumming, một cô sinh viên đại
học năm thứ hai, 19 tuổi, cùng tuổi với tôi.
Đó
cũng là lúc lực lượng lính thuỷ đánh bộ bị bao vây ở Chosin Reservoir và đang
phải chiến đấu để phá vây. (Cuối cùng tôi được ưu tiên làm việc trực tiếp dưới
sự chỉ huy của một anh hùng thuỷ quân lục chiến của chiến dịch đó, người được tặng
Huân chương Chiến công danh dự, thiếu tá William Barber). Vì tôi đang chờ đợi lệnh
gọi đi lính quân dịch vào khoảng thời gian cuối năm học, nên qua kỳ nghỉ lễ
Giáng sinh, tôi đề nghị với Carol tổ chức lễ cưới vào giữa kỳ, để chúng tôi có
thể sống bên nhau ít tháng trước khi tôi đi.
Một
tháng sau đám cưới của chúng tôi, tháng hai năm 1951, có một cuộc tuyển chọn
tân binh, tôi và tất cả bạn bè của tôi được hoãn đi lính quân dịch tới khi tốt
nghiệp xong. Tôi rất vui vì điều đó và khi giành được một suất học bổng W.
Wilson cho một năm học cao học ở trường Đại học Tổng hợp Cambridge, tôi lại được
hoãn lâu hơn. Nhưng tôi coi việc đi lính là lẽ đương nhiên nên không muốn kéo
dài thời hạn trì hoãn của mình vào năm đó. Hơn nữa, chắc chắn những người bạn
khác đã phải đi thay vào vị trí của tôi và tình trạng cấp bách ở Triều Tiên thì
vẫn tiếp diễn; nên khi từ Anh trở về, tôi cho rằng đã đến lúc để tôi thực hiện
nghĩa vụ của mình.
Phần
lớn bạn bè và thầy cô giáo của tôi đều rất ngạc nhiên khi tôi xin vào khoá đào
tạo sĩ quan dự bị (OCC) trong binh chủng lính thuỷ đánh bộ. Tôi dường như không
thích hợp loại hình này. Sở trường của tôi thiên về hoạt động trí óc, không có
tố chất nào của một vận động viên. Một trong những giáo viên của tôi, ông W.
Leontief, đề nghị giao cho tôi một công việc trong lực lượng không quân, một
lĩnh vực toán học mới về lập trình, nhưng việc này xem ra có vẻ rất giống với
lĩnh vực học thuật đơn thuần về kinh tế mà tôi mong muốn sẽ được làm sau này. Lực
lượng lính thuỷ đánh bộ là cái gì đó rất khác và khác cơ bản. Quan trọng hơn với
tôi, là binh chủng này đã không ném bom các thành phố; ở Thái Bình Dương và Triều
Tiên, binh chủng này chỉ tấn công vào binh lính đối phương chứ không phải vào
dân thường.
Lực
lượng này còn tự đề ra một chuyến đi tham quan cho các sĩ quan dự bị chỉ trong
khoảng thời gian 2 năm, đó là một sự khích lệ, vì không ai tham gia vào Binh chủng
lính thuỷ đánh bộ chỉ vì đó là một thời hạn quân dịch ngắn ngày. Bố vợ tôi là đại
tá lính thuỷ đánh bộ chuyên nghiệp đã nghỉ hưu sau chiến tranh với cấp hàm chuẩn
tướng. Vợ tôi rất thích những kỷ niệm trong thời gian lớn lên ở các căn cứ của
lính thuỷ đánh bộ; Anh trai của cô ấy đã rời trường đại học danh tiếng Yale để
ghi tên tham gia vào Binh chủng và đã bị giết ở Guadalcanal đúng vào ngày sinh
nhật lần thứ 19. Tôi muốn vợ tôi bị bất ngờ trước sự lựa chọn của mình; Tôi cho
rằng việc để vợ tôi quay trở lại một căn cứ lính thuỷ đánh bộ sẽ làm cho cô ấy
hạnh phúc. Và quả đúng như thế.
Tôi
nộp đơn xin vào OCC sau khi từ Cambridge trở về vào mùa hè năm 1953, nhưng khi
đó không có khoá học nào được mở cho tới tận mùa xuân 1954, vì thế tôi tiếp tục
học cao học chuyên ngành kinh tế ở Harvard thêm một kỳ rưỡi nữa. Từ đó tôi đã
tham gia các khoá học cao học theo yêu cầu như một sinh viên chưa tốt nghiệp,
và đã tham dự kỳ thi vấn đáp lấy bằng tiến sĩ vào ngày trước khi đi huấn luyện ở
Quantico. Ít tuần sau, ngày 8 tháng Năm năm 1954, vào sáng sớm khi chúng tôi
đang đứng trên bãi tập thì người huấn luyện nói với chúng tôi: "Súng của
các bạn nên giữ sạch hơn, vì Điện Biên Phủ vừa thất thủ".
Chúng
tôi không xem báo trong suốt thời gian của tháng đầu tiên ở trong trại huấn luyện
tân binh, vì thế điều đó không có ý nghĩa nhiều đối với chúng tôi. Dù sao, các
khẩu súng của chúng tôi vẫn luôn sạch bóng. Tôi không chú ý tới lời tuyên bố nổi
tiếng của Tổng thống Eisenhower về thuyết domino - dự báo sự sụp đổ của hầu hết
các nước châu Á trước chủ nghĩa Cộng sản ở nếu miền Bắc Việt Nam thất bại - vào
đúng ngày sinh nhật lần thứ 23 của tôi, ngày 7 tháng tư năm 1954, ngay trước
khi tôi tới Quantico. Tất cả chúng tôi đã bỏ lỡ cuộc vận động thăm dò của Phó Tổng
thống Richard Nixon ngay sau ngày đầu tiên khoá huấn luyện của chúng tôi bắt đầu,
16 tháng tư, khi ông ta nói rằng "vì người Việt Nam không đủ khả năng tiến
hành một cuộc chiến tranh hoặc tự trị", nên Mỹ có thể phải đưa quân tới đó
để ngăn cản một thất bại của Pháp: "Nếu chính phủ không thể tránh được điều
đó thì sẽ buộc chính quyền phải đối mặt với tình hình và đưa quân
sang".(21)
Đã
có sự phản đối kịch liệt với lời phát biểu của Nixon, hàng ngàn bức thư và điện
tín được gửi tới Nhà Trắng phản đối sự can thiệp của Mỹ nhằm ủng hộ chủ nghĩa
thực dân Pháp, đây là việc làm của các lực lượng theo chủ nghĩa dân tộc do Cộng
sản lãnh đạo. Thượng nghị sỹ Đảng Dân chủ Edwin Johnson nói bên ngoài hành lang
của Thượng viện: "Tôi phản đối việc đưa lính Mỹ vào nơi bùn lầy, hỗn độn của
Đông Dương bằng một trò chơi đổ máu chỉ để duy trì chủ nghĩa thực dân và sự
khai thác thuộc địa của người da trắng ở châu Á"(22). Quan trọng hơn, người
lãnh đạo phe đa số của đảng Dân chủ ở Thượng viện, Lyndon Johnson, chịu ảnh hưởng
bởi cố vấn của ông ta, Thượng nghị sỹ Richard Russell, đã thuyết phục Tổng thống
Eisenhower rằng Mỹ quyết không được hành động đơn phương nếu không có sự tham
gia của Anh. Thủ tướng Anh, W. Churchill và Ngoại trưởng Anh, Anthony Eden đã
không đồng tình với sự thừa nhận của Tổng thống Eisenhower, coi thách thức do Hồ
Chí Minh gây ra ngang với thách thức của Hitler ở Rhineland hay ở Munich. Vì thế
lớp sĩ quan như chúng tôi đã lỡ cơ hội tham gia vào cuộc xâm lăng của người Mỹ
vào Đông Dương, điều đó có nghĩa là một cuộc chiến tranh diễn ra ở miền Bắc sẽ
ác liệt hơn nhiều những gì chúng ta đã từng trải qua ở miền Nam Việt Nam và khả
năng sử dụng cả các loại vũ khí hạt nhân để chống lại Trung Quốc (Phó Tổng thống
Nixon ủng hộ cả hai khả năng này). Ba năm sau, Eisenhower và Ngoại trưởng John
Foster Dulles quay lại ủng hộ Eden, khi họ từ chối áp dụng những biện pháp giống
nhau. Eden, bây giờ là Thủ tướng đã so sánh Hitler với Tổng thống Ai Cập G.A
Nasser trong cuộc khủng hoảng ở kênh đào Suez, khi tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ
của tôi đang thực hiện nhiệm vụ trên Hạm đội 6. Chúng tôi cũng đã lỡ cuộc chiến
tranh thuộc địa đó.
Lúc
đó, ở Quantico tôi không biết gì về điều này. Viên trung sĩ phụ trách đang kể với
chúng tôi những điều chúng tôi đã biết, rằng chúng ta, những người lính thuỷ
đánh bộ - là lực lượng sẵn sàng ứng cứu, là người bảo vệ Tổng thống. Cũng có thể
đã từng có những lính thuỷ đánh bộ trên các con tàu của lục quân ở ngoài khơi
Đông Dương lúc đó. Đó là lý do để chúng tôi tham gia.
Ngay
khi khoá huấn luyện cho phép, tôi sẽ vui vẻ lên đường. Càng vui hơn khi nghĩ rằng
nếu sự tham gia của chúng tôi có thể góp phần vào việc không cần sử dụng tới
các loại vũ khí hạt nhân. Một năm hoặc hơn một chút, khi tôi đã là một trung đội
trưởng ở Camp Lejeune, miền Bắc Carolina, tôi rất tự hào được đọc lời tuyên thệ
của người chỉ huy thuộc binh chủng lính thuỷ đánh bộ trước Quốc hội rằng:
"Binh chủng lính thuỷ đánh bộ gồm 3 sư đoàn sẵn sàng hy sinh để ngăn chặn
một cuộc chiến tranh hạt nhân". Với tôi đó cũng là một lý do thích hợp để
được phục vụ quân ngũ.
Sau
sự khởi đầu đầy khó khăn ở OCC, tôi gần như đã kiệt sức tôi phải học để trở
thành một sĩ quan lính thuỷ đánh bộ giỏi.
Tôi
rất thích công việc của một chỉ huy trung đội súng trường, và hơn tất cả là cơ
hội - một sự kiện hiếm hoi với một thiếu uý trong thời bình - để tôi được chỉ
huy một đại đội súng trường ở Sư đoàn lính thuỷ đánh bộ số 2. Tôi sẽ bị lôi cuốn
ở lại Binh chủng lính thuỷ đánh bộ như một quân nhân chuyên nghiệp suốt cuộc đời
nếu công việc chỉ huy đó làm tôi hài lòng. Để chuẩn bị đi phục vụ tại ngũ vào
mùa hè năm 1956, tôi phải từ giã bạn bè.
Nhưng
tôi hy vọng sẽ có dịp quay trở lại Harvard. Con trai tôi, Robert Boyd, vừa chào
đời, tôi cũng vừa được nhận một suất học bổng nghiên cứu sinh 3 năm ở Harvard.
Tiểu đoàn của tôi sẽ tới Địa Trung Hải trong 6 tháng làm nhiệm vụ cùng với Hạm
đội 6, một điều làm tôi không hề hối tiếc.
Dẫu
sao, đúng lúc này, hầu như ngày nào cũng có cảnh báo về một cuộc chiến tranh có
thể xảy ra ở Trung Đông do việc quốc hữu hoá kênh đào Suez của Tổng thống
Nasser. Tiểu đoàn chúng tôi nhận được khuyến cáo về khả năng phải can thiệp vào
các hoạt động thù địch. Tôi không chịu đựng nổi với suy nghĩ rằng những người
lính mà tôi đã chỉ huy có thể bị gọi đi để sát hạch khả năng của họ trong cuộc
chiến ở khu vực này trong khi tôi lại ngồi theo dõi họ chiến đấu và dõi theo số
phận của họ từ Cambridge, Massachusetts. Tôi đánh điện cho chỉ huy binh chủng
lính thuỷ đánh bộ yêu cầu gia hạn tại ngũ cho tôi tới khi tiểu đoàn của tôi
hoàn thành nhiệm vụ ở Địa Trung Hải, và khi yêu cầu được chấp nhận, tôi đã
thông báo cho Hội những người bạn về quyết định của mình.
Ít
tháng sau, lần đầu tiên được cầm trong tay các tài liệu tối mật. Tôi nhanh
chóng được cấp một giấy phép tối mật, để tôi có thể thảo ra các kế hoạch tác
chiến đổ bộ cho tiểu đoàn của tôi trên cơ sở các kế hoạch chiến đấu dự phòng bất
trắc của Hạm đội 6. Vào lúc đó, cấp trên của tôi ở tiểu đoàn và ở Hạm đội 6 đều
không rõ liệu chúng tôi có phải hành quân chống lại Ai Cập hay Israel không.
(Anh và Pháp chưa ra mặt như các bên tham chiến, mặc dù đã có những dấu hiệu
tình báo không tốt). Khi tàu chở quân của chúng tôi theo mệnh lệnh tiến về hướng
đông nam của Địa Trung Hải thì cuộc khủng hoảng đã ngày càng gia tăng, tôi được
giao nhiệm vụ thảo ra một kế hoạch đổ bộ lên Haifa, trong khi ở bàn bên cạnh, một
sĩ quan trợ lý tác chiến khác của tiểu đoàn đang lập kế hoạch đổ bộ lên
Alexandria. Trong những điều kiện khác nhau mà chúng tôi sẽ phải đương đầu, điều
đó có thể sẽ tồi tệ hơn nhiều, chúng tôi nhận định như vậy, nếu chúng tôi phải
dùng tới mìn. (Cuối cùng chúng tôi đã không phải sử dụng cách nào, thậm chí tàu
chở quân của chúng tôi cũng đã sơ tán được hơn một nghìn dân thường Mỹ khỏi
Alexandria, trong khi các máy bay của Anh và Pháp bay qua bay lại để ném bom
thành phố cảng thì chúng ta đã thu dọn sạch bến cảng). Nhưng điều đáng kể nhất
khi tôi nhớ lại là làm thế nào để theo dõi được việc thực hiện tất cả các kế hoạch,
cho dù Tổng thống lựa chọn kế hoạch nào. Tôi rất vui nếu được sử dụng tới những
điều mà tôi đã được huấn luyện về thuỷ quân lục chiến tại bất cứ đâu mà Tổng thống
chỉ định, tuy nhiên nó hoàn toàn khác với bất kỳ cảm nhận nào về những cái đúng
và cái sai của cuộc xung đột.
Điều
này đã diễn ra khiến tôi phải đi đến kết luận rằng trong trường hợp này, đồng
minh của chúng ta mắc rất nhiều sai lầm. Viên chỉ huy tiểu đoàn yêu cầu tôi chuẩn
bị một bài lên lớp cho các sĩ quan về bối cảnh của tình hình. Tôi đọc các bản
phân tích tình báo đã được đưa tới tàu chỉ huy suốt cả mùa hè và đã nghiên cứu
lịch sử của kênh đào cũng như các mối quan hệ của Ai Cập và Anh trong thư viện
của tàu, trong đó có mấy cuốn bách khoa thư. Trước sự ngạc nhiên của tôi, xét
theo cách mà Anh đang giải thích về hành động của Tổng thống Nasser thì dường
như là chính phủ Ai Cập không có quyền chính đáng để quốc hữu hoá kênh đào Suez
và bất cứ hành động quân sự nào nhằm chiếm quyền sở hữu kênh đào sẽ là sự xâm
lược trắng trợn, một sự quay trở lại của chủ nghĩa thực dân. Đó là kết luận tôi
đã nói với các sĩ quan trên tàu và họ nhận thấy thú vị tới mức tôi bị điều từ
tàu này sang tàu khác để lên lớp cho các tàu bạn. Nhưng đối với bất cứ ai ngồi
nghe tôi nói hay cả với tôi, đều vẫn chưa hiểu rõ thực chất chính sách của Mỹ
là gì, vai trò của chúng ta như thế nào khi được lệnh tham gia. Tôi biết bất cứ
ai trong số chúng tôi, kể cả tôi, đều đang rất lo lắng về những điều đó.
Thật
khó có thể tưởng tượng, mặc dù điều mà tôi đã rút ra cho bài giảng của mình, là
Mỹ sẽ vẫn lựa chọn cách đối đầu với các đồng minh NATO của họ. Trong các hình
thức của Chiến tranh lạnh, điều này dường như không thể tưởng tượng nổi; nó sẽ
thực sự củng cố vị trí của những người Xô viết, những người đang cung cấp vũ
khí cho người Ai Cập và đã cố gắng để thay thế Mỹ tài trợ cho đập thuỷ điện
Aswan (Aswan Dam). Khi Tổng thống Eisenhower chọn cách buộc Anh và Pháp phải chấm
dứt sự phiêu lưu của họ ở kênh Suez, tôi thấy ngạc nhiên và tự hào vì mình là một
người Mỹ. Chẳng điều gì có thể làm tôi tin tưởng hơn về kịch bản này là đất nước
tôi phải cam kết trên nguyên tắc để phê chuẩn bản luật pháp quốc tế chống lại sự
xâm lược còn chống lại ai thì không thành vấn đề, thậm chí chống lại cả những đồng
minh thân cận nhất. Đó là điều mà tôi đã tin là có thể sử dụng để giải quyết vấn
đề phòng thủ của chúng ta ở Nam Triều Tiên; đó là điều giải thích vì sao tôi thấy
phải lên đường để hoàn thành nghĩa vụ quân sự trong khi đang diễn ra tình trạng
khẩn cấp ở Triều Tiên; đó cũng là điều vì sao tôi đang phục vụ tại ngũ. Khi tôi
xem các tờ tạp chí châu Âu và nhìn thấy các bức ảnh về những gì các máy bay ném
bom của đồng minh đã làm đối với thành phố Port Said đầu nguồn của con kênh,
tôi cảm thấy mừng vì người Mỹ đã không phải nhìn thấy những bức ảnh, giống như
công việc của chúng tôi đang làm.
Cho
dù tôi đồng tình với quyết định của Tổng thống là phản đối chính sách thực dân,
nhưng tôi đã thực hiện mệnh lệnh của ông ta theo một hướng khác với lời cam kết
đầy đủ. Lúc đó, tôi quan tâm nhiều tới việc chúng tôi phải làm thế nào để chiến
đấu giỏi chứ không quan tâm nhiều tới việc chúng tôi chiến đấu với ai hay tại
sao phải chiến đấu. Đó là việc của Tổng thống quyết định. Tư tưởng khoáng đạt
đó, một di sản của Chiến tranh thế giới II và cuộc chiến tranh lạnh, đã tồn tại
trong tôi hàng thập kỷ sau này. Cuối cùng, khi tôi giải thoát được tư tưởng đó
vào năm 1969 thì cuộc sống của tôi đã bất ngờ thay đổi.
Tôi
trở lại Harvard để thực hiện công việc nghiên cứu độc lập, với tư cách một
thành viên mới trong Hội những người bạn, nơi đã làm cho tôi thấy thú vị nhất kể
từ khi tôi học năm cuối ở đại học (lúc đó, nghe theo lời vị cố vấn của khoa,
tôi đã chuyển chuyên ngành từ nghiên cứu về lao động sang thuyết kinh tế).
Tôi
bắt đầu thích thú với chuyên ngành mới này với bản phân tích trừu tượng về việc
cần đưa ra quyết định trong tình hình kinh tế bất ổn. Tôi học chuyên ngành kinh
tế nên đã phải viết luận văn cao học chuyên ngành kinh tế, sau đó viết luận án
tiến sĩ về đề tài làm thế nào để miêu tả, để hiểu và có thể nâng cao cách thức
lựa chọn khi người ta không chắc chắn về những hậu quả do hành động của họ gây
ra. Nó bao gồm các tình huống của cuộc xung đột mà trong đó sự không chắc chắn
phần nào có liên quan tới những lựa chọn của đối tác, đó là chủ đề về cái được
gọi là lý thuyết trò chơi hoặc thuyết thương lượng(23).
Tất
cả điều này rõ ràng có liên quan tới các quyết định quân sự, cùng với các quyết
định khác. Vì thế, một cơ quan đã thể hiện mối quan tâm đặc biệt tới lĩnh vực
này là Công ty Rand, nơi các nhà toán học đã có những đóng góp cơ bản. Trái lại
chính điều này đã thu hút sự chú ý của cá nhân tôi đối với Rand, một tổ chức
nghiên cứu phi lợi nhuận ở Santa Monica, California, thành lập năm 1947, làm cả
hai công việc là nghiên cứu cơ bản và đánh giá các bản phân tích đã giải mật
cho Bộ Quốc phòng, chủ yếu là cho lực lượng không quân. Sau chuyến thăm ngắn
ngày vào cuối mùa hè năm 1957, tôi đã xem xét và chấp nhận lời mời của Ban kinh
tế của Công ty Rand đến làm tư vấn ở đó vào thời gian nghỉ hè năm 1958, khi
đang làm nghiên cứu sinh ở Harvard). Ba năm trong binh chủng lính thuỷ đánh bộ
đã để lại trong tôi sự tôn trọng quân đội, mối quan tâm tới các vấn đề chiến lược
và sẵn sàng áp dụng các khái niệm mang chất trí tuệ vào các vấn đề quân sự hơn
là các việc khác. Dù sao đi nữa, trước khi tới Rand tôi đã mong muốn theo đuổi
một công việc chuyên môn mang tính hàn lâm ví như một nhà lý luận kinh tế. Lúc
đó tôi 27 tuổi.
Điều
gì đến phải đến, ngay sau chuyện thăm có tính thăm dò, khám phá của tôi tới
Santa Monica năm 1957, những người Xô viết đã phóng tàu Sputnik vào quĩ đạo, chứng
tỏ khả năng có thể thực hiện các cuộc phóng tên lửa đạn đạo xuyên lục địa
(ICBMs) sớm hơn cả Mỹ lúc đó. Vào mùa hè, lúc tôi tới Rand cũng chính là lúc ở
đó đang có những nghiên cứu dự báo bí mật về tính ưu việt của Liên Xô trong thời
gian tới qua việc triển khai ICBMs, "khoảng trống tên lửa". Thậm chí,
trước khi có những dự báo đó, các bản nghiên cứu tối mật của Rand(24) trong 4
năm qua đã kết luận rằng khả năng của Bộ chỉ huy không quân chiến lược (SAC) trả
đũa bằng các cuộc ném bom chiến lược trước một cuộc tấn công bất ngờ của Liên
Xô, đã được định vị kỹ càng để huỷ diệt họ là rất xa thực tế. Với các đồng nghiệp
mới của tôi ở Rand, kế hoạch tập trung quân của Liên Xô được nhìn nhận rõ ràng
là một nỗ lực khẩn cấp, có cơ hội thành công cao một cách đáng kinh ngạc, để có
được sức mạnh làm mất đi khả năng trả đũa của SAC. Khả năng đó của Liên Xô, cho
dù phải trả giá đắt để đạt được đã làm huỷ hoại cơ sở lòng tin trong việc ngăn
chặn hạt nhân. Ít nhất điều này đã tác động tới những ai đang đọc các bản
nghiên cứu, những người đã cùng chia sẻ một sự thừa nhận rộng rãi rằng trong cuộc
chiến tranh lạnh này, Liên Xô sẽ tìm cách đạt mục đích cuối cùng là thống trị
thế giới.
Trong
những tuần tới Rand làm việc, bản thân tôi nhận ra rằng tôi đang bị cuốn vào
cái điều được coi là vấn đề cụ thể cấp bách nhất của sự bất ổn, đó là về quyết
định mà loài người từng phải đối mặt: ngăn chặn một cuộc đối đầu hạt nhân giữa
Liên Xô và Mỹ. Vào những năm cuối của thập kỷ, gần như tất cả các bộ phận và
các nhà phân tích độc lập ở Rand đều bị ám ảnh về việc giải quyết vấn đề tưởng
như đơn giản mà lại khó khăn và căng thẳng, thúc bách hơn bất cứ ai ở bên ngoài
Rand có thể tưởng tượng ra, về việc phải ngăn chặn một cuộc tấn công hạt nhân của
Liên Xô vào xã hội và các lực lượng trả đũa của Mỹ, trong vài năm tới hoặc xa
hơn, bằng việc khẳng định rằng khả năng trả đũa của Mỹ bằng các loại vũ khí hạt
nhân sẽ ngăn chặn được bất cứ cuộc tấn công nào như vậy.
Khi
tôi đến Ban kinh tế của Rand làm nhân viên tập sự mùa hè năm sau, tôi đã dồn
toàn tâm toàn ý vào công việc, thậm chí với một cảm nghĩ vinh dự và được công
hiến, mặc dù ác cảm của riêng tôi với các loại vũ khí hạt nhân là rất lớn. Quan
điểm mạnh mẽ của tôi chống lại các cuộc ném bom bừa bãi các thành phố của cả
hai bên tham chiến trong Chiến tranh thế giới lần II, như tôi đã nói, nó như
cái gót sắt khủng khiếp dẫm đạp lên công việc của tôi đang làm cho lực lượng
không quân với các công trình nghiên cứu nhằm răn đe người Nga bằng các cuộc
ném bom khủng khiếp nếu họ tấn công chúng ta. Nhưng lại có một lô gích phù hợp
với công việc này. Từ các bản phân tích của Rand, tôi dần dần phải tin rằng đây
là cách tốt nhất, và thực sự là cách duy nhất, để làm tăng thêm cơ hội rằng sẽ
không có cuộc chiến tranh hạt nhân nào trong tương lai gần.
Trong
những hoàn cảnh được miêu tả bởi các nhà lượng định tình báo quốc gia cấp cao
nhất, lô gích của hành động ngăn chặn dường như rất rõ ràng. Theo các bản đánh
giá tối mật này, chúng ta phải đối mặt với một kẻ thù có sức mạnh đang tìm mọi
cách để mở rộng công năng của vũ khí hạt nhân khiến chúng ta phải khuất phục
hoàn toàn và để giành lấy sự thống trị toàn cầu mà không bị một sự ngăn trở
nào. Không có một khả năng quân sự phi hạt nhân nào của Mỹ có thể cam kết sẽ loại
trừ được một cuộc tấn công như thế và đáp trả (phản ứng lại) bằng một cuộc tấn
công tương tự với qui mô có thể thực sự ngăn chặn được một kẻ thù cứng rắn và
tàn bạo tới như vậy. Không thể làm cách gì khác hơn ngoài khả năng phải đáp trả
bằng vũ khí hạt nhân, một khả năng có thể ngăn chặn chắc chắn một đòn đánh hạt
nhân đầu tiên đã được lên kế hoạch một cách hoàn hảo, một cuộc tấn công hạt
nhân vào Trân Châu Cảng.
Để
có sự đóng góp riêng của mình, tôi chọn một chủ đề đặc biệt mà dường như tới thời
điểm này nó đã được quan tâm nghiên cứu vì tầm quan trọng của nó, đó là sự chỉ
huy và điều hành các lực lượng trả đũa hạt nhân của các sĩ quan quân sự cao cấp
và đặc biệt là của Tổng thống. Phần lớn các đồng nghiệp của tôi đang nghiên cứu
làm thế nào để giảm thiểu sự thiệt hại của các loại vũ khí, của các căn cứ và
các loại phương tiện chuyện chở hạt nhân. Tôi đã cùng một số người kiểm tra khả
năng tồn tại và khả năng phản ứng của hệ thống chỉ huy quân sự trung tâm. Ai
cũng thừa nhận rằng trong bất cứ hoàn cảnh nào, thời điểm các lực lượng hạt
nhân của Mỹ thực hiện các cuộc tấn công chống lại Liên Xô là do Tổng thống hoặc
nhân vật có cấp cao nhất còn sống sót trong chính quyền quyết định.
Vấn
đề cụ thể này đã chứng minh mọi điều tôi đã được học trong trường đại học về
cách thức tạo ra quyết định trong những trường hợp không rõ ràng. Vì lời cảnh
báo và bằng chứng cho quyết định của Tổng thống đều không tránh khỏi sự đáng ngờ,
nên nó sẽ là quyết định ảo tưởng cuối cùng có thể hiểu được, từng được đưa ra bởi
một nhà lãnh đạo quốc gia trong trường hợp không rõ ràng.
Tuy
nhiên khả năng của Tổng thống, hay thậm chí của bất cứ viên chỉ huy cấp cao
nào, để làm cho quyết định này có hiệu lực rộng rãi đều bị đe doạ bởi, nhược điểm
riêng của họ với cuộc tấn công hạt nhân vào Washington và vào tất cả các trạm
chỉ huy khác, cùng với nó là các mạng lưới truyền thông và các hệ thống thông
tin; và bởi khuynh hướng của các hệ thống tình báo và cảnh báo này thường chỉ
phát đi những tín hiệu không rõ ràng và những báo động giả. Không một bí mật
quân sự nào được bảo vệ một cách nghiêm ngặt hơn là các chi tiết về việc các kế
hoạch chiến tranh hạt nhân thực sự được đưa ra, sẽ được thực thi như thế nào,
do ai và trong hoàn cảnh nào.
Một
tài liệu về các vấn đề chỉ huy và điều hành hạt nhân của CINCPAC, mà tôi mượn từ
Rand, giúp tôi có sự hiểu biết về một số vấn đề về tổ chức quân sự của chúng ta
đã được cất giữ cẩn mật và được bảo vệ ở mức cao nhất. Những bí mật này bao gồm
các kế hoạch quân sự cho cuộc chiến tranh hạt nhân tổng thể mà thậm chí các
quan chức dân sự cao nhất cũng không thể tiếp cận được.
Lấy
ví dụ tôi được biết về một bí mật mà nó hoàn toàn trái ngược với tất cả các
tuyên bố công khai, đó là việc Tổng thống Eisenhower đã trao cho các tư lệnh
chiến trường quyền khởi đầu các cuộc tấn công hạt nhân trong những điều kiện nhất
định, như việc có sự gián đoạn trong hệ thống thông tin liên lạc đối với
Washington - một việc thường xuyên xảy ra vào lúc đó - hoặc việc thiếu vai trò
quyết định của Tổng thống (điều này đã hai lần xảy ra đối với Tổng thống
Eisenhower). Việc trao quyền này đã không thông báo cho cố vấn An ninh quốc gia
của Tổng thống Kennedy là McGeorge Bundy, và cho cả Tổng thống, vào đầu năm
1961, sau gẳn một tháng nhận chức Tổng thống, khi tôi thông báo vấn đề này, Tổng
thống mới biết. Kennedy tiếp tục bí mật trao quyền, cũng giống như Tổng thống
Johnson đã làm. (Johnson không ám chỉ tới sự đối đầu trong chiến dịch tranh cử
Tổng thống của ông ta năm 1964 chống lại Thượng nghị sỹ Goldwater, trong đó việc
trao quyền rộng rãi, mà Goldwater ủng hộ là một vấn đề lớn). Tôi cũng báo cáo với
Bundy rằng việc trao quyền cho các Tư lệnh 4 sao, ở Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương,
được bắt chước giống như việc trao quyền tương tự cho các tư lệnh cấp dưới (rõ
ràng không được Tổng thống biết và uỷ quyền), điều này đã tạo điều kiện cho một
số lượng không xác định nhưng rất lớn các nhân vật được phép tiếp cận tới nút bấm
hạt nhân. Sự quy định như thế, với một số các nhân vật khác nữa đã đặt các lực
lượng hạt nhân của Mỹ trên một vòng có nguy hiểm, đã phản ánh những tính toán
tình báo của Mỹ về cả khả năng và ý định của Xô viết rằng khả năng này buộc Mỹ
phải chấp nhận những liều lĩnh cần thiết để ngăn chặn một cuộc tấn công bất ngờ
của Liên Xô.
Tuy
nhiên, vào mùa thu năm 1961, một bí mật lớn đã làm thay đổi một cách kịch tính
sự tính toán của tình báo quốc gia Mỹ, làm đảo lộn thế chiến lược toàn cầu mà
tôi đã quan tâm trong suốt 3 năm. Tầm bắn xa của tên lửa có lợi cho Liên Xô đã
là một điều kỳ diệu. Có một tầm bắn xa quả là tốt, vì thông thường tỉ lệ tên lửa
10 chọi 1 là có lợi cho chúng ta. 40 quả (Atlas và Titan ICBMs) của chúng ta
đem đối chọi với 4 quả SS-6 ICBMs của Liên Xô tại một bè phóng ở Plesetsk, chứ
không phải là 120 quả như trong tài liệu lượng định tình báo quốc gia mới nhất
vào tháng Sáu, hoặc 1.000 quả như ước lượng của Tư lệnh SAC mà tôi đã nghe được
ở Tổng hành dinh SAC hồi tháng tám. Triển vọng về một cuộc tấn công bất ngờ có
chủ ý của Liên Xô đột nhiên xuất hiện, với những sự ước lượng mới, chỉ là một
điều không tưởng.
Đối
với tôi việc đọc bản đánh giá này vào cuối năm 1961 đã gây tác động mạnh lên thế
giới quan chuyên ngành của tôi, rất giống như khi tôi đọc bức điện của Herrick
sau đó 3 năm, trong một bối cảnh hạn hẹp hơn nhiều. Tương tự thế, bản đánh giá
này có thể đã truyền một tín hiệu tới bộ máy an ninh quốc gia của chính phủ: Ngừng
mọi hoạt động? Tiến hành điều tra công khai!
Xem
xét lại tiến trình của sự việc một cách hợp lý nhất! Tuy nhiên việc này không
thực hiện được. Giống như bức điện của Herrick, bản đánh giá được giữ bí mật một
cách hiệu quả (bởi tôi và một số người khác) đối với Quốc hội, báo chí và công
luận, chính vì thế nó đã có tác động tới các chương trình quân sự. Đó là sự thừa
nhận một bí mật sau này rằng những người Xô viết đã triển khai 4 quả tên lửa
ICBM thể lỏng để đối chọi với 40 quả của chúng ta mà chính quyền Kennedy đã quyết
định triển khai vào cuối mùa thu 1961, trên cơ sở phù hợp với số lượng tên lửa
Minuteman thể rắn trong dự án của Mỹ là 1.000. Con số đó vẫn ít hơn từ 1.600 tới
6.000 quả mà lực lượng không quân đã yêu cầu trước đây nhưng cũng chỉ giảm xuống
tới mức mà Bộ trưởng Quốc phòng McNamara đã quyết định từ trước, trước khi có bản
tính toán mới.
Không
phải chỉ là việc số tên lửa tăng lên cao, rốt cuộc với cả hai bên, mà tình trạng
báo động của nước chúng ta vẫn tiếp tục ở mức nguy hiểm. Khi làm việc, tôi đã
phát hiện ra nhiều điều bất ngờ trong quá trình chỉ huy điều hành của Mỹ và những
chuẩn bị nhạy cảm cho cuộc chiến tranh hạt nhân, điều đó đã nâng cấp cho một
nguy cơ thực sự của một cuộc chiến tranh hạt nhân tổng lực được bắt đầu một
cách vô tình và gióng lên bằng một hồi chuông báo động giả. Nguy cơ của chiến
tranh hạt nhân, có thể do Mỹ khởi xướng, vẫn trở nên rất thực tế với tôi, có thể
bắt nguồn từ một tai nạn vô tình, không được phép, từ tác động của những lời cảnh
báo hoặc những nghi binh trong một cuộc khủng hoảng, từ một báo động giả hoặc từ
những mệnh lệnh bị hiểu sai.
Sự
hiểu biết của tôi về những sự việc này và làm thế nào mà sự hiện diện của tên lửa
Liên Xô ở Cuba có thể gây tác động lên những sự việc này đã làm cho người đồng
nghiệp cũ của tôi ở Rand là Harry Rowen, hiện giờ là phó trợ lý Thứ trưởng Bộ
Quốc phòng, đã gọi tôi về Washington để tham gia vào các nhóm hoạt động của Uỷ
ban điều tra của Hội đồng An ninh quốc gia trong suốt thời gian khủng hoảng tên
lửa Cuba năm 1962. Kinh nghiệm này để lại trong tôi một cảm nhận sâu sắc về việc
làm thế nào một cuộc chiến tranh nhiệt hạch cuối cùng lại có thể biến thành một
cuộc khủng hoảng, không chỉ là do những thất bại trong việc điều hành ở cấp cao
mà tôi đã bắt đầu thấy trước - được thể hiện ở cả hai phía trong cuộc đối đầu
này - mà còn do kết quả của những tính toán sai lầm chủ yếu ở những cấp cao nhất
và là kết quả của những cam kết được đưa ra trước đó nhưng không hề có một cảm
nhận nào về việc các cam kết này sẽ dẫn tới đâu. Các bên đều hiểu rất sai về
nhau, đánh giá sai thái độ của nhau, không hiểu hành động của nhau. Đã có những
sai sót về mặt thông tin liên lạc, một loại rủi ro có thể mang lại những hậu quả
nghiêm trọng nhất.
Với
hai bộ máy tình báo tinh xảo nhất trong lịch sử loài người, mỗi bên đều tập
trung toàn lực vào đối thủ siêu cường của mình, Tổng thống Kennedy đã không thấy
trước được rằng Thủ tướng Liên Xô Nikita Khrushchev sẽ cố gắng triển khai các
tên lửa đạn đạo tầm trung ở Cuba trong vòng phạm vi có thể bắn tới các mục tiêu
trên đất Mỹ và Khrushchev cũng không nắm được sự đáp trả của Kennedy đối với
hành động này sẽ như thế nào.
Những
phát hiện gần đây của Liên Xô cũ cho thấy số lượng binh lính của họ tại Cuba lớn
hơn gấp nhiều lần so với những gì chúng ta biết lúc đó, đã được trang bị (chúng
ta không biết điều này) bằng các vũ khí hạt nhân chiến thuật và Khrushchev đã
trao quyền điều hành lực lượng này cho các tư lệnh địa phương. Với thông tin
này, rõ ràng rằng gần như tất cả mọi người trong chính quyền Mỹ lúc đó đã đánh
giá quá thấp nguy cơ của một cuộc chiến tranh hạt nhân tổng lực mà sự đánh giá
thấp này chính là kết quả của 2 lần thất bại trước. Đây cũng là sự thực đối với
tôi. Dù sao những nguy cơ tôi đã chứng kiến sau này cũng đủ làm cho người ta phải
kinh hoàng.
Tôi
đã dành nửa năm đầu 1964 ở Washington, với tư cách là nhà nghiên cứu của Rand,
nghiên cứu một đề tài nhằm làm rõ mối quan tâm của tôi về cuộc khủng hoảng tên
lửa. Tôi muốn làm rõ các khía cạnh nguy hiểm trong quá trình hoạch định chính
sách của chính phủ và việc thông tin liên lạc - có thể là ám chỉ hoặc hiểu ngầm
và vô tình - giữa các chính phủ trong các cuộc khủng hoảng hạt nhân. Tôi không
phải là một nhà sử học và cũng không quan tâm tới việc tạo ra những tình tiết cụ
thể về những sự kiện đặc biệt. Tôi biết những câu chuyện như thế vẫn tồn tại,
trên cơ sở đã được giải mật ở mức độ cao, trong các cơ quan của chính phủ. Những
gì tôi muốn và có được là đã tiếp cận với mảng tư liệu này, bao quát toàn bộ phạm
vi của các cuộc khủng hoảng, để tôi có thể liến hành phân tích so sánh.
Tôi
đang tìm hiểu các vấn đề còn chưa rõ ràng để giúp Tổng thống thấy được rõ hơn sự
hiểu biết và điều hành của ông ta đối với bộ máy dưới quyền, những tác động của
nó đến đối phương, bằng nhiều cách có thể giúp Tổng thống giảm thiểu nguy cơ của
một thảm hoạ.
Tôi
đưa ra đề tài này năm 1963, hy vọng nó sẽ giữ tôi ở lại Washington chỉ là tạm
thời. Nhưng vào đầu năm 1964, sau 13 năm xây dựng gia đình, vợ tôi đòi ly dị.
Tôi lưu lại phòng tài chính của Rand thêm một thời gian, rồi chuyện tới
Washington để theo đuổi đề tài, sau đó quay trở lại California chủ yếu là để
thăm hai đứa con Robert và Mary, khi đó chúng lên 8 và 5 tuổi.
Một
danh sách liên ngành bao gồm các quan chức có hàm chức vụ đứng thứ hai ở Bộ Ngoại
giao, Bộ Quốc phòng, Cục Tình báo trung ương Mỹ (CIA) và Hội đồng Tham mưu trưởng
liên quân (Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân) được Walt Rostow - Trưởng phòng
hoạch định chính sách Bộ Ngoại giao, người tài trợ chính cho dự án, tập hợp lại
đưa cho tôi. Mỗi nhân vật đều bảo đảm thuận lợi cho tôi tiếp cận với các tài liệu
đã giải mật thuộc lĩnh vực riêng của họ, nhằm giải quyết các sự kiện quốc tế đã
qua như cuộc khủng hoảng tên lửa, các cuộc khủng hoảng ở Berlin, ở kênh đào
Suez, ở Li Băng, ở eo biển Đài Loan, vụ bắn rơi U-2 và các vấn đề về Lào. Một số
tài liệu được phân loại cao hơn cả mức tối mật và tôi được cấp các loại giấy
phép đặc biệt để có thể xem. Sáu tháng tiến hành nghiên cứu, được xem khá nhiều
các tài liệu chi tiết về cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba, tôi đã đi tới những kết
luận sơ bộ ban đầu của mình. Tôi báo cáo từng phần cho nhóm nghiên cứu liên
ngành của Rostow, nhưng những gì tôi được biết trong thời gian này, cùng với những
gì tôi đã biết 6 năm trước đó, phần lớn công chúng không biết tới, vẫn là một
câu chuyện dài vẫn còn được bàn tán ở đâu đó Trong khi đó tôi vẫn đang tìm kiếm
thêm ít nhất 6 tháng nữa để điều tra, giải quyết công việc ở các phòng ban của
Lầu Năm Góc và thanh toán tiền lương ở Rand.
Sau
đó, vào tháng Bảy, trợ lý Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phụ trách các vấn đề An ninh
quốc tế, McNaughton gọi tôi vào phòng và đề nghị tôi làm trợ lý đặc biệt cho
ông ta. Ông ta nguyên là giáo sư luật của trường Harvard, người trước đây từng
là luật sư cho Bộ Quốc phòng. Mấy năm qua, tôi đã vài lần thảo luận với cấp
trên về vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân, điều này làm chúng tôi tôn trọng lẫn
nhau. McNaughton nói với tôi rằng Bộ trưởng Quốc phòng McNamara đang giải quyết
các vấn đề về Việt Nam cho Tổng thống và McNamara yêu cầu ông ta làm trợ lý
chính cho McNamara về vấn đề này. Đến lượt tôi sẽ là trợ lý riêng cho
McNaughton trong lĩnh vực đó.
McNaughton
dành 70% thời gian cho vấn đề về Việt Nam và ông ta muốn tôi dành cho nó tới
90% thời gian. Nếu làm tốt thì sau khoảng gần một năm tôi có thể sẽ có được một
công việc ở vị trí phó trợ lý Bộ trưởng.
Cả
hai triển vọng trên đều không cuốn hút tôi lắm. Trở thành một công chức không
phải là hoài bão hay sở nguyện của tôi; ở mọi vị trí, Rand luôn là ngôi nhà
hoàn hảo đối với tôi. Tôi sẽ rất vui khi được làm việc ở đó trong quãng đời còn
lại của mình; thực tế tôi cũng đã trông chờ vào điều này. Rand cuốn hút tôi ở
Rand tôi được tự do thoải mái, không bị giám sát chặt khi nghiên cứu các vấn đề
riêng của mình, khi điều tra và tìm hiểu sâu các vấn đề cụ thể mà tôi đặc biệt
quan tâm, chủ yếu là những nguy cơ của chiến tranh hạt nhân. Hơn nữa, thường
xuyên được bay từ các văn phòng của Rand ở Santa Monica tới Washington để tham
gia cùng các nhóm nghiên cứu hoặc hoạt động như một cố vấn riêng cho các quan
chức hoạch định chính sách ở Lầu Năm Góc, ở Bộ Ngoại giao, hoặc ở Toà nhà hành
pháp, tôi cảm thấy có thể đóng góp một phần vào việc giảm thiểu những nguy cơ
đó. Tôi cũng có thể hạn chế sự tham gia của mình vào các lĩnh vực mà tôi thấy
mình còn ít kinh nghiệm. Tôi chưa bao giờ có tham vọng hay sở thích trở thành một
quan chức chính phủ để phải có trách nhiệm với một loạt các vấn đề khác nhau mà
cá nhân tôi biết rất ít về nó hoặc không chuyên nghiệp. Chính sách về Việt Nam
là một ví dụ rõ ràng. Thực tế, sau chuyện thăm ngắn ngày của tôi tới Việt Nam,
tôi thấy nó giống như một cái bẫy. Tôi không muốn biết thêm gì về Việt Nam
ngoài những điều đã biết.
Tôi
đã thảo luận với McNaughton về việc tôi nghiên cứu cuộc khủng hoảng từ trước đó
và nói với McNaughton rằng tôi thấy công việc này rất thú vị và hoàn toàn đáng
để làm. Tôi đã dành khá nhiều thời gian cho nó và nỗ lực đó đã mang lại kết quả.
Tôi nghĩ tôi có thể đóng góp tốt nhất bằng cách tiếp tục công việc nghiên cứu
này. Nhưng McNaughton nói, ông ta sẽ cho tôi cơ hội được quan sát cuộc khủng hoảng
từ bên trong, khi nó đang diễn ra. "Việt Nam là một cuộckhủng hoảng tiếp
theo cuộckhủng hoảng khác; đó làmột cuộc khủng hoảng dài".
Những
câu chuyện về các cuộc khủng hoảng trong quá khứ cho tôi thấy chỉ được mỗi cái
là quá nhiều chứ không có điều gì thực sự cần biết. Nếu tôi muốn biết các cuộc
khủng hoảng bắt nguồn như thế nào, gây ra những sai lầm gì và thực sự đã làm khủng
hoảng về cái gì, thì tôi phải tìm cách thích nghi với các hoạt đơng của chính
phủ, như một người trong cuộc, chứ không phải như một nhà nghiên cứu hay một cố
vấn. McNaughton nói tôi có thể tiếp tục nghiên cứu về cuộc khủng hoảng khi thời
gian cho phép. Nhưng quả thực, khi thấy cơ hội ông ta dành cho tôi, thì Việt
Nam sẽ là một đề tài được bổ sung vào danh sách các công việc của tôi. Tôi sẽ
không viết sử về Việt Nam. Tôi sẽ sống với lịch sử của nó. Cuối cùng tôi đã chấp
nhận.
Tôi
biết giá trị của chức vụ, bên trong toà nhà này và trong các ban ngành khác.
Tôi yêu cầu một chức vụ dân sự "siêu cấp", GS- 18, có chức vụ mức
lương tương đương với Phó trợ lý Bộ trưởng về phía dân sự, về phía quân sự
tương đương với cấp hàm giữa thiếu tướng và trung tướng. Đó là một chức vụ rất
khác thường của một trợ lý đặc biệt cho một trợ lý Bộ trưởng, nhưng McNaughton
nói ông ta sẽ giải thích rằng tôi cần phải có được chức vụ đó như "người
thay thế" ông ta về vấn đề Việt Nam, để tôi có thể thay mặt ông ta trong
các cuộc họp liên ngành, như các phó trợ lý Bộ trưởng trước đã từng làm như vậy.
Bảo
đảm quan trọng nhất mà McNaughton dành cho tôi là tôi sẽ được biết mọi điều về
Việt Nam như ông ta biết, hoặc bất cứ vấn đề gì khác mà ông ta giao cho tôi. Thực
tế, tôi đã được biết nhiều việc thậm chí trước cả ông ta. Công việc chính của
tôi là phân loại lượng thông tin khổng lồ đã có sẵn về Việt Nam và giúp đưa ra
các quyết định, (cùng với các trợ lý quân sự và các cấp phó của ông ta) về những
gì cần đưa tới để ông ta xem. Là người trợ lý, tôi phải xem các bản ghi nhớ và
các bức điện được chuyển trực tiếp tới cho ông, và "chỉ riêng cho ông
ta", kể cả các cấp phó cũng không được xem. Sự thận trọng là một tiêu chí
trọng yếu trong công việc của tôi và cũng như các phẩm chất khác Điều này đối với
tôi dường như không thành vấn đề. Khi cần thiết phải tỏ rõ sự cẩn trọng, tôi đã
có nhiều cơ hội để thể hiện mình là một người thận trọng, như ông ta từng biết.
Tôi
quan tâm tới một vài lĩnh vực quản lý không phù hợp lắm với những gì mà ông ta
mong chờ từ phía tôi. Điều này cũng không chắc chắn lắm, ngoại trừ việc ông ta
nói rằng ông ta hy vọng tôi sẽ "làm tăng gấp đôi hiệu quả và năng suất của
ông ta".
Biết
được khả năng kỳ lạ và tin tức tình báo của ông ta quả là một yêu cầu quá cao đối
với bất cứ ai, để có được năng lực kỳ lạ và khả năng tình báo thiên bẩm như ông
ta, thì không phải ai cũng đạt được, nhưng tôi tin chắc rằng nhiều người khác,
có đầu óc tổ chức hơn tôi, sẽ có thể tiến gần hơn đến các khả năng kỳ lạ mà ông
ta đang có …
Một
buổi trưa thứ hai, ngày 3 tháng tám năm 1964, tôi bước vào dãy văn phòng của trợ
lý Bộ trưởng sẵn sàng bắt tay vào công việc mới. Phòng làm việc của McNaughton
rất rộng, có trần cao với các cửa sổ nhìn ra phía Đài tưởng niệm Jefferson và
phía bên kia của TidalBasin,Đài tưởng niệm Washington.
Phòng
của tôi cũng có một cửa sổ duy nhất quay ra phía đó, căn phòng nhỏ chỉ đủ để kê
một cái bàn, một cái ghế dành cho khách, một tủ sách nhỏ và 2 két sắt có 4 ngăn
kín đáo để đựng tài liệu mật. Căn phòng thuận tiện ở chỗ chỉ cách phòng của
McNaughton vài mét tính từ cửa ra vào. Một thư ký ngồi tại cái bàn ở giữa chúng
tôi, ngay bên ngoài cửa ra vào của ông ta. Hai người khác hoặc nhiều hơn thì ngồi
ở khoảng trống phía bên kia cửa ra vào của ông ta, trong căn phòng mà người ta
có thể đi vào từ hành lang của Lầu Năm Góc. Sĩ quan phụ tá quân sự của
McNaughton, người điều hành văn phòng và trợ lý cho phụ tá, thiếu tá Harry
Hams, có một phòng nhỏ bên cạnh phòng của tôi.
Chúng
tôi ở vòng xoay E, gần lối vào từ phía sông, trên tầng ba, một khu vực biệt lập
của Lầu Năm Góc vì nó thông xuống ngay hội trường lớn từ dãy phòng của Bộ trưởng
Quốc phòng McNamara.
Một
lần tôi vào phòng làm việc nhỏ của mình và nói với phụ tá quân sự rằng tôi muốn
xem mọi tài liệu về Việt Nam hoặc từ Việt Nam tới. Anh ta hỏi tôi: "Mọi thứ
sao?"
Tôi
trả lời: "Tất cả".
Sáng
hôm sau khi tôi đến, giữa bàn làm việc và cửa sổ là hai chồng tài liệu bằng
nhau xếp ngay ngắn, mỗi chồng đều cao hơn tôi một chút. Tôi cao khoảng gần
l,8m. Tôi lấy đi một xấp phía trên của một chồng mang vào bàn, phải rất cẩn thận
để không bị đổ. Tôi bắt đầu sắp xếp lại. Không có các tờ tài liệu lẻ. Tập tài
liệu này gồm các báo cáo, bản ghi nhớ, câu hỏi, điện tín nhiều trang, phần lớn
không phải là bản gốc, tất cả các bản tài liệu này đã được gửi tới cho một ai
đó hoặc một bộ phận nào đó của Cơ quan An ninh quốc tế (ISA). Nhiều tài liệu
trong số này được gửi tới phó trợ lý Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ISA, nằm trong số
nhiều địa chỉ khác nữa nhưng rõ ràng không có nghĩa là dành riêng cho ông ta
xem; trung tâm điện tín đã phân phát các bản sao chụp tới các phòng ban quản lý
vấn đề này hoặc xử lý các vấn đề nghi ngại từ phía người gửi. Tôi sớm biết được
phần lớn số tài liệu đó lúc đầu thường chưa được gửi tới văn phòng của trợ lý bộ
trưởng; mà trung tâm điện tín phải dựa vào các phòng ban để chuyển đi hoặc một
bản tóm tắt hoặc một đoạn nhận xét về vấn đề nếu tài liệu đó được quan tâm cao.
Đó là điều cơ bản tôi đã hiểu trong công việc của mình, lựa chọn tài liệu cho
McNaughton đọc, phân công trách nhiệm cụ thể cho mọi người.
Tôi
yêu cầu xem "mọi tài liệu" và đã được đáp ứng. Các phòng ban đã hoàn
thành những gì được yêu cầu.
Ở
phía bên kia của chiếc bàn mà tôi được thông báo là một chiếc túi cháy rám, một
đống tài liệu lớn cao tới thắt lưng, tài liệu bị gấp góc, tôi phải phân loại.
Tôi không cần phải trình ai khác ngoài McNaughton; còn những người muốn xem tài
liệu này đã có riêng một bản. Trên thực tế, mọi tài liệu đã được phân loại. Rất
ít tài liệu còn ở dạng mật, chỉ là dạng mật ở mức thấp nhất; chủ yếu là các báo
cáo hàng tuần từ các chỉ huy cấp thấp ở Lầu Năm Góc, các yêu cầu hỗ trợ hậu cần
hoặc phúc đáp và chúng lại nhanh chóng được cho vào túi. Hầu hết các tài liệu mật
hoặc tối mật là các bức điện từ đại sứ quán ở Sài Gòn hoặc từ Bộ Chỉ huy viện
trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV) hoặc từ các bộ phận khác, từ các cơ quan
đang làm nhiệm vụ tại Việt Nam, từ các vụ ở Bộ Ngoại giao hoặc ở cả Lầu Năm
Góc, các bản dự đoán tình báo của CIA hoặc DIA (Trung tâm tình báo Bộ Quốc
phòng) hoặc từ INR (Trung tâm tình báo và nghiên cứu) của Bộ Ngoại giao - tất cả
đều có vẻ rất thú vị - và các kế hoạch, các báo cáo tuần tháng rồi các thư chất
vấn cũng như thư trả lời.
Nửa
giờ đầu tôi còn dè dặt khi loại bỏ các tài liệu mật, nhưng không lâu sau tôi đã
phải mạnh dạn ném chúng vào túi rác. Đến trưa thì túi đầy chặt và được đem đốt ở
đâu đó trong tầng hầm, rồi thay vào đó thêm hai túi khác. Trọng lượng thì khỏi
phải nói. Thậm chí, chỉ cần liếc mắt qua mỗi tài liệu cũng đã mất nhiều thời
gian hơn thời gian tôi có trong một ngày là 12 tiếng (chỉ một ít trong số đó là
cần xem kỹ hơn). Tôi không nhớ mình có xem được cả hai chồng tài liệu vào buổi
tối hôm đó không, nhưng cũng không tin được mình có thể làm được như thế. Hơn nữa,
ngày hôm sau, khi tôi tới lại thấy có hai chồng tài liệu mới khác, những tài liệu
này được chuyển tới trung tâm từ buổi chiều tối hoặc đêm hôm trước, cao chừng
hơn 3,6m. Số tài liệu đó chủ yếu từ Việt Nam, được chuyển về trong khoảng thời
gian ban ngày ở Việt Nam trước chúng ta 12 tiếng. Tôi xem nhanh các đợt tài liệu
mới đưa tới trong ngày, từ Việt Nam và Washington.
Sáng
ngày thứ ba, thực sự tôi phải thay đổi yêu cầu. Cuối cùng tôi yêu cầu cắt giảm
lưu lượng thông tin hàng ngày để tập trung vào hai đống tài liệu trên bàn, mỗi
chồng cao 0,75m, tức là giảm từ 3,6m xuống còn 1,5m. Tôi đã phải làm việc này bằng
cách yêu cầu chỉ xem các tài liệu thuộc dạng tối mật, các báo cáo và tính toán
cụ thể, các bức điện có ký hiệu riêng nhưNoDis,ExDisvàLimDis. Ký hiệu này dành
cho các nhà soạn thảo điện tín và báo cáo của Bộ Ngoại giao. Từ việc phân loại
cho thấy:
LimDislà
sự phân bổ có giới hạn, không phải phân bổ hàng ngày cho tất cả các phòng
ban;ExDislà sự phân bổ kín, có giới hạn hơn và có danh sách người nhận cụ thể.NoDislà
sự phân bổ một cách nghiêm ngặt cho các văn phòng cấp cao đặc biệt đã có địa chỉ
cụ thể.NoDis, liên quan tới một văn phòng hoặc các văn phòng chuyên môn, đồng
nghĩa với một cá nhân hoặc một nhóm cá nhân đã có tên được lập sẵn được đọc. Vấn
đề là phải kiểm tra và chỉ đạo trực tiếp những người đã biết - và những người
không nên biết - theo mức độ của trách nhiệm và sự bí mật của tài liệu.
Vì
thế mà tôi không bao giờ được ghi tên trong danh sách các địa chỉ được xem các
bức điện riêng, thậm chí cả McNaughton cũng không thường xuyên có tên trong đó.
Khi tôi nhìn vào con tem hoặc đề mục của tài liệu, tôi thấy một bản sao mà theo
người soạn thảo, về nguyên tắc là hoàn toàn không được sao chụp hoặc không được
xem, dù là tôi hay cấp trên của tôi.
Cơ
quan An ninh quốc tế hoặc trợ lý Bộ trưởng (ngoại trừ trợ lý dặc biệt) cũng
không thường xuyên được nhận loại điện có ký hiệuNoDis. Thông thường thì không
ai trong Lầu Năm Góc, dù là các bộ trưởng, có tên trong danh sách những người
được nhận những bức điện khá bất thường này, những bức điện này chỉ dành riêng
cho Bộ trưởng Ngoại giao hoặc Tổng thống. Nhưng nó lại đang ở trước mặt tôi. Rõ
ràng, thuật ngữ "sự phân bổ bí mật" và "chỉ dành riêng
cho", thực tế chỉ là những thuật ngữ tương đối (vì người ta cho rằng bằng
kinh nghiệm của họ, những người gửi đều đã biết có những bức điện này) nhằm giảm
thiểu số người biết tới một bức điện mật hoặc tối mật từ hàng nghìn, hàng trăm
người xuống còn vài chục thậm chí hơn một chục (chưa kể các thư ký, người đưa
tin hoặc các trợ lý đặc biệt).
Để
giảm thiểu, người gửi đôi khi phải viết thêm những lời cảnh báo bằng chữ in hoa
trên đầu bức điện: "Chỉ dành cho Bộ trưởng" hoặc "Tổng thống".
Tôi đã nhận thức được điều này, tất nhiên vì tôi đang đọc nó chứ không phải
đánh cắp hoặc sao chụp lại những gì tôi đang đọc được. Nhưng những bức điện như
thế cũng thực sự hiếm hoi và tôi biết đó là một đặc ân đối với tôi, và với cả
McNaughton. Một sự ưu tiên mà McNaughton đang mạo hiểm để tôi xem trong văn
phòng của ông, điều mà tôi sẽ nhanh chóng đánh mất nếu để cho ai đó, cho dù là
một trong những cấp phó của McNaughton biết rằng có bức điện đó và tôi đã được
xem. Điều đó còn ám chỉ tới các việc khác; một người phải biết linh hoạt trước
sự nhạy cảm của vấn đề.
Tôi
rút ra bài học này vì một lần suýt bị đuổi việc do một sai lầm nghiêm trọng sau
vài tuần làm việc tại văn phòng. Tôi đã nói chuyện điện thoại với Mike
Forrestal, người từng là điều phối viên của cơ quan liên ngành về các vấn đề Việt
Nam tại Nhà Trắng. Tôi được biết, hiện tại anh ta có công việc giống như tôi
trong Bộ Ngoại giao. Tôi đọc cho anh ta một trích đoạn trong bức điện đặt trên
bàn trước mặt tôi của ngài đại sứ ở Sài Gòn, bức điện gửi riêng cho Bộ trưởng
Ngoại giao và Tổng thống.
Đoạn
trích làm anh ta rất ấn tượng, anh ta nói chưa được xem nó. Tôi rất ngạc nhiên.
Tôi đưa cho anh ta số hiệu của bức điện và nói bức điện này nằm trong sêri mới
các báo cáo tuần mà ngài đại sứ gửi tới với tư cách cá nhân. Bức điện có một
dãy chữ đặc biệt hoặc một mã từ để chỉ số sêri, hạn chế sự phân bổ, chắc chắn rất
nghiêm trọng. Tuy nhiên, tôi sẽ có một bản sao riêng cũng như McNaughton. Tôi
nói với Forrestal, những tài liệu này rất hay và anh ta nên có nó trong danh mục.
Nhiều
giờ sau tôi bị gọi vào văn phòng của McNaughton.
Ông
ta tức giận chưa từng thấy. Ông ta hỏi tôi: "Anh đã nói cho Forrestal biết
về các báo cáo mới của đại sứ quán?"
Tôi
đáp, "Đúng thế. Forrestal dường như không biết gì về những tin tức này và
rõ ràng anh ta cần được biết". McNaughton nhìn tôi một lúc lâu rồi nói:
"Tôi không biết liệu có thể giữ anh ở lại công việc này không. Người ta
yêu cầu tôi phải đuổi việc anh. Tôi thực sự gặp rắc tối vì vấn đề này".
Ông ta quay đi và nghĩ rồi gõ nhẹ tay lên bàn. Tôi đang nghĩ: Chẳng lẽ tôi
không thể cho Forrestal xem bức điện của Bộ Ngoại giao? Người, mà theo tôi biết
đang có nhiệm vụ điều phối mọi công việc dân sự về Việt Nam ở Washington? Con
trai của Bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên, một người nổi tiếng tâm phúc của Tổng
thống Kennedy về Việt Nam? Phải thừa nhận rằng đã có một Tổng thống mới, nhưng
Forrestal vẫn có ít nhất một chân trong Nhà Trắng. Làm sao có thể biết để ngăn
chặn anh ta khỏi việc liên lạc hàng tuần với Nhà Trắng qua mặt chúng ta? (Điều
duy nhất tôi có thể giải quyết vấn đề nhạy cảm này là phải lập danh sách mã từ
theo yêu cầu của đại sứ Maxwell Taylor - vì một số lý do cá nhân mà tôi từng biết
- cho phép ông ta liên lạc riêng với hai vị cấp trên của mình, đặc biệt giữ kín
thông tin với Forrestal đồng nghiệp cũ của ông ta ở Nhà Trắng).
Cuối
cùng McNaughton nói: "Thôi được, anh còn lạ với công việc. Cha tôi từng
nói "Ai cũng đều phải vấp ngã một lần". Anh đã có được bài học cho
mình. Thực sự anh phải cảnh giác sau vụ việc này". Trong khi đó ông ta vẫn
tiếp tục phải trả giá cho lỗi lầm của tôi. Tập điện tín đặc biệt này không còn
được gửi tới văn phòng của ông ta nữa. Chỉ có một bản copy chuyển tới Lầu Năm
Góc, tới văn phòng Bộ trưởng McNamara. McNaughton phải tới đó để đọc các bản
copy, trên một tấm bảng nhỏ không thể di chuyển được.
Thế
đấy. Sau đó tôi vẫn được tiếp tục công việc của mình. Tôi không còn là một người
tập sự nữa khi phải thận trọng trong công việc vì sau nhiều năm chuyển đổi công
việc trong các phòng ban khác nhau ở Lầu Năm Góc như một nhà tư vấn của Công ty
Rand. Nhưng McNaughton đã đúng khi đưa tôi vào các vị trí mới như để học hỏi
kinh nghiệm. Tôi còn nhiều điều muốn biết về ý nghĩa của vấn đề làm việc bên
trong các phòng ban này như một nhân viên làm thuê trong giờ hành chính, được
tin tưởng ở mức độ cao, có trách nhiệm với một người cấp trên là như thế nào.
McNaughton ở cùng vị trí đó, tất nhiên như một tấm gương điển hình được nêu
lên. Tôi đã học được nhiều điều từ việc để ý ông ta trong các cuộc họp liên
ngành mà ông ta là người đại diện cho các quan điểm của McNamara, nhưng tôi biết
đôi khi ông ta cũng không đồng tình với các quan điểm đó.
Một
lần trong bữa ăn trưa, một nhân viên Bộ Ngoại giao rõ ràng không biết rõ
McNaughton lắm đã nói với tôi rằng cấp trên của tôi là người thẳng thắn nhất ở
Washington. Tôi nói điều đó với John (McNaughton) sau bữa ăn trưa và cho rằng,
"tôi đã bảo vệ danh tiếng cho ông ta. Tôi nói với anh ta, ông là người
tháo vát nhất trong thành phố". John mỉm cười thân thiện và nói "cám
ơn".
Tôi
thường để ý McNaughton nói chuyện với các nhà báo, vì ông thường cho gọi tôi
vào phòng bất cứ khi nào ông có cuộc phỏng vấn. Đây là một cách để giám sát
chính bản thân ông - có thể đó là một yêu cầu trong công việc - để ông ấy luôn
có một nhân chứng khẳng định rằng ông ấy không phải là người duy nhất biết các
thông tin bí mật hay nhạy cảm nào trong các vấn đề sau đó. Tôi để ý và rất ngạc
nhiên. John rất giỏi trong việc này.
Khi
ông ta tới những nơi cần phải giả vờ hoặc né tránh thì chất giọng địa phương
vùng Pekin, Illinois của ông ta trở nên rõ hơn nghe như ai đó đang rao bán ngô ở
một phiên chợ quê hoặc đang đứng ở thành tàu. Bạn còn tìm được cả cỏ may ở gấu
quần của ông ấy. Đơn giản ông ta không quan tâm tới việc gì cứ như một người
dân ở tỉnh lẻ chỉ vì muốn cho giấu bản chất. Cấp trên sau này của tôi ở Việt
Nam là Edward Lansdale cũng tỏ ra chất phác khi ông ta muốn là người khờ khạo
trước phần lớn những người ngoại đạo. Cả hai trường hợp này đều rất hiệu quả.
Các phóng viên sẽ nói với tôi cấp trên của tôi "cởi mở" thế nào, so với
những người mà họ đã tới phỏng vấn, điều này đến sau khi tôi đã phải nghe hàng
giờ những điều nói dối. Rõ ràng rằng các nhà báo đã không có quan điểm cũng như
manh mối gì dù là người giỏi nhất trong số họ, nên họ đã bị lừa dối thường
xuyên và quá đáng như thế nào.
Chính
những điều nói dối không làm tôi thấy phiền lòng mà có một vài trường hợp năm
đó khi tôi cho rằng một việc làm sai rất có thể bị phát hiện và điều đó làm tôi
lo lắng. Sự lo lắng của tôi thường không đúng chỗ; vấn đề ngoài lề đã kéo dài một
cách bất ngờ. Chỉ khi nào được giải quyết có lẽ tôi mới được thức tỉnh.
Máy
điện thoại trên bàn làm việc của John báo có cuộc gọi của McNamara. Khi tiếng
chuông kêu, đèn báo sáng trên điện thoại phát ra, John nhấc điện thoại ngay lập
tức, kể cả khi đang nói chuyện dở với một ai đó, và trả lời rất vui vẻ,
"Bob à". Ông ta còn ghi chép hoặc đi nhanh ra ngoài cửa, chạy qua
hành lang xuống phòng của Bộ trưởng ở ngay phía dưới. Ông ta không muốn để các
sĩ quan quân sự đang qua lại ngoài hành lang nhìn thấy.
Một
buổi sáng, lúc gần 8 giờ John từ văn phòng của McNamara trở về chỉ sau mấy phút
nhận được điện thoại và lao đi ông nói với tôi: "Một máy bay Blue Springs
đã rơi xuống Trung Quốc. Bob sẽ có cuộc họp báo lúc 8h30 . Chúng ta có 10 phút
để viết ra 6 điều nói dối giúp ông ta".
Đó
là lần duy nhất tôi nhớ là từ "nói dối" được sử dụng.
Blue
Springs là mật danh của một chương trình do thám bằng máy bay trinh sát địa
hình không người lái. John đưa cho tôi một tờ giấy màu vàng và tôi kéo một cái
ghế ngồi đối điện với ông ta. Chúng tôi ngồi đối diện nhau và viết thật nhanh
trong 10 phút. Không có thời gian để chúng tôi trao đổi với nhau, và cũng là để
tránh sự trùng lặp. Những điểm đầu tiên rất rõ ràng, có thể chúng tôi sẽ giống
nhau. Nếu Trung Quốc đã công bố sự kiện này, một là, chúng ta không đưa ra quan
điểm máy bay đó là của phía nào; nó không phải là một trong số máy bay của
chúng ta. Hai là, đó là một máy bay của Trung Quốc.
Tôi
hỏi khi chép lại: "Trên máy bay có nhãn hiệu của Mỹ không?".
John
không nhìn lên nói: "Ai biết?".
Ba
là, đó là một cuộc thực nghiệm ngoài chương trình. Bốn là, nó đang làm nhiệm vụ
dự báo thời tiết thì bị rơi. Tôi nhớ lại một vụ rơi máy bay ở Nga năm 1960. Vụ
đó không rõ ràng vì Liên Xô đã bắt được viên phi công còn sống sót và
Khrushchev đã không cho chúng tôi biết ngay từ đầu. Trường hợp này lại không có
phi công nhưng nếu Trung Quốc có thể phát đi máy quay camera của Mỹ thì sao?
Tôi phải khó khăn lắm mới nghĩ thêm được vài trường hợp nữa.
McNaughton
nhìn đồng hồ, 10 phút đã hết, ông ta giật tờ giấy trên tay tôi và chạy đi, vừa
chạy vừa nhìn vào 6 điều tôi viết. Khi ông ta ra tới phòng ngoài, tôi gọi theo
hỏi: "Tại sao ông ta không chỉ cần nói "không bình luận?".
John
nói: "Bob sẽ không nói "không bình luận" với giới báo chí".
Ít
phút sau, ông trở về và vẫy tôi ngồi xuống ghế. Ông xé vụn những trang giấy
chúng tôi đã viết và đẩy một tập lại phía tôi. Ông nói: "Bob thích những
điều này. Ông ta muốn thêm 4 điều nữa. Chúng ta có 10 phút".
Chúng
tôi lại viết thật nhanh. Tôi đã nghĩ ra thêm một điều khi John đi, nhưng những
điều còn lại khiến tôi phải tưởng tượng nhiều hơn trước. Tôi không thể nhớ hết.
Khi John xé những trang giấy mới sau đúng 5 phút, tôi nói: "Hãy xem, thực
sự tôi nghĩ ông ta phải thận trọng khi nói "không bình luận" về vấn đề
này". Tôi đã nghĩ tới điều này khi John ra ngoài. "Trung Quốc có thể
có đủ bằng chứng để chứng minh bất cứ chuyện gì cũng đều là bịa đặt. Các phóng
viên đều hiểu được việc thu thập tin tức tình báo và họ đang mệt mỏi vì bị lừa
dối. Tôi cho rằng thà chúng ta nói với họ rằng chúng ta sẽ không nói về việc
này thì hơn".
John
vừa vội đi vừa chú ý nghe và luôn gật đầu. "Tôi không nghĩ ông ta sẽ làm
thế, nhưng tôi sẽ nói với ông ta điều anh nói".
Thế
là John đi và lúc đó là 8 h25
Khoảng
hơn 9h John trở về từ cuộc họp báo. Tôi hỏi ông ta tình hình thế nào. John nói:
"Tôi rất ngạc nhiên. Ai đó đã đệ trình bản báo cáo về Trung Quốc và có lẽ
ông ta đã sử dụng phương pháp của anh. Ông ta nói: "Tôi không bình luận gì
về vấn đề này" và trả lời câu hỏi tiếp theo. Tôi không bao giờ nghĩ ông ta
sẽ nói thế".
"Sự
việc rồi thế nào?"
"Dường
như họ thích câu trả lời đó? Họ không gây áp lực gì cho ông ta cả". Sau ít
phút, một trong các phóng viên chuyên nghiệp của Lầu Năm Góc sang một phòng bên
sau khi rời phòng họp báo của McNamara. Tôi đang đứng đó và ông ta nói với tôi,
"Hãy nói với cấp trên của anh rằng nói "không bình luận" ở đó là
rất hợp lý. Tôi không nghĩ McNamara đã tự nghĩ ra". Theo tôi, điều đã làm
cho đường lối thông suốt là do có sức mạnh của nhóm thu thập tin tức tình báo mật,
sự bí mật của họ luôn làm các phóng viên riêng của chúng ta phải tôn trọng mà
không cần phải cố gắng đi sâu hơn. Điều đó nhìn chung cũng không hẳn đã đúng hết
vì bạn không thể nói "không bình luận" khi bạn cần thảo luận các vấn
đề tiếp theo, các vấn đề gần như chiếm hết thời gian của bạn. Sau đó, không có
sự bổ sung nào cho những điều còn thiếu sót sẽ là sự lừa dối. Trong những ngày
đó, việc này đã thường xuyên diễn ra.
Trực
thuộc ngay trong ngành hành pháp, nên tính tự giác trong việc chia sẻ thông tin
- thiếu đi một từ "cần phải nói" - và khả năng giữ kín thông tin là
những yêu cầu cơ bản của công việc Có nhiều người thích John và tôi, có thể và
đã đáp ứng đầy đủ những yêu cầu đó. Kết quả có được là một bộ máy bí mật, xây dựng
trên những thực tiễn và biện pháp hữu hiệu, cùng với những khích lệ nghề nghiệp
cho phép Tổng thống tới và thực hiện một chính sách ngoại giao bí mật, tới mức
độ có thể vượt xa những gì mà những người ngoài cuộc được thông báo, bao gồm
các nhà báo, các thành viên Quốc hội, có thể tưởng tượng được.
Đó
là một vấn đề khuôn sáo mà "bạn không thể giữ được hết bí mật ở
Washington" hay "ở một đảng dân chủ", một vấn đề mà dù có nhạy cảm
đến đâu cũng không thành vấn đề, và bạn rất có thể sẽ đọc thấy nó ở tờThời báo
New Yorkvào ngày hôm sau". Những việc này rõ ràng là sai trái. Thực tế,
chúng là những vấn đề ngoài lề, là các kiểu nịnh bợ, a dua và đánh lừa các nhà
báo và độc giả của họ, một phần quan trọng của quá trình giữ km những điều bí mật.
Cuối cùng, nhiều bí mật vẫn rò rỉ ra ngoài chứ không theo một thể thức xã hội
nào. Sự cạnh tranh trong các ban ngành, đặc biệt về việc phân chia ngân sách đã
dẫn đến những rò rỉ. Hơn nữa, ở một mức độ nhất định, thì khả năng giữ kín một
điều bí mật trong một khoảng thời gian cho phép đã giảm thiểu được số người biết
về bí mật đó. Những người giữ bí mật thường thích nói: "Ba người có thể giữ
kín một bí mật nếu hai trong số đó đã chết". Nhưng thực tế thì phần lớn những
bí mật không lọt được ra ngoài tới công chúng Mỹ. Đây là một thực tế kể cả khi
thông tin mật này được công khai cho phía đối phương cũng như khi nó là yếu tố
quan trọng trong việc thực hiện chức năng tham chiến của Quốc hội và trong bất
kể sự điều hành dân chủ nào của chính sách ngoại giao. Thực tế, bí mật không tới
được công chúng, không tới được hầu hết các thành viên trong quốc hội và giới
báo chí là những bí mật có ý nghĩa quan trọng với nhiều người trong số họ và nó
có thể được giữ kín trong nhiều thập kỷ bởi cơ quan hành pháp, mặc dù hàng
nghìn người trong cuộc đều đã biết. (xem Chương 3).
Là
một người trong nội bộ nên tôi không có mục tiêu cụ thể cho việc này nhưng công
việc của tôi có cùng tính chất với ngành hành pháp, ít ra là về phần tôi: với
Quốc hội, báo chí và công chúng, biết nhiều về những gì Tổng thống đang làm cho
họ, với sự trợ giúp của chúng tôi, trong lúc thuận lợi nhất cũng là không quan
trọng và không thích hợp. Vào những lúc tồi tệ nhất, việc này là sự động viên
khích lệ đối với các cá nhân và các tổ chức còn mơ hồ, thiển cận và cục bộ khi
can thiệp vào các vấn đề quá phức tạp. Điều này nghe có vẻ gia trưởng đối với
quan điểm phản dân chủ nhưng thực tế là như vậy (và tôi ngờ rằng điều này đã từng
được thay đổi). Nhưng ở đây chúng ta đang nói tới chính sách đối ngoại và các vấn
đề an ninh quốc gia, trong đó chúng ta đã không thấy rằng con người nếu không
được phép sẽ không đóng một vai trò thực sự hữu hiệu nào trong thời đại chiến
tranh lạnh hạt nhân. Điều này nằm trong lợi ích quốc gia, và như chúng ta đã thấy
thì nó đơn giản chỉ cho họ thấy rằng dù thế nào thì giúp cho Tổng thống thoát
khỏi sự can thiệp vẫn là cách tốt nhất.
Thậm
chí khi tôi coi chính sách của chính quyền là chưa đầy đủ và lừa dối như tôi
thường nói về các vấn đề hạt nhân, tôi thấy có rất ít hy vọng cho việc cải tổ từ
phía Quốc hội, mà các tiểu ban của nó là do những người miền Nam thuộc đảng bảo
thủ lãnh đạo. Đã có lần tôi làm việc trong nội bộ chính phủ, sự nhận thức của
tôi về việc làm sao Quốc hội, công chúng và các nhà báo lại bị lừa dối một cách
dễ dàng đến thế đã làm cho tôi thiếu sự tôn trọng với họ và với sự đóng góp tiềm
tàng của họ cho một chính sách tốt đẹp hơn. Dần dần sự nhận thức đó cũng được mở
rộng và làm tôi dễ dàng hơn khi chấp nhận, tham gia, giữ kín những thực tế bí mật
đã lừa dối họ thêm nữa, và giúp họ bỏ qua các vấn đề có thực đang chiếm nhiều
thời gian và chia rẽ nội bộ các nhà hoạch định chính sách. Việc lờ đi các vấn đề
có thực của họ đã cho thấy rõ hơn rằng họ phải để các vấn đề đó lại cho chúng
tôi.
Một
đặc điểm nữa về môi trường làm việc của chúng ta bên trong ngành hành pháp là tạo
ra sự coi thường các ý kiến và những lời phê bình của người bên ngoài, từ đó dẫn
tới việc khó có thể lắng nghe hay học hỏi từ họ. Có thể, một phát hiện ngạc
nhiên nhất khi tham gia vào chính phủ tới cấp này từ khi là một cố vấn đề là tốc
độ không giảm của công việc. Tôi đã từng miêu tả lượng thông tin và các yêu cầu
thông tin gần như không thể tin được đang dồn ép lên bạn. Một quan chức cấp cao
đã phải bảo vệ chính mình bằng một loạt các đầu lọc tinh vi; tôi chỉ là một
trong số nhiều các đầu lọc của McNaughton. Giống như Alain Enthoven, một người
bạn của tôi đã nhận xét, sau khi anh ta rời Rand tới làm trợ lý cho Bộ trưởng
Quốc phòng về các vấn đề phân tích hệ thống thì nó giống như "được uống nước
từ một vòi nước của bình cứu hoả".
Và
không chỉ là một vòi. Một vấn đề khác là phạm vi trách nhiệm của một trợ lý bộ
trưởng hay thậm chí là một thứ trưởng.
12
feet (1 feet = 0,3048m) tài liệu hàng ngày mà tôi xem chỉ toàn nói về Việt Nam.
Tuy nhiên, đó chỉ là một vùng, một tập hợp các vấn đề mà McNaughton phải chịu
trách nhiệm và McNamara muốn McNaughton chỉ ra những điểm đặc biệt chú ý
McNaughton yêu cầu tôi xem tất cả các tài liệu về Việt Nam được các trợ lý quân
sự hay các phó của ông ta đặt trên bàn.
Nhưng
đó cũng chỉ là 1, 2 hoặc 3 tập tài liệu trong số 8 hay 9 đống trên bàn ông ta
lúc đó, giải quyết các vấn đề về châu Âu, NATO hay nơi nào đó ở châu Á hoặc
trên thế giới, với các chương trình viện trợ quân sự, các buổi tiếp xúc, các
bài phát biểu hoặc sự thừa nhận công khai của Bộ trưởng hay Tổng thống về vấn đề
này hay vấn đề kia trong ngày.
McNaughton,
khi là một giảng viên luật đã viết một cuốn sách giáo khoa chuẩn mực, với khả
năng tập trung tư tưởng cao.
Về
vấn đề này, tôi cũng thế, nhưng tôi quen với việc tập trung vào các giai đoạn
lân dài, không chỉ từng giờ mà là từng ngày, từng tháng, trên một lĩnh vực cụ
thể. Điều tôi thấy McNaughton phải làm là quen với việc thay đổi sự tập trung
tư tưởng, trong khoảng thời gian rất ngắn, từ việc tập trung giải quyết một vấn
đề cụ thể trong đống tài liệu này sang giải quyết một vấn đề hoàn toàn khác của
đống tài liệu khác.
Tôi
thấy ông ta đã làm thói quen này tới hàng trăm lần; Tôi nghĩ đó không chỉ là một
trò đùa mà còn là một biện pháp tự điều tiêu hơn cả sự giáo điều. Cứ sau 35
phút, ông ta lại phải phân chia thời gian cụ thể để xem đống tài liệu được sắp
sẵn trên bàn và cho quyết định, - kiểm tra các tài liệu cơ bản, các điện tín,
các bản đánh giá có liên quan và các bản phân tích cho sự lựa chọn của mình -
đánh dấu vào một bản có các ô lựa chọn hoặc "đồng ý" hay
"không", hc)ặc cần xem xét, hỏi thêm thông tin do một cấp phó liệt kê
ra cho ông ta, sau đó ông ta ngước nhìn đồng hồ và đẩy đống tài liệu đó sang
bên cạnh. Tiếp theo, hai tay ôm đầu nghỉ trong giây lát rồi với một cử động dứt
khoát ông quay đầu sang đống tài liệu khác, đám tài liệu cần ông ta phải tập
trung tiếp theo ở phía bên kia của bàn làm việc. Mỗi khi làm xong ông lại ngước
nhìn lên và mỉm cười với tôi, nhưng tôi thường thấy ông làm việc này khi không
còn ai trong văn phòng.
Đó
là cách để ông loại bỏ bộ nhớ ngắn hạn của mình, loại bỏ những gì ông vừa phải
tập trung cao độ và chuyện hết sự tập trung đó sang một chủ đề hoàn toàn khác
mà yêu cầu chỉ trong vòng 27 phút sau.
Tôi
đã chứng kiến áp lực tương tự diễn ra ở tất cả các văn phòng cùng cấp như:
Phòng phân tích hệ thống của Alain Enthovens; Phòng phân tích của Adam
Yarmolinsky, trợ lý cho McNamara; Văn phòng của McGeorge Bundy ở Nhà Trắng.
Mỗi
người đều có cách giảm bớt căng thẳng riêng của mình.
McNaughton
thì bấm chặt các móng tay vào tay, bẻ các khớp đốt ngón tay. Alain lại có một
thói quen rất thu hút là tung đầu nhọn của cây bút chì lên, bằng cách nào đó bắt
được mà không cần nhìn. Giống như một pháp sư không chuyên và diễn viên xiếc mới
vào nghề, có thể tôi chẳng bao giờ hiểu được ông ta đã thực hiện động tác đó
như thế nào. Khó có thể nghĩ được điều gì khi bạn đang xem ông ta làm. Tôi được
biết khi Alain đang nói chuyện với 4 vị đô đốc ông ta đã thực hiện động tác này
và làm cho 4 vị phải phát điên.
Mọi
việc đã trở thành một cuộc khủng hoảng và cần phải có giới hạn: một bài diễn
văn phải được phát đi, một lời khai trước Quốc hội hoặc một cuộc họp báo theo lịch
trình, một lời đề nghị hay yêu cầu từ người đứng đầu nhà nước phải được trả lời
ngay lập tức, tất cả đều đòi hỏi sự xác định rõ ràng của một chính sách mà
trong đó phải lần lượt được phối hợp trước với các ban ngành khác và Nhà Trắng.
Tôi cảm thấy bị áp lực về vụ khủng hoảng tên lửa ở Cuba vì là một cố vấn cho
ISA, nhiều đêm chỉ được ngủ mấy giờ trên chiếc sofa mà bây giờ là văn phòng của
John (sau đó là văn phòng của Paul Nitze). Nhưng điều tôi đang thấy là các cuộc
khủng hoảng đó diễn ra hàng ngày và thường chồng chất lên nhau một lúc. Trong
khoảng thời gian 48 tiếng đồng hồ vào giữa tháng mười năm 1964, Trung Quốc thử
một quả bom hạt nhân đầu tiên, Khrushchev bị tước quyền lãnh đạo Liên bang Xô
viết và Đảng Bảo thủ ở Anh được thay bằng Đảng Lao động. Nhưng tất cả những sự
kiện chấn động thế giới này không phải là những gì làm các quan chức cấp cao nhất
của chúng ta bận tâm trong những ngày đặc biệt đó. Tôi đại diện cho McNaughton
trong một cuộc họp liên ngành ở Bộ Ngoại giao thảo luận những vấn đề liên quan
tới hai sự kiện đầu tiên (sự kiện thứ hai trong hai sự kiện đó hoàn toàn không
dự đoán được trước). Cấp trên của tôi không tới được vì ông ta cùng Bộ trưởng
Quốc phòng McNamara và Bộ trưởng Ngoại giao Rusk đang thảo luận xem sắp tới có
nên ủng hộ cuộc hành quân bí mật của Pháp - Bỉ ở Congo không và nên ủng hộ thế
nào. Trong khi đó, các cuốn băng của Nhà Trắng được công bố gần đây cho biết,
những ngày này Tổng thống Johnson đang rất bận rộn với một vụ scandal tình dục
liên quan tới Walter Jenkins, người trợ lý thân cận nhất của ông, đe doạ tới
chiến dịch vận động chính trị của ông ta. Giờ đây tôi có thể hiểu được những gì
đã nghe được từ một số bên tham gia trong vụ khủng hoảng tên lửa: rằng sẽ thực
sự mệt mỏi nếu có một vấn đề khủng hoảng nghiêm trọng tới mức bạn có thể không
thèm chú ý tới việc gì ngoài việc đó trong suốt 13 ngày liền.
Điều
này rất thú vị. Tốc độ khó tin và thông tin bí mật đã làm bạn cảm thấy quan trọng
và cuốn hút hết toàn bộ thời gian.
Rõ
ràng đó là sự đam mê công việc. Người ta có thể gắn bó với những công việc này
cho dù một tuần với 70 giờ và không có cuộc sống gia đình. Nếu họ phải từ bỏ vì
một lý do nào đó như chính quyền thay đổi, tài chính hay lý do cá nhân, phần lớn
số họ đều tìm kiếm cơ hội trở về để được tiếp tục công việc với các bức điện
tín, các giấy chứng nhận hoặc các cuộc khủng hoảng.
Khi
bạn nhìn thấy họ ở bên ngoài, trong các cuộc họp phi chính phủ hay trên đường
phố, họ thường rất lạc lõng. John McNaughton, thực ra cũng từng trưởng thành từ
đó. Đã có lần, khi tôi thấy ông ta thực hiện một loạt các cuộc điện thoại để cố
gắng tìm cách huỷ bỏ hoặc thúc đẩy những gì vừa diễn ra trong một cuộc họp mà
ông ta đã tham dự, ông ta nhìn tôi với một nụ cười và nói khi tay vẫn cầm điện
thoại: "Cậu biết đấy, tôi không chịu đựng nổi việc này nếu không quá say
mê nó".
Thật
dễ dàng để làm cho bản thân yên lòng - tôi ngờ rằng điều này hoàn toàn đúng với
mọi chính quyền - rằng dù có những hạn chế hay sai sót gì thì chúng ta vẫn đang
gắng làm hết sức mình và không một đội ngũ nào thay thế có thể giải quyết tất cả
vấn đề này tốt hơn chúng ta.
Hình
ảnh thường xuyên xuất hiện trong đầu tôi khi tôi thấy John hay đôi khi là
McGeorge Bundy cứ điện thoại cho hết người này tới người khác, chuyện từ cuộc
khủng hoảng này sang cuộc khác, là trông họ giống như những diễn viên xoay đĩa
trong một rạp xiếc, luôn luôn phải giữ cho những chiếc đĩa trên đầu các sợi dây
dài quay tròn trong không trung. Đó là một hình thức nghệ thuật, nó thật thú vị,
để làm tốt và mắc ít lỗi, nó đòi hỏi một khả năng trí tuệ và kỷ luật không tầm
thường (thường cố bắt được chiếc đĩa khi nó rơi, trước khi nó bị vỡ), nhưng tôi
đã tự hỏi nhiều lần: liệu họ thực sự có thể thoát khỏi được quá trình tạo ra
quyết định như thế này? Với các vấn đề diễn ra cùng một lúc (phạm vi các vấn đề
đó phản ánh trách nhiệm, sức mạnh và quyền hạn của nước Mỹ sau chiến tranh) hay
thậm chí với bất cứ một trong số các vấn đề ấy, bằng cách này, liệu họ có thể
đưa ra hoặc lựa chọn được những chính sách phù hợp mà không cần tạo ra những thảm
bại? Những người đàn ông thông minh và khéo léo như họ liệu có thể giải quyết
quá nhiều vấn đề một lúc một cách an toàn và khôn khéo, với lượng thời gian ít ỏi
như thế?
Bạn
có thể thực sự lãnh đạo thế giới bằng cách này?
Trong
vòng ít năm, Việt Nam sẽ cung cấp cho chúng ta câu trả lời.
Chú
thích:
(21)
"Nếu chính phủ khôngthể tránh được điều đó"- Mann trích dẫn, tr158.
(22)
"Tôi phản đối việcđưa quân lính vào nơibùn lầy" - Sđd, tr.159.
(23)
Luận văn cao họcchuyên ngành kinh tế. Ellsberg.Đây là các ấn phẩmcủa Ellsberg
xuất bản. Luậnán tiến sĩ: Ellsberg, Mạohiểm, Mơ hồ và Quyếtđoán.
(24) "Thậm chí
trước… cácnghiên cứu tối mật củaRand" - Báo cáo R-266của Rand, Sự lựa chọnvà
việc sử dụng cáccăn cứ không quân chiếnlược, 2 tháng 4 năm1954; Báo cáo R-290 củaRand,
Bảo đảm sức mạnhcủa Mỹ để đánh trảcác đòn vào những năm50 và 60, ngày 1 tháng 9
năm 1956, Wohlstetter,1958
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét