Hình bìa cuốn sách "Những bí mật về chiến tranh Việt Nam - Hồi ức về Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc" (Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers)
Tiến sĩ Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc và là cố vấn Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ
Lời dẫn của Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn: Tiến sĩ Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc và là cố vấn Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ trong buổi phỏng vấn với CNN và trong sách "Những bí mật về chiến tranh Việt Nam - Hồi ức về Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc" (Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers) đã viết: "Không hề có chiến tranh Đông Dương thứ nhất và thứ nhì, chỉ có một cuộc xung đột nối tiếp trong một phần tư thế kỷ. Dùng ngôn từ thực tế, đứng về một phía (Mỹ), ngay từ đầu nó đã là một cuộc chiến của Mỹ: mới đầu là Pháp - Mỹ, sau đến toàn là Mỹ. Trong cả hai trường hợp, nó là một cuộc đấu tranh của người Việt Nam – không phải là tất cả người Việt Nam nhưng cũng đủ để duy trì cuộc đấu tranh – chống chính sách của Mỹ và những kinh viện, ủy nhiệm, kỹ thuật gia, hỏa lực, và cuối cùng, quân đội và phi công, của Mỹ... Cuộc chiến đó không có gì là "nội chiến", như nó đã không là nội chiến trong cuộc tái chiếm thuộc địa của Pháp được Mỹ ủng hộ. Một cuộc chiến mà trong đó một phía hoàn toàn được trang bị và trả lương bởi một quyền lực ngoại quốc – một quyền lực nắm quyền quyết định về bản chất của chế độ địa phương vì những quyền lợi của mình – thì không phải là một cuộc nội chiến... Theo tinh thần Hiến chương Liên Hiệp Quốc và theo những lý tưởng mà chúng ta (nước Mỹ) công khai thừa nhận, đó là một cuộc ngoại xâm, sự xâm lược của Mỹ".
Mời xem video clip mới nhất của Kênh QPVN- Chuyên mục Nhận diện sự thật số 120 ngày 27/4/2018:
Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn và Trung tướng Nguyễn Quốc Thước trả lời trên Kênh QPVN: VÌ SAO LỊCH SỬ CHIẾN THẮNG 30-4 VẪN BỊ XUYÊN TẠC?
Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn và Trung tướng Nguyễn Quốc Thước trả lời trên Kênh QPVN: VÌ SAO LỊCH SỬ CHIẾN THẮNG 30-4 VẪN BỊ XUYÊN TẠC?
Theo yêu cầu của Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn, Google.tienlang xin đăng trọn bộ cuốn sách "Những bí mật về chiến tranh Việt Nam - Hồi ức về Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc" (Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers) của Tiến sĩ Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc và là cố vấn Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ.
*************
Chương 8. Việt
Nam: Đoàn của Lansdale
Trong
một bức thư gửi về nước cho những người bạn sau tháng đầu tiên tôi ở Việt Nam,
tôi viết:
"Tới
Sài Gòn, sau một năm đọc các điện tín ở Washington, lúc đầu khó có thể vượt qua
được cảm giác trước về chuyện không hay liệu ai trong số những cậu bé bán báo,
những người đạp xích lô, hay những người báo cháo rong có thể là kẻ thù?
Các
bốt gác bằng bê tông nặng nề rắn chắc, dày 3 feet, chắn ngay ở các lối vào Đại
sứ quán. Hàng rào thép gai ngay phía sau các bốt canh và lính quân cảnh có súng
ngắn đứng kiểm tra những người ra vào. Trước khi cho một chiếc xe hơi vào cổng
họ đưa một cái gương soi dọc theo gầm xe để kiểm tra xem có bom không. Sự có mặt
không thích hợp ở mọi nơi của những chiếc súng làm cho thành phố có kiến trúc
kiểu Pháp này giống như một đô thị thời chiến. Trên tất cả các cửa đều có dòng
chữ: "Tất cả mọi vũ khí phải được để lại trước khi vào". Nhưng không
bao lâu sau lời cảnh báo này bị xem thường vì chẳng có điều gì xảy ra, mọi người
đều thân thiện và đường phố ngày càng trở nên quen thuộc.
Tôi
cảm thấy rất yêu mến trẻ em Việt Nam. Tôi chưa bao giờ thấy ở bất cứ đâu trên
thế giới, trẻ em lại tươi vui, thân thiện và ngộ nghĩnh đến vậy. Chúng làm tôi
nhớ lại thời thơ ấu của mình. Một người Mỹ nói: "Thật thú vị, các bạn lo
ngại về những người dân đang chống lại người Mỹ; nhưng khi các bạn đi qua những
ngôi làng, thấy tình cảm mà bọn trẻ dành cho bạn… thì thật khó có thể tin rằng
cha mẹ của chúng có thể căm thù chúng ta khi con của họ lại thân thiện đến thế".
Cứ như thế, một đám đông trẻ con nhìn chúng tôi đi tới, đi bộ, đi xe hơi, và đồng
thanh hô: "Ok! Ok! Xin chào? Xin chào! Number one". Chúng chạy theo với
những nụ hết sức ngộ nghĩnh làm tôi nhớ tới Robert và Mary chạy ra ôm tôi mỗi
khi đi làm về, trái tim tôi lại thổn thức.
Trong
các ngôi làng, đám trẻ muốn nắm cổ tay, nhổ lông trên cánh tay bạn (vì chúng
chưa từng nhìn thấy những cánh tay rậm lông như thế); nếu bạn muốn tóm chúng,
nhấc bổng lên, chúng sẽ lao nhanh thoát khỏi tay bạn, cho tới khi một đứa dũng
cảm cho bạn thử làm như thế thì tất cả chúng lại muốn được nhấc lên. "Chào
em" (nghĩa là nói lời chào với một đứa trẻ) đem lại những cái nhìn vui sướng,
sự tò mò thú vị; "Chào bà" là câu để chào một người đàn bà nhiều tuổi
có khuôn mặt như trái táo chín nẫu, nhăn nheo, nụ cười rạng rỡ, môi và răng nhuộm
đỏ ở mọi nơi trong làng, ở thủ phủ của một tỉnh, hay ở một xóm bản, bọn trẻ cứ
vây lấy bạn như một bầy chim; khi bạn đi bộ, nói chuyện với một ai đó, những
bàn tay nhỏ luồn vào người bạn từ phía sau, có đứa còn vỗ vào mông bạn một cách
dạn dĩ. Chúng dường như rất vui vì sự có mặt của bạn, vì sự thân thiện của bạn
- thật nồng nhiệt. Tôi yêu chúng và không muốn rời xa chúng.
Mười
hai thành viên trong phái đoàn cấp cao của tướng E.Lansdale đều đã từng làm việc
với ông ta trước đây. Họ được nhiều cơ quan khác nhau tài trợ, xuất phát điểm của
họ đều từ CIA, USIA, AID, một người từ Ban Tham mưu lục quân. Một số hiện giờ
đã nghỉ hưu, một số là các nhân vật độc lập. Tôi được Bộ Ngoại giao tài trợ và
trả lương.
Có
sự khác biệt rất lớn giữa cấp hàm cao, tiền lương và vị trí thấp của tôi trong
đoàn của Lansdale. Không phải bất cứ ai trong đoàn, thậm chí cả Lansdale đều đã
hiểu rõ về trách nhiệm của mình. Nhưng ngược lại mọi người đều có kinh nghiệm
khi làm việc với Lansdale trong một số tình huống chúng tôi đang trải qua, thực
tế là tôi đã được nhận vào như một người tập sự cho Lansdale, để học cách làm
thế nào để điều hành cuộc chiến tranh chính trị như là ông ta quan niệm về nó.
Đó là lý do tại sao ông ta lại nhận tôi vào làm công việc này, trong khi tôi chỉ
biết rất ít về ông ta trước đó, và ông ta chưa bao giờ nói với tôi về công việc
này.
Nhưng
khi tôi nhận ra Lansdale cảm thấy cay đắng như thế nào đối với cấp trên trước
đây của ông ta là McNamara, người không bao giờ đánh giá cao quan điểm của ông
và cuối cùng đã buộc ông phải nghỉ hưu, thì tôi nghi ngờ rằng lý do chính mà
Lansdale quyết định nhận tôi, một người còn trẻ, chưa có kinh nghiệm, vì ông ta
thích thú với suy nghĩ là đã làm được cái việc thu phục được sự tận tâm của một
trợ lý cao cấp của McNamara.
Đã
vài lần tôi nghe Lansdale kể về một trong những cuộc gặp đầu tiên của ông với
McNamara, có thể lần đầu tiên vào năm 1961. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng muốn có một
báo cáo vắn tắt về tình hình ở miền Nam Việt Nam, và Lansdale, người trợ lý
năng động về các chiến dịch đặc biệt, đã tới và cho ông ta một bài học.
Lansdale đem theo một túi to dựng các vũ khí, quần áo và dép cao su thu được của
Việt Cộng mà ông lấy từ một văn phòng ở Lầu Năm Góc. Ông ta đổ chúng lên bàn của
Bộ trưởng, mặc dù tôi đề nghị anh ta sắp xếp cẩn thận để khỏi làm hỏng mặt bàn.
Điều đáng nhấn mạnh là, ông kể, các vũ khí này chưa được lau sạch; một số vẫn
còn dính bùn, tất cả đều là tự tạo, trừ một khẩu súng trường cũ của Pháp. Các
quả lựu đạn và mìn dược chế tạo rất đơn giản, cũng nẹp vào những miếng gỗ có
đóng đinh nhô lên, để xuyên thủng những đôi ủng đi trên các tuyến đường mòn
trong rừng. McNamara không hài lòng khi thấy những vũ khí bẩn thỉu này trên chiếc
bàn sạch bóng của mình. Ông hỏi:
"Những
cái gì thế này?"
Lansdale
nói: "Thưa ngài Bộ trưởng, tôi nghĩ là ngài nên xem kỹ kẻ thù mà chúng ta
đang đối mặt ở miền Nam Việt Nam được trang bị như thế nào. Ngài cũng biết, đội
quân mà chúng ta đang trợ giúp và trả lương đều có được những trang thiết bị mới
nhất của Mỹ. Họ có súng ống, quân phục của Mỹ; có nhiều pháo; thậm chí có cả xe
tăng và máy bay. Trong khi đối phương của họ không có những thứ như thế. Họ chỉ
có những vũ khí cũ của Pháp đã thu giữ được từ phía chúng ta; họ tự chế tạo
pháo cối lựu đạn và mìn ở trong rừng. Họ mặc những bộ đồ đen và đi những đôi
dép cao su được làm từ lốp xe. Họ đang triển khai hoạt động ngoài tầm kiểm soát
của chúng ta".
Thật
là vô ích khi McNamara không bao giờ hiểu được.
Điều
Lansdale đang cố gắng nói với McNamara, rằng đây là một cuộc xung đột về chính
trị, trong đó công nghệ và khối lượng áp đảo của hoả lực không quan trọng bằng
con người và cái điều mà cả hai phía nghĩ họ đang chiến đấu cho ai, và quan tâm
tới cuộc chiến tới mức nào. Dù sao, chiến trường nhỏ bé này ngay từ đầu đã
không gây ấn tượng tốt cho ngài Bộ trưởng. McNamara bảo Lansdale bỏ các thứ ra
khỏi bàn và buổi gặp kết thúc.
Những
ngày đầu tiên quay trở lại Sài Gòn của Lansdale, các quan chức cao cấp Việt
Nam, những người đã tiếp xúc với tướng Lansdale, đều nhìn ông một cách thận trọng,
có phần sợ hãi vì ông nổi danh là một chuyên gia về lật đổ. Họ cho rằng ông tới
Việt Nam để chọn ra một người trong số họ làm người kế nhiệm Diệm. Với tất cả
những gì tôi biết, thì họ suy nghĩ hoàn toàn đúng. Tôi không mấy để ý đến kế hoạch
bí mật của Lansdale đối với Tổng thống là gì hoặc vai trò thực sự của ông ta
như thế nào. Tôi đã nghe những gì ông ta nói với đoàn, tuy không phải là nhiều,
nhưng tôi không cho rằng ông ta đang nói mọi thứ ông biết hoặc nghĩ, đặc biệt
là với tôi. Trước đây, tôi thực sự chưa bao giờ liên quan đến một hoạt động bí
mật nào. Có vài người trong số họ là người của CIA ở trong đoàn chúng tôi, tôi
khẳng định một cách đúng đắn là họ đã sống trong một môi trường bí mật hơn cả
tôi đã từng sống trước đây. Nhưng tôi đã ở cùng những người thường hoạt động bí
mật một thời gian khá lâu đủ để không tỏ ra là người quá tò mò về các nhiệm vụ
nội bộ của đoàn. Tôi im lặng, lắng nghe và chờ đợi để nắm bắt mọi việc mà
Lansdale sẽ chọn để nói với tôi.
Tuy
nhiên, sức mạnh bí ẩn của Lansdale trong đám người Việt Nam không phải là điều
mà trưởng bộ phận CIA và viên sĩ quan chính trị muốn chứng tỏ ra. Vì điều này
đe doạ tới uy tín và ảnh hưởng của họ, họ muốn ngài đại sứ đồng ý rằng Lansdale
sẽ không lấn sân sang lĩnh vực chính trị của họ. Đó là việc không dành cho ông
ta (Lansdale) có nhiều cơ hội trong các cuộc tiếp xúc ban đầu với các quan chức
và những người có trách nhiệm. Tôi ngạc nhiên không hiểu vì sao Lansdale lại
nhanh chóng trở nên khôn ngoan và mưu lược hơn như vậy. Tôi bắt đầu nghi ngờ những
điều mà một số người biết Lansdale từ lâu đã khẳng định với tôi. Một điều không
đúng là Lansdale không muốn có sự căng thẳng trong nội bộ nhưng ông thực sự
không giỏi về việc này.
Quay
trở lại Việt Nam năm 1954 và trước đó là ở Philippines, là một người điều hành
độc lập, mặc bộ quân phục của không quân nhưng lại thực thi những nhiệm vụ ly kỳ,
Lansdale đã tự khẳng định mình, sự thành công của ông cho thấy thực tế ông đã
nhận được sự ủng hộ của tổ chức. Giờ đây, ông không có được sự ủng hộ đó nữa.
Ông không có trụ sở, và đặc biệt là không có kinh phí đi theo. Trong những ngày
đầu, Lansdale phải chọn cách đi vòng vì ông cần có sự tài trợ với tư cách cá
nhân của người đứng đầu Cục Tình báo trung ương, Allen Dulles; anh trai của
Allen Dulles, là John Foster Dulles, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; thậm chí là cả
các cấp trên của họ ở Nhà Trắng là Eisenhower và Nixon (những người, không giống
với hầu hết các phó Tổng thống khác, luôn tích cực tham gia vào các hoạt động
bí mật, đặc biệt ở Đông Dương và sau này là Cuba). Giờ đây, ngay trước khi
chúng tôi rời Washington, một điều hết sức rõ ràng là Lyndon Johnson đã chỉ định
Lansdale để chứng tỏ rằng ông ta đang cố gắng làm mọi việc chứ không chỉ dựa
vào lực lượng quân sự. Lansdale đề nghị một cách mạnh mẽ rằng không nên thông
báo việc bổ nhiệm ông ta để ông ta và đoàn có thể lặng lẽ vào Sài Gòn, tái thiết
các cuộc tiếp xúc và thực hiện vai trò của mình mà không gây nhiều sự chú ý.
Nhưng Lyndon Johnson đã tổ chức ngay một cuộc họp báo thông báo về việc bổ nhiệm
Lansdale. Trong vòng mấy ngày dường như đã rõ ràng là việc bổ nhiệm này đã kết
thúc sự quan tâm của Tổng thống đối với nhiệm vụ của đoàn đi; ông ta đã nhanh
chóng hoàn tất sự việc này.
Đại
sứ Lodge giao cho Lansdale một trọng trách đặc biệt liên quan tới lĩnh vực bình
định mà tướng Westmoreland không quan tâm tới và vẫn còn để trống sau cái chết
của Diệm, Nhu và sự sụp đổ của chương trình ấp chiến lược. Lodge đã nhấn mạnh rằng
chính phủ Nam Việt Nam cần chạy đua với Việt Cộng trong các chiến dịch tuyên
truyền và Cộng sản không được độc quyền sử dụng từ "cách mạng" cho
riêng mình. Chúng ta cũng phải tiến hành cách mạng, với đặc điểm, cách thức
riêng của chúng ta, tốt hơn cách thức của Cộng sản nhưng tiến bộ hơn, dân chủ
hơn và triển vọng thực tế hơn. Các quan chức người Việt đã làm việc với chúng
ta, phần lớn là những cộng tác viên người Pháp cũ, vẫn sử dụng thuật ngữ tiếng
Pháp là "bình định". Lodge muốn thay thế từ đó, có nguồn gốc thực dân
bằng cụm từ "phát triển cách mạng". Điều này chưa bao giờ xuất hiện
trong những người Việt Nam "của chúng ta", một phần vì Cộng sản đã độc
quyền sử dụng từ gốc "cách mạng" và họ cũng đồng nghĩa với từ gốc đó.
Các địa chủ có ruộng đất mà chế độ Sài Gòn là đại diện đã coi bất cứ một hình
thức cách mạng nào đều là sự phản kháng mạnh mẽ và không muốn công bố điều này
một tý nào, thậm chí như là một khẩu hiện sáo rỗng. Giải pháp đơn giản là đặt
cho một bộ quản lý và chương trình này một cái tên tiếng Việt nghĩa là
"Bình định Nông thôn", nhưng được dịch cho người Mỹ là "Phát triển
Cách mạng".
Bộ
trưởng Bộ Phát triển nông thôn, mà Lansdale là người cố vấn là một viên tướng của
Quân đội Việt Nam cộng hoà, tên là Thắng, người có thân hình cao lớn. Trong bộ
quân phục màu xanh ô liu của lính Mỹ, trông anh ta giống như một người Mỹ. Anh
ta còn hài hước kể rằng trên đường đi có một cậu bé tiến lại chỗ anh ta và chìa
tay ra và nói: "Xin chào, ông thật tuyệt, cho tôi điếu thuốc đi!". Thắng
kể là anh ta đã mắng thằng bé một trận vì tội đi xin, và thằng bé nhìn anh ta rất
ngạc nhiên và nói: "Ông nói được tiếng Việt Nam à?". Tướng Thắng còn
nói tiếng Anh rất tốt vì thế anh ta đủ khả năng để làm quen với người Mỹ và chiếm
được lòng tin của họ. Người ta nhận xét anh ta là con người thông minh, có nghị
lực và Lansdale đã bắt đầu có chút hy vọng về Thắng.
Đỉnh
cao của những hy vọng đó đã đến không đầy một năm sau, khi Thắng làm Bộ trưởng
Bộ Nội vụ và chịu trách nhiệm tổ chức cuộc bầu cử Hội đồng lập pháp (Quốc hội -
ND), một sự nhân nhượng đối với phong trào đấu tranh của Phật tử vào mùa xuân
năm đó. Kể từ khi Quốc hội không có quyền gì khác ngoài việc thảo ra một bản hiến
pháp, các tướng lĩnh đã không mấy quan tâm tới nó nữa, và đã có một cơ hội thực
sự, cơ hội này khá trung thực và tự do (trừ việc bác bỏ sự tham gia của Mặt trận
dân tộc giải phóng hoặc các đảng phái đối lập phải có các cuộc thương lượng với
NLF). Lansdale phấn khởi với ý nghĩ sẽ cung cấp cho những người Việt Nam kinh
nghiệm ban đầu của họ về các cuộc bầu cử tự do. Kể từ khi đến Việt Nam,
Lansdale đã trông đợi một sự thay đổi từ chế độ cai trị của quân sự nhìn bằng một
chế độ dân sự, và đã có ý tưởng về một cuộc bầu cử được dân chúng ủng hộ. Nhiều
người Mỹ cho rằng Lansdale quả là khờ dại, nhưng chúng tôi tin rằng cuộc bầu cử
đó sẽ không làm cho người nông dân? Một người bạn Việt Nam, Trần Ngọc Châu nói
với tôi: "Hãy chỉ cho người dân cách để thoát khỏi một quận trưởng tồi tệ
hơn là để anh ta bị Việt Cộng giết chết, và họ sẽ nhanh chóng làm theo".
Tôi
thay mặt Lansdale dự cuộc họp của Hội đồng đặc nhiệm (Mission Council), được tổ
chức hàng tuần do đại sứ Lodge chủ trì. Kể từ lúc Phó đại sứ W. Porter bắt đầu
cuộc họp với những nhận xét về Thắng, Lansdale và những cuộc bầu cử sắp tới,
tôi ghi chép cẩn thận cho sếp. Porter nói rằng Thắng đã có những đánh giá rất
đáng chú ý cho Lansdale trong thời gian qua. Thắng "luôn quan tâm tới việc
tiến hành cuộc bầu cử một cách suôn sẻ và trung thực nhất. Tôi cho rằng
Lansdale được yêu cầu hỏi Thắng xem làm thế nào để chúng ta có thể giúp anh ta
được tốt nhất… Chúng ta sẽ bắt tay vào tiến hành để đáp lại sự chỉ trích đối với
cuộc bầu cử này - các phóng viên đang theo dõi rất sát và họ sẵn sàng lên tiếng
phê phán - chúng ta muốn đạt kết quả thật tốt".
Lodge,
từng là ứng cử viên phó Tổng thống của Nixon năm 1960, đã đáp lại lời khai mạc
của Porter với sự dè dặt, rồi tuôn ra một lời bình luận dài hoàn toàn khác biệt
với Thắng, Porter và Lansdale. Lodge nói: "Khi ngài nói về cuộc bầu cử
trung thực, ngài có thể muốn nói tới hai điều: 1- thiếu sự răn đe - điều này chắc
chắn chúng ta có; 2- sự lo ngại trong một số bộ phận - không phải vậy, tôi
nghĩ, ở các cấp cao nhất (như Lyndon Johnson) - rằng chúng ta sẽ không đủ kiên
nhẫn đối với những người luôn muốn làm hỏng mọi thứ". Điều cuối cùng này đề
cập tới những mối quan tâm được nêu ra trong một bức điện của Bộ Ngoại giao gửi
tới vào buổi sáng hôm đó về triển vọng tình hình mà những phật tử - lực lượng
chủ chốt yêu cầu tổ chức bầu cử và nghi ngờ về những đòi hỏi hoà bình cho dù có
phải đàm phán với NLF - sẽ bị gạt khỏi các danh sách các ứng cử viên. Lodge nói
điều này nhắc ông ta nhớ lại một bài hát của Anh trong Chiến tranh thế giới II:
"Hãy đừng bỏ mặc chúng tôi cho người Đức".
Lodge
tiếp tục với những câu nói lôi cuốn mọi người: "Hiện nay, ngài có một quí
ông trong Nhà Trắng (Lyndon Johnson) người đã dành phần lớn cuộc đời cho các cuộc
bầu cử gian lận.
Tôi
cũng dành phần lớn cuộc đời mình cho các cuộc bầu cử gian lận Tôi đã dành cả 9
tháng để tổ chức gian lận đại hội của Đảng Cộng hoà để chọn Ike làm ứng cử viên
hơn là chọn Bob Taft. Nếu điều đó là tồi tệ…
"Nixon
và tôi lẽ ra đã trúng cử ở Chicago năm 1960 nếu tại đó có một sự trung thực
trong kiểm phiếu. Bộ máy bầu cử của Đảng Cộng hoà ở đó rất lười biếng; họ đã
không công bố số phiếu và cũng không cử ai theo dõi cuộc bầu cử. Tuy nhiên tôi
không đổ lỗi cho những người Dân chủ về việc này, mà lên án những người theo Đảng
Cộng hoà. Chỉ có một điều hạn chế là làm thế nào có thể tỏ ra ngờ nghệch và giả
tạo để chúng ta có thể thoát khỏi nơi đây". Lodge quay sang Porter và hỏi:
"Điều đó có thoả mãn với câu hỏi của ngài không?"
Porter
có vẻ hơi sửng sốt, nói: "Tôi chỉ nghĩ tướng Lansdale nên giữ quan hệ gần
gũi với tướng Thắng trong vấn đề bầu cử".
Lodge
đáp lại:"Đúng thế, tôi muốn tướng Lansdale giữ mối quan hệ gần gũi với Thắng
về vấn đề bầu cử và cũng muốn ông ta giữ mối quan hệ gần gũi với Thắng cả về vấn
đề bình định nữa, điều mà tôi nghĩ là quan trọng hơn nhiều". Sau đó, ông
ta tuyên bố: "Hãy nói với giới báo chí rằng họ không nên áp dụng các chuẩn
mực cao hơn tại Việt Nam so với chuẩn mực (về bầu cử - ND) họ thực hiện tại Mỹ".
Nhưng trong một bức điện trả lời về mối quan tâm của Bộ Ngoại giao cùng sáng
hôm đó, ngài Đại sứ đã nói hơi khác một chút: "Các bước đầu tiên của chúng
ta ở Sài Gòn và Washington là phải làm rõ cho báo chí và Quốc hội biết rằng
không nên phán xét Việt Nam theo các chuẩn mực của Mỹ".
Báo
cáo của tôi đề cập tới sự ủng hộ, chúng tôi có thể trông chờ từ Lodge cho những
nguyện vọng hiện tại của mình. Nhưng Lansdale đã nhìn ra một cách có thể làm
thay đổi thái độ của ngài Đại sứ. Ngay sau việc này chính Nixon đã ghé qua Sài
Gòn trong chuyện thăm tới Viễn Đông. Ông ta ở với Lodge và có kế hoạch thăm
đoàn chúng tôi vào một buổi chiều. Nixon ca ngợi Lansdale, người mà ông ta đã
biết từ những ngày làm phó Tổng thống những năm 50. Nếu chúng ta có thể thuyết
phục để Nixon nhận thấy tầm quan trọng của các cuộc bầu cử tự do trong bối cảnh
này, Lansdale hy vọng điều đó sẽ ảnh hưởng lớn tới người đàn ông đã cùng chung
với ông ta lá phiếu ứng cử viên phó Tổng thống năm 1960.
Thời
khắc khai mạc chuyện thăm đó thường đeo đẳng tôi hơn cả thập kỷ sau, trong suốt
3 cuộc bầu cử ở miền Nam Việt Nam và 2 cuộc bầu cử ở Mỹ: Nixon bước lên căn
phòng lớn ở tầng hai trong ngôi biệt thự của Lansdale, nơi các thành viên trong
đoàn tập trung thành hình vòng cung để chào đón ông.
Trước
đây, tôi chưa hề nhìn thấy ông ta và cũng không bao giờ gặp lại. Ông ta trong bộ
trang phục nhầu nhĩ sau một chuyến đi dài. Nhưng trong cuộc nói chuyện dài sau
đó, ông rất nhanh nhẹn và lưu loát. Ông đi vòng quanh bắt tay từng người chúng
tôi. Sau đó ông gặp Lansdale, đang đứng trước 2 chiếc ghế bành đặt cạnh nhau,
và nói: "Này Lansdale, nhiệm vụ của anh là gì?"
Bắt
đầu ngay công việc, Lansdale nói: "Thưa ngài Phó Tổng thống, chúng tôi muốn
giúp tướng Thắng làm cho cuộc bầu cử lần này trở nên trung thực nhất so với các
cuộc bầu cử từng được tổ chức tại Việt Nam".
"Chắc
chắn rồi, trung thực, trung thực, đúng là như thế" - Nixon ngồi xuống cái
ghế cạnh Lansdale - "Với điều kiện anh phải giành thắng lợi! " Bằng lời
nói cuối cùng ông đã thực hiện luôn 3 cử chỉ: nháy mắt, hất khuỷu tay mạnh vào
cánh tay Lansdale và vỗ nhẹ vào đầu gối mình. Các đồng nghiệp của tôi như va
vào đá.
Chương 9. Các
chuyến đi cùng Vann
Trước
khi tới Sài Gòn, tôi lên một danh sách tên những người tôi sẽ gặp để hỏi chuyện.
Trong vòng 1 hoặc 2 tuần sau khi đến đó, tôi đã gặp tất cả mọi người và bắt đầu
một quá trình học hỏi từng người, điều không bao giờ thừa với tôi trong thời
gian ở Việt Nam. Họ có ý muốn chia sẻ một quan điểm rất chung - có vẻ hài hoà với
quan điểm của Lansdale - dường như các quan điểm đó nhanh chóng làm cho tôi
thêm tin tưởng trong các chuyến đi và các chuyển quan sát độc lập. Những người
này còn lâu mới có thể giải quyết được các vấn đề khác biệt. Không như người Mỹ
khác, họ hầu như nói được tiếng Việt Nam, và họ có những người bạn Việt Nam rất
thân. Họ trở nên yêu mến đất nước và con người Việt Nam, họ muốn tin và đã tin
rằng sự có mặt của chúng ta ở đó là rất có ích cho bản thân họ. Tôi bắt đầu
nghĩ về họ như - những "gã tốt bụng". Trong bức thư viết cho những
người bạn tôi đã trích một đoạn miêu tả những đặc nng và các vấn đề chung mà họ
đã có ý.
Trong
vòng một tuần, tôi biết nhiều người Mỹ, những người có "dính líu" vào
Việt Nam. Đó là những người cuồng tín về chính trị, những người hoạt động chính
trị không theo khuôn mẫu nào, những tay chơi tự do, những người nói thành thạo
tiếng Việt Nam, từng ở Việt Nam lâu, đã từng ra đi hoặc đã quay trở lại, hoặc
đã tìm được một nơi cho riêng họ, đều ở lại Việt Nam. Họ hầu như không có lòng
tin hoặc hết sức dè dặt với các tổ chức của họ vì họ cẩn thận, quá ngạo mạn và
có thái độ coi thường đa số những người Mỹ không có gì dính líu tới và không có
nhiều tham vọng ở Việt Nam, những người mong muốn có những chức vụ cao (và những
người không nói được tiếng Việt Nam, không biết gì về những người nông dân và
không có người Việt Nam thân quen nào). Càng ngày tôi càng nghi ngờ rằng những
người Mỹ này đều rất quan trọng: rằng chúng ta đơn giản không thể giành chiến
thắng nếu không có họ.
Người
đứng đầu trong danh sách đó là John Paul Vann.
David
Halberstam đã kể với tôi về ông ta ngay trước khi tôi rời Washington và tôi đã
đọc về ông ta trong cuốn sách của David có tên " The Making of a Quagmire
(72). Halberstam, cũng như các nhà báo khác mà tôi có dịp gặp gỡ, đánh giá cao
tính trung thực, ngay thẳng và can đảm của Vann trong các năm 1962-1963, khi
ông là một trung tá trong quân đội, cố vấn cao cấp cho Sư đoàn 7 Quân đội Việt
Nam cộng hoà ở vùng châu thổ. Hiện tại ông đã nghỉ hưu, ông quay trở lại Việt
Nam làm cố vấn dân sự cho Cơ quan Phát triển quốc tế Mỹ (USAID), nơi rất dễ
kích thích tính ngay thẳng nổi tiếng của ông, nơi đã giữ ông trong 10 tháng làm
đại diện ở Hậu Nghĩa, một tỉnh nhỏ bé, bụi bặm và hoàn toàn không an toàn ở
phía tây Sài Gòn, có vai trò chủ yếu như một tuyến đường cao tốc cho Việt Cộng
di chuyển ra khỏi vùng đồng bằng lân cận.
Sau
một cú điện thoại Vann tới thăm tôi tại căn nhà ở Sài Gòn, trong một toà nhà
cao, có lắp các máy điều hoà nhiệt độ, cùng với các quan chức Mỹ. Để đảm bảo an
toàn, có một lính bảo vệ ở cửa ra vào và một chiếc bàn để các khách tới thăm ký
tên vào đó. Điều đầu tiên Vann nói với tôi là: "Anh phải ra khỏi đây phải
có khả năng nói chuyện với tất cả những loại người Việt Nam vì họ sẽ không vào
đây, qua chiếc bàn đó". Chúng tôi nói chuyện trong vài giờ về chương trình
của chúng tôi ở Việt Nam và lý do tại sao chúng không được thực hiện, điều gì
có thể được thực hiện và những triển vọng của chúng tôi là gì. Tôi sẽ nêu một
câu hỏi và câu trả lời, sẽ tới chính xác là một chuỗi các thống kê có liên quan
- thực vậy, trái ngược với các thống kê chính thức giả mạo - và các quan điểm
thẳng thắn nghe có vẻ am hiểu, đáng tin cậy nhưng chẳng đọng lại điều gì. Sau một
năm đọc các điện tín và các bản đánh giá, việc nói chuyện với Vann giống như
đang được thở thứ ôxy trong lành. Tôi nêu ra rất nhiều câu hỏi và ghi chép thật
nhanh. Vann mời tôi tới thăm Hậu Nghĩa(73) Và tôi đã sắp xếp công việc để đi
ngay.
Trưa
chủ nhật ngày 17-10-1965, Vann lấy xe đón tôi và đưa tôi tới Bầu Trai, thủ phủ
của tỉnh Hậu Nghĩa. Ông ta đang lái chiếc xe trinh sát bọc sắt, một loại xe
thông dụng có 4 bánh đang được sử dụng nhiều ở các tỉnh. Đoàn công tác của Mỹ
có cả một đội xe như thế và tôi được giao một chiếc. Ba ngày tiếp theo Vann đa
tôi đi lần lượt hết 4 huyện của Hậu Nghĩa, thăm các làng mạc, các huyện thị,
các nơi ở, làm việc của cố vấn và một số trại tái định cư của dân tị nạn. Chúng
tôi đi khắp các con đường trong tỉnh mà không hề bị ngăn chặn.
Gần
như không ai trong đại sứ quán dám thường xuyên đi xe hơi một mình ra các vùng
ngoại ô của Sài Gòn; mọi người thường đi bằng máy bay lên thẳng hoặc đôi khi
trong một đoàn xe có người hộ tống, đặc biệt là một nơi như Hậu Nghĩa. Tôi được
biết Vann đã lái xe tới những nơi mà chưa một ai dám tới.
Tuy
nhiên ông ta sẽ không làm việc này khi chưa thu thập được các thông tin về những
gì đang ở phía trước và phải rất chú ý tới các dấu hiệu nguy hiểm của vùng đất
này. Như một đồng nghiệp của ông nói với tôi: "John không hề mạo hiểm, ông
ấy sẽ không làm việc đó nếu đã có cảnh báo những con đường đó có thể có Việt Cộng".
Vann
và Doug Ramsey, trợ lý của ông, đã giữ một tấm bản đồ cập nhật trong văn phòng
để xem tình trạng mới nhất của các đoạn đường, đánh dấn bằng bút chì như
"có thể qua - không gặp nguy hiểm"; có thể qua nhưng "hơi nguy
hiểm", "vừa phải" hoặc "vô cùng nguy hiểm", hoặc không
thể đi qua. Trên các đoạn đường có đánh dấu "mức độ nguy hiểm vừa phải".
Trên các đoạn đường "vô cùng nguy hiểm", ông ta lái xe rất nhanh 55 đến
70 dặm một giờ, với một tay đặt trên một khẩu súng AR-15 (súng trường tự động
tiền thân của loại súng M-16) hướng ra phía cửa xe, một băng đạn phụ đeo trên
vai, lựu đạn quấn quanh thắt lưng. Một trong những nhận xét của Vann là nhìn
chung những nguy hiểm trên các con đường không cao như người ta thường nghĩ.
Nhưng thói quen của ông ta trong những lúc như thế này, chứng tỏ sự sáng suốt
và thận trọng, cho thấy đôi khi những nguy hiểm cũng khá cao. (Khi tôi hỏi,
Vann chỉ nói dây chính là nơi làm cho mình phải "thận trọng hơn").
Sáu
tuần tiếp theo chúng tôi lái xe tới các thủ phủ tỉnh thuộc Vùng III chiến thuật
(11 tỉnh bao gồm cả Sài Gòn), trong đó có một số tỉnh đã hơn một năm nay vẫn
chưa tới thăm được vì lý do đường sá. Tôi lắng nghe, theo dõi những điều ông ta
nói với tôi và làm theo những chỉ dẫn khi tôi đặt khẩu súng, mà ông ta cho tôi
mượn, lên cửa xe để mở, ngón tay đặt lên cò súng, khi ôm khẩu súng vào lòng, có
lúc lại đặt lên sàn ô tô và kéo cửa xuống để tránh bụi.
Dưới
đây là những ghi chép của tôi về những đánh giá độ an toàn trên đường đi của
Vann (các chi tiết và trích đoạn trong một báo cáo, sau này tôi đã viết cho tướng
Landsdale):
"Các
con đường nhìn chung đã được dọn sạch mìn vào khoảng 10 hoặc 11 giờ sáng; Việt
Cộng hoặc các đơn vị dọn đường của lực lượng dân vệ địa phương đã phát hiện ra
mìn". Nhưng lúc 3 giờ chiều ngày hôm đó, một quả mìn nổ đã làm chết 5 dân
vệ và làm bị thương 7 người khác trên một đoạn đường chúng tôi đã lái xe qua
lúc 11 giờ sáng. Những quả mìn này được điều khiển nổ bằng điện vì thế rất khó
cho những Việt Cộng ở cách xa đó hàng trăm mét có thể điều khiển cho nổ chính
xác vào một chiếc xe đang chạy nhanh. Việt Cộng muốn chờ đánh cả đoàn xe hơn, để
họ có cơ hội tốt nhất phá được một chiếc xe. Một người đưa tin gần đây đã dẫn
Vann tới chỗ một dãy 20 viên đạn đại bác 105 ly - của Mỹ sản xuất, được mua hoặc
lấy trộm của Quân đội Việt Nam cộng hoà - được điều khiển bằng một dây điện
đơn. Một ngày nào đó họ có thể thực hiện theo cách đó để làm nổ một chiếc xe
đang chạy nhanh - giống như Ramsey hoặc tôi - là đánh mìn ngay trước mũi xe của
chúng tôi. Ông sẽ an toàn nhất trong một chiếc xe được bỏ mui khi lái thật
nhanh vào các thời điểm không cố định và vào ban ngày".
Khi
chúng tôi lái xe ra khỏi Sài Gòn, Vann cố tình tránh đi cùng một đoàn xe có hộ
tống viên tỉnh trưởng. Nhưng trên đường trở về hôm thứ ba, ông ta đã phải miễn
cưỡng đồng ý với lời đề nghị của viên tỉnh trưởng muốn chúng tôi ngồi với ông
ta trong chiếc xe hơi của ông ấy. Vann nói với tôi: "Chúng ta rất có thể
vì sự ngu xuẩn của mình mà bị nổ tung trong đoàn hộ tống này hơn là trong chiếc
xe trinh sát của tôi ".
Chúng
tôi tới một pháo đài nhỏ phía sau hàng rào thép gai và một đường hào bao quanh,
một tiền đồn của Lực lượng phòng vệ dân sự (PFs), được trang bị và huấn luyện
nhẹ đang luyện tập theo các tiểu đội và trung đội để bảo đảm an toàn ở cấp làng
xã; một làng bao gồm vài xóm nhỏ. Tiền đồn này có một boong-ke dược đắp bằng
các bao cát và một tháp canh các PFs nằm trên đỉnh chòi quan sát vẫy chúng tôi
khi chúng tôi lái xe đến. Vann nói: "Tiền đồn của PFs này rất tiện lợi cho
Việt Cộng". "Làm sao ông ta biết điều đó?". "Nhiều tháng
nay không hề có báo cáo nào về việc đụng độ với Việt Cộng; không có thương
vong, không bị tấn công. Đấy, anh có thấy đống đổ vỡ này ngay bên cạnh tiền đồn
đó không?" Chúng tôi dừng lại, và Vann chỉ cho tôi sơ đồ của một toà nhà,
chỉ còn một phần khung và mấy tấm lợp mái, trên cùng một bãi đất cạnh tiền đồn
của PFs. Nó được bao quanh bằng dây thép gai kiểu mới. Dây thép gai đã được cắt
thành từng đoạn và cắm xuống đất. "Đó là một trung tâm huấn luyện PFs mà
chúng ta đang cố gắng xây dựng. Việt Cộng đã phá huỷ nó tới 5 lần. Lần gần nhất
cách đây 3 đêm. Họ dỡ các tấm ván và mái lợp xuống, cắt dây thép gai. Chính xác
là 117 bước chân sẽ tới tháp canh ở đằng kia. Nhưng các PFs không hề nghe thấy
gì, không nhìn thấy gì, cũng không có hành động gì". Một số công nhân nằm
gần đó vẫn đang ngủ. "Đó là những công nhân xây dựng, có thể một số người
đã giúp Việt Cộng phá dỡ nó".
Có
thể các PFs không được cảnh báo, vẫn đang ngủ? "Hừm, không. Người dân nói
với chúng ta điều gì đã xảy ra. Trong khi các công nhân Việt Cộng ở ngoài đó,
phá huỷ khu nhà và gây ra cảnh ồn ào, họ còn hướng về phía tháp canh này la
hét: "Chúng tao là anh em của chúng mày. Tại sao chúng mày đi làm việc cho
bọn Mỹ và những kẻ phản bội ở Sài Gòn?" Và hầu hết những lần xảy ra các vụ
việc này, viên chỉ huy của PFs hoặc xóm trưởng đều đã trực tiếp nói chuyện với
người đại diện của Việt Cộng".
Hai
ngày sau đó, trên đường trở về Sài Gòn, chúng tôi lái xe qua tháp canh này, các
tấm lợp mái cuối cùng được di chuyển khỏi trung tâm huấn luyện và đám dây thép
gai còn bị rối tung thêm.
Ngày
qua ngày chúng tôi lái xe qua các vùng đất, nơi đường sá vừa được đào thành hào
sau đó lại lấp đi, hoặc nơi có một bức tường xây chắn nằm ngang đường vì thế
chúng tôi phải lái xe đi vòng, hoặc nơi có một hố mìn lớn đã được lấp đầy.
Trong mọi trường hợp, ở đó đều có một tiền đồn PFs đóng cách xa khoảng 50 đến
100 mét. Vann giải thích, ở đây không có sự trùng hợp.
Việt
Cộng cố tình cắt đứt và đánh mìn con đường - bằng lao động chân tay, cuốc xẻng
mà có thể nghe thấy tiếng động đó trong vòng nửa dặm - ngay trong tầm nhìn và tầm
nghe của binh lính quân đội Việt Nam cộng hoà, của các đồn PFs và thậm chí của
các lực lượng địa phương quân ở các thị trấn huyện. Đó là một bài học rõ ràng
cho dân làng về việc ai là người kiểm soát địa bàn vào ban đêm và sự bảo vệ của
Mặt trận dân tộc giải phóng lớn như thế nào - nếu họ muốn bất kỳ điều gì - họ
có thể tin tưởng vào các lực lượng của chính phủ Việt Nam cộng hoà.
Một
trong các cách mà tôi học được để đánh giá tình trạng an toàn dọc trên các con
đường trong mấy ngày đi cùng Vann là theo dõi tình trạng của dây thép gai gần
các tiền đồn hoặc dọc theo đường đi. Nó có bị cắt không, nếu có thì bị cắt lâu
chưa? Khi đến gần một bốt Vann dừng lại chỉ cho tôi xem một số đầu dây thép gai
bị cắt cách không xa một bốt khác lắm.
Thép
gai đã cũ, nhưng vết cắt vẫn sáng bóng, không bị gỉ. "Có thể mới bị cắt
đêm hôm trước hoặc cách đây 1, 2 ngày. Và nhìn xem họ đã cắt chúng thế nào. Họ
không phá thành lỗ để chui qua qua hàng rào mà cắt tất cả các sợi theo chiều dọc.
Họ đang gửi đi một lời cảnh báo".
Vùng
đất này khá bằng phẳng, nên nếu muốn, người ta có thể phát hiện ra các du kích
Việt Cộng địa phương mà không cần phải đi xa lắm. Các con đường bị ngăn chặn,
đánh mìn hoặc phục kích trên cùng các vị trí ngày này qua ngày khác. Cố vấn
tình báo Mỹ của MACV ở Bầu Trai nói với tôi: "Nếu tôi muốn gặp quân du
kích, tôi phải đợi trong đường hào cạnh cầu Sui Sau vào các đêm". Ông ta
chỉ vào chiếc cầu trên bản đồ, chiếc cầu này theo tiếng địa phương gọi là Sui
Cide, ở trên đoạn đường cách chiếc cầu này 1,25 dặm, đã có 18 người bị giết
trong tháng trước. Ngày hôm qua, khi chúng tôi đang lái xe trên một quãng đường
với tốc độ 70 dặm một giờ thì bị chặn lại vì một số xe đang bị sa lầy nơi đoạn
đường bị Việt Cộng phá hoại hai ngày trước đó và đã được sửa lại một cách cẩu
thả. Chúng tôi dùng dây kéo trên xe kéo được một xe bị sa lầy lên, sau đó chính
chúng tôi lại bị kẹt ở đó và lại phải nhờ các xe khác mới kéo lên. Trong lúc
đó, có 5 người đến nói với chúng tôi bằng các thứ tiếng và ký hiệu khác nhau
"nhanh chóng rời khỏi đây" vì Việt Cộng có mặt ở cả hai bên đường. Chỉ
có khoảng 45 phút trước khi chúng tôi có thể rời đi". Đó là lần duy nhất
trong 2 năm tôi chứng kiến John Vann nổi cáu.
Ba
tháng sau, gần chiếc cầu đó, Doug Ramsey, trợ lý của Vann, bị phục kích và bị bắt;
nếu Doug tự lái xe thì Vann cảm thấy rất an tâm, Doug sẽ có thể vượt qua đám phục
kích, nhưng tay lái xe người Việt Nam của anh ta lại lái rất chậm chạp và dừng
lại ngay trước họng súng. Người lái xe được thả về nhưng Ramsey trở thành một
tù nhân của Việt Cộng trong hơn 7 năm. (Phần lớn thời gian đó anh ta bị nhốt
trong một cũi làm bằng tre, mỗi chiều khoảng 3 tới 4 feet trong khi Ramsey cao
hơn 6 feet - bị phơi dưới nắng, mưa, trong khu rừng phía biên giới Campuchia).
Chúng
tôi lái xe tới xóm Tân Hoa, giờ là trung tâm của làng Hiệp Hoà, vì Hiệp Hoà đã
trở nên quá mất an toàn. Trên bản đồ, xã này thuộc khu vực bình định, được tô
màu đen vì ở dưới mức an toàn, ban ngày trong xã có cán bộ. Nhưng tất cả những
người này, gồm cả xã trưởng phải tới Đông Hoà vào các đêm, để đảm bảo an ninh
cho nhà máy đường. Chúng tôi lái xe chầm chậm dọc theo một con kênh tới đoạn cuối
cùng rồi lại quay trở lại.
Vann
nói: "Những người dân ở đây có vẻ khá ngạc nhiên khi nhìn thấy chúng ta. Họ
không thấy một ai có quan hệ với Chính quyền Việt Nam cộng hoà lại xuống con đường
này để đi dạo trong một thời gian dài". Trông họ rất ngạc nhiên. Nhưng khi
tôi vẫy tay, họ mỉm cười và vẫy tay lại. Có lúc chúng tôi đi qua một đám đông
chừng hơn một chục cậu con trai mặc bộ đồ đen ở vào đầu lứa tuổi 20, tuổi quân
dịch, nhưng không tham gia trong quân đội "của chúng ta". Vann nói,
"Không còn nghi ngờ gì, anh đang nhìn thấy một tiểu đội Việt Cộng",
vì thế tôi đã chụp một bức ảnh. Họ đứng thành hàng thẳng và mỉm cười. Vann lẩm
bẩm, "Thực ra trông họ không có chút gì là người của chính phủ Việt Nam cộng
hoà cả".
Quay
lại khu chợ, bị hai khối người vây kín lấy, tôi cố gắng ra khỏi xe và chụp thêm
mấy bức ảnh cho tới khi Vann bấm còi.
Vann
nói: "Phải ra khỏi đây, đám người bắt đầu tản ra". Lúc này mới có một
khoảng trống quanh chiếc xe của chúng tôi. "Chúng tôi được an toàn trong
chốc lát vì họ không chờ đợi việc thấy chúng tôi và phải mất ít phút để họ có
phản ứng nào đó. Nhưng cuối cùng, một trong số những người này quay lại chỗ
chúng tôi và nghĩ về việc nhận được 20.000 đồng, giải thưởng mà Việt Cộng đưa
ra cho người nào giết được một người Mỹ".
Có
một con đường nhưng chúng tôi không đi vào. Đến ngã ba, Vann chỉ sang bên phải
và nói: "Nếu anh muốn gặp Việt Cộng chắc chắn tới 100%, cả ngày hoặc đêm,
chỉ cần đi vào phía hàng cây kia, cách độ gần 400m. Một số nhà báo người Ba Lan
muốn gặp Việt Cộng, họ đi vào đó và đã gặp ngay. Việt Cộng đốt cháy xe Jeep và
giữ họ trong 3 ngày. Những nhà báo này đã có được một câu chuyện thật
hay".
Dần
dần, tôi có được một sự hình dung rõ về những nơi chúng tôi đã đi tới, ở cả các
làng xã và vùng nông thôn, đều có những cái biển nhỏ chỉ đường cho tất tả những
ai quan tâm, như người hàng xóm thường nói, "Muốn tìm Việt Cộng, rẽ trái -
khoảng 10 feet (30m)", "Chiếc cầu không đi được vì bị đặt mìn, tối
nay và tất cả các đêm", "ở đây không hoan nghênh GVN" hoặc
"Các phương tiện giao thông của GVN chỉ được đi qua con đường này từ 7h
sáng đến 6h tối, các giờ khác chỉ Việt Cộng được qua" (giống như các đường
phố ở Washington, D.C, có đường một chiều theo các hướng đối diện vào các giờ
cao điểm buổi sáng và buổi tối).
Tại
sao lại có tình hình này, ở một tỉnh kề cận với Sài Gòn và có rất nhiều các đơn
vị của Nam Việt Nam hoạt động bên trong, là điều tôi mới chỉ được biết vào mùa
thu năm 1965. Nhưng các câu trả lời tôi nghe được, từ các cuộc tiếp xúc mà tôi
may mắn được có mặt, cứ lặp đi lặp lại ở khắp Việt Nam, cho tới khi tôi rời Việt
Nam vào giữa năm 1967. Một trong những bài học sớm nhất này, nhìn bề ngoài, có
vẻ giống như một hiện tượng quân sự thuần tuý (mặc dù mọi việc khác trong cuộc
xung đột này mà tôi được biết sau đó, đều có nguồn gốc từ các vấn đề chính trị).
Có một nghịch lý là trong một tỉnh, nơi có rất nhiều Việt Cộng, nhưng dường như
các đơn vị của GVN rất khó phát hiện và đánh nhau với họ.
Giải
thích ban đầu cho nghịch lý này, các cố vấn Mỹ ở Hậu Nghĩa nói với tôi (và sau
này chính tôi cũng đã tự khám phá ra), là vì những báo cáo về các cuộc hành
quân đều sai sự thật. Dân vệ địa phương không di chuyển khỏi các tiền đồn của họ
vào ban đêm. Tương tự như thế, với các lực lượng Địa phương quân và Sư đoàn 25 ở
Hậu Nghĩa (cũng như ở khắp Việt Nam, mà tôi sớm biết được); thì hầu hết các hoạt
động nhỏ lẻ do Quân đội Việt Nam cộng hoà (ARVN) báo cáo và phần lớn các hoạt động
vào ban đêm được viện dẫn đều là bịa đặt. Các cố vấn Mỹ có biết việc này và vì
các lý do khác nhau nên đã không báo cáo lên trên. Thứ hai, khi các đơn vị, kể
cả đơn vị nhỏ và các cuộc hành quân mức độ lớn tổ chức đánh ra bên ngoài thì đó
phải là những nơi được cho là Việt Cộng không có mặt; đó là mục đích mà tin tức
tình báo muốn nói tới và tin tức tình báo cũng đủ giỏi để đảm bảo việc đó. Thứ
ba, các cố vấn Mỹ đã cho tôi biết, các cuộc hành quân qui mô lớn có thể chờ đợi
để được thoả hiệp trước về các hoạt động xâm nhập của Việt Cộng từ các sở chỉ
huy và các đơn vị yểm trợ và từ việc đảm bảo của các nguồn thông tin liên lạc
giấu mặt của ARVN (ví dụ như họ đã để lộ các kế hoạch và sự di chuyển trên đài
phát thanh cho những người theo dõi đài phía Việt Cộng). Cuối cùng, các cố vấn
của Trung đoàn 49 nói với tôi: "Mọi kế hoạch của trung đoàn gần như đều bị
thay đổi bởi sở chỉ huy Sư đoàn 25 và mọi thay đổi như thế - từ thay đổi hướng
tiến quân, di chuyển lực lượng chặn đánh, để ngỏ cánh bên sườn - chỉ là nhằm để
giảm thiểu cơ hội đụng độ và để cho Việt Cộng một con đường thoát". Các cố
vấn nói với tôi rằng họ đã cảnh báo "từng ngày" rằng mỗi khi kế hoạch
bị thay đổi, thì sự thành công chỉ là con số không.
Các
vấn đề này không phải gần đây mới có. Vào năm 1962-1963, Tổng thống Diệm đã lo
ngại rằng các thương vong của Quân đội Việt Nam cộng hoà sẽ gây nguy hiểm cho
chỗ dựa mỏng manh của ông ta. Chỉ huy quân sự ở mọi cấp hầu như không dựa vào
việc thi tuyển năng lực mà chỉ dựa vào tham nhũng (thăng chức và thuyên chuyển
vị trí dựa vào việc hối lộ và tiền hoa hồng, việc cấp vốn cho các tỉnh, tài trợ
cho các hoạt động bằng tiền của các quỹ, các nguồn mà Mỹ cung cấp chẳng qua là
các hình thức bòn rút khác nhau), và dựa vào lòng trung thành đối với chế độ
Sài Gòn. Rõ ràng không hề có sự thay đổi nào dưới sự điều hành của hội đồng tướng
lĩnh sau vụ ám sát Diệm. Cũng không có sự thay đổi khi Harkins bị thay bằng
Westmoreland, người luôn đặt lòng tin vào các đơn vị của Mỹ được đổ vào đầu năm
1965 và là người hầu như không có một nỗ lực nào để cải tổ chính sách đề bạt
thăng chức và các hoạt động của Quân đội Việt Nam cộng hoà.
Tất
nhiên, cuối cùng đó là vấn đề của một hệ thống chính trị, một cấu trúc xã hội
mà chính phủ Mỹ, vì nhiều lý do khác nhau, đã dựa vào để theo đuổi cuộc chiến
tranh và không muốn làm mất tính ổn định của nó.
Ngay
sau chuyến đi của tôi tới Hậu Nghĩa, John Vann nói với tôi về một sĩ quan Việt
Nam, người có ảnh hưởng lớn tới suy nghĩ của ông, trung tá Trần Ngọc Châu. Vann
coi anh ta là người Việt Nam am hiểu nhất về vấn đề đánh bại cuộc nổi dậy của Cộng
sản mà ông từng gặp, một phần vì kinh nghiệm trực tiếp của ông ta với vấn đề
này. Không giống như đa số các nhà lãnh đạo quân sự được chúng ta ủng hộ ở Việt
Nam và đứng về phía người Pháp để chiến đấu, Châu đã phục vụ trong quân đội Việt
Minh chống lại người Pháp cho đến năm 1950, lúc đầu là chỉ huy tiểu đoàn, sau
là chính trị viên trung đoàn. Châu đã tham gia vào các lực lượng dưới quyền của
Hoàng đế Bảo Đại vì anh ta tin rằng người Pháp đang tìm cách giành độc lập cho
Việt Nam.
Sau
này, anh ta đã trở thành một trong những sĩ quan đầu tiên học trong học viện
quân sự ở Việt Nam và vào miền Nam năm 1954 để phục vụ trong quân đội dưới thời
Diệm. Hầu hết, gia đình anh ta, gồm các anh em trai, vẫn ở ngoài miền Bắc. Một
trong số họ là sĩ quan tình báo của Bắc Việt Nam, cùng cấp bậc với anh ta.
Điều
làm Vann đặc biệt ấn tượng là anh ta đã từng là thư ký Hội đồng An ninh quốc
gia dưới thời Diệm, sau đó là tỉnh trưởng tỉnh Kiến Hoà đúng vào thời điểm nổi
dậy của Phật tử năm 1963.
Anh
ta là một người mộ đạo Phật. Tuổi thanh niên của anh ta được nuôi dưỡng để trở
thành một tăng ni cùng với Trí Quang, một nhà lãnh đạo phong trào đấu tranh của
Phật giáo năm 1963.
Ở
Kiến Hoà, Châu những đưa ra nhiều ý kiến cho thấy kinh nghiệm của anh ta với Việt
Minh, các biện pháp tranh đua với Việt Cộng và tìm kiếm sự ủng hộ chính trị đối
với chính quyền.
Ví
dụ, anh ta đã thành lập cái mà anh ta gọi là các đội điều tra trắc nghiệm, đi hết
xóm này đến xóm khác, tìm hiểu về những than phiền của người dân địa phương và
những dự án họ muốn ủng hộ.
Vann
đưa tôi đi gặp Châu ở Kiến Hoà. Bằng tiếng Anh khá thành thạo, Châu làm tôi có ấn
tượng mạnh, đặc biệt vì chất dân tộc chủ nghĩa rõ ràng trong anh ta cũng như sự
tôn trọng nhiều mặt trong các hoạt động của phong trào cộng sản. Đặc biệt, anh
ta chỉ ra sự gần gũi và sự quan tâm tới phúc lợi của Cộng sản đối với người dân
địa phương. Vì những phẩm chất này mà anh ta cho rằng chính quyền phải học hỏi
nhiều từ những người Cộng sản. Vào đúng lúc đó, sự kỳ thị đối với đức tin Phật
giáo của anh ta của những người Cộng sản đã làm anh ta xa rời những người Cộng
sản, và anh ta vẫn cho rằng chính quyền miền Nam Việt Nam - với sự viện trợ của
Mỹ - hoàn toàn có thể đem lại cho người dân của anh ta một sự lựa chọn tốt hơn,
tự do hơn và tôn trọng tôn giáo và truyền thống văn hoá của người Việt Nam hơn.
Châu
là một chiến sĩ dũng cảm và cũng là người trí thức. Anh ta được cả Việt Minh và
Diệm tặng thưởng huân huy chương vì sự dũng cảm trong chiến đấu. Rõ ràng là anh
ta thấy được sự ưu việt của GVN trên nhiều lĩnh vực và sự cải tiến đó là cần
thiết, và mặc dù anh ta tôn trọng dũng khí, kỷ luật và lòng yêu nước của những
người cộng sản, nhưng anh ta vẫn cho rằng cần phải chiến đấu chống lại họ và nếu
có thể phải ngăn chặn họ thống trị Việt Nam. Giống như những người khác đã biết
anh ta, tôi thấy sự khẳng khái của anh ta đã củng cố niềm tin của tôi lúc đó tới
mức mà tôi cho rằng chúng ta có mặt ở Việt Nam không đơn giản chỉ để thúc đẩy lợi
ích riêng của chúng ta mà còn đem lại nhiều lợi ích cho người Việt Nam.
Anh
ta thực sự là một người Việt Nam chín chắn, dũng cảm và tận tuỵ, và là người thấy
vui mừng khi có sự can thiệp của Mỹ.
Tôi
từng biết, một trong những lý do chính ngăn cản tiến trình phát triển của cuộc
chiến tranh là sự yếu kém toàn diện của giới lãnh đạo quân đội miền Nam Việt
Nam. Hầu hết các sĩ quan đều mua địa vị hoặc có được địa vị nhờ vào thói gia
đình trị. Vấn đề không phải là thiếu nguồn sĩ quan giỏi mà là không tiến cử những
người có phẩm chất lãnh đạo tốt luôn rất dồi dào. Các sĩ quan phải là những người
giàu có, có quá trình đào tạo cơ bản; thuộc thành phần có ruộng đất, điều đó có
nghĩa là họ có ít sự đồng cảm và kinh nghiệm đối với các binh lính. Người Pháp ủng
hộ những người theo Thiên Chúa giáo, đó là một truyền thống mà Diệm và những
người kế tiếp ông ta tiếp tục ủng hộ. Châu là một trong hai sĩ quan duy nhất có
cùng cấp bậc hoặc có cấp bậc cao hơn trong quân đội có nhiều kinh nghiệm quý
giá về Việt Minh.
Kinh
nghiệm về Việt Minh đó, cũng như vốn kiến thức của anh ta về Phật giáo, đã làm
cho người ta hoàn toàn không thể tin rằng anh ta sẽ lên đến cấp tướng, mặc dù
anh ta rất có khả năng.
John
Vann và Doug Ramsey tin rằng "vấn đề chính" ở vùng nông thôn Việt Nam
là "các nhà lãnh đạo chính phủ, các thành viên nội các, các quan chức cấp
tỉnh, cấp huyện hiện nay không xuất thân từ nông dân, không có cùng suy nghĩ,
không biết nhiều về nông thôn hoặc không đáp ứng được các nguyện vọng của người
nông dân". Trên tất cả các mặt, họ đều có sự khác biệt sâu sắc với các
quan chức của Mặt trận dân tộc giải phóng. Đó là khía cạnh khác của "vấn đề".
Đến
cuối tháng mười, Vann được đề bạt làm cố vấn các vấn đề dân sự cho viên tướng
tư lệnh các lực lượng Mỹ trên toàn Vùng III chiến thuật. Ông ta quyết định
"tìm những người làm được việc trong khu vực theo cái cách mà ông ta từng
thực hiện ở Hậu Nghĩa. Vann đặt ra một lịch trình cho các chuyến đi cuối tuần,
tới thủ phủ các tỉnh và mời tôi đi cùng. Cứ đến mỗi cuối tuần công việc học hỏi
của tôi lại tiếp tục. Luôn có những điều mới lạ để học hỏi ở mỗi tỉnh, mỗi huyện
chúng tôi, mặc dù thực tế là chỉ quan sát và nghe đi nghe lại một vấn đề. Tôi
chưa bao giờ ngừng học hỏi từ John. Chúng tôi có nhiều thời gian để nói trong
những chuyến đi như vậy. Đa phần Vann trả lời những câu hỏi của tôi về Việt
Nam, và chúng tôi cũng nói với nhau nhiều về cuộc sống của mình.
Suy
nghĩ độc đáo của Vann đối với việc chèo lái tình hình thực ra cũng có cơ sở của
nó. Ông ta tin chắc rằng ảnh hưởng một cách rõ ràng hơn của người Mỹ đối với
chính quyền miền Nam Việt Nam có thể tạo ra sự thay đổi lớn về tình hình. Nhưng
biết được những gì cần phải làm đòi hỏi phải có sự am hiểu sự tình ở cấp làng,
xã mà không ai có thể có được điều đó nếu chỉ ngồi trên tỉnh, để quan sát hoặc
chỉ nhìn xuống từ trên máy bay trực thăng. Cách đó không chỉ làm cho bạn mất hiệu
quả quan sát vì phải bay đủ cao để tránh được các tay súng bắn tỉa, nhưng quan
trọng hơn, là bạn khó có thể tới thăm được nhiều nơi trong vùng. Lại đúng vào
lúc không có nhiều các chuyến bay trực thăng như thế.
Các
quan chức và một số các cố vấn dựa chỉ chủ yếu vào các bản báo cáo từ các kênh
chính thức. Điều đó có nghĩa là bạn sống trong sự thờ ơ, thường có sự lạc quan
thái quá, so với những gì bạn học được từ các cuộc trò chuyện, mặt đối mặt với
các đại diện chính quyền ở cấp thấp nhất hoặc với những dân làng ngay tại chỗ.
Sẵn sàng đi bằng xe ô tô đã tạo ra cho bạn khả năng nắm bắt tình hình một cách
thường xuyên hơn nhiều và có thể tới được nhiều nơi tưởng chừng không thể đến
được. Hơn nữa, bạn có thể chứng kiến những sự việc xảy ra trên đường đi mà
không có cách gì khác là buộc phải tham gia vào.
Tôi
thường xuyên được nghe Vann nhắc nhở những người Mỹ khác tham gia chương trình
bình định về tầm quan trọng của việc phải tự mình tìm hiểu tình hình và các vấn
đề ở các khu vực họ phụ trách. Ông ta khuyên họ không nên chờ đợi các đoàn xe
có hộ tống hoặc trực thăng mà phải tự lái xe đi vào các làng để xem điều gì
đang diễn ra ở đó. Đó là một sự mạo hiểm. Không một ai trong chúng tôi nghĩ rằng
bạn sẽ khuyên người khác thực hiện các hành động mạo hiểm mà bạn cho rằng họ phải
thực hiện trừ phi bạn có cảm giác đó là sự mạo hiểm của chính bạn; chúng tôi đã
làm cái điều mà Vann (và sau này là tôi) đề xướng.
Đối
với tôi có một lý do (được ngầm hiểu) khác để lái xe đi trên các con đường. Đặc
biệt những tháng đầu tiên, với tư cách là một người còn trẻ tuổi, một quan chức
dân sự và chưa có kinh nghiệm về Việt Nam, tôi sẽ đỡ bị nguy hiểm hơn nếu tôi đến
một tiền đồn ở khá xa bằng trực thăng, chứ không phải chui ra khỏi một chiếc xe
bụi bặm cùng với Vann. Sự có mặt của Vann, cùng với kiến thức về quân sự và
danh tiếng của ông ta ở Việt Nam, đã giúp tôi chống lại những ấn tượng ban đầu
không hay rằng tôi là một kẻ non nớt hoặc đơn giản là kẻ hữu dũng vô mưu khi đi
ô tô đến đó. Các thiếu tá và đại tá mà chúng tôi đến thăm đều thừa nhận rằng
Vann biết những gì ông ta đang làm; ông ta cho rằng các chuyến đi thị sát là rất
quan trọng và những mạo hiểm trong chuyến đi là thật đáng giá. Tất cả những
viên sỹ quan đều rất có ấn tượng về Vann.
Các
tỉnh chúng tôi đã tới trong những tuần đầu tiên là các tỉnh gần Sài Gòn nhất.
John đã hoãn đến hai tỉnh ở xa hơn đến tận cuối chuyến đi. Ông ta không chắc lắm
về những gì chúng tôi sẽ thấy được trong chuyến đi áp chót đến Hàm Tân, thị xã
của tỉnh Bình Tuy, nằm ở phía Bắc Sài Gòn, trên bờ biển. Chúng tôi sẽ không thể
trực tiếp tới đó, không thể dễ dàng đi thẳng đến đó, và còn có một khu căn cứ của
Việt Cộng nằm giữa Hàm Tân và Sài Gòn. Chúng tôi sẽ phải đi đường vòng, tổng cộng
khoảng 140 dặm, chủ yếu qua rừng rậm. Trước tiên, chúng tôi lái xe tới Xuân Lộc,
cách Sài Gòn 60 dặm về phía Đông Bắc, nói chuyện với các cố vấn ở đó, ăn trưa,
sau đó đi về phía Đông 80 dặm thì đến được Hàm Tân. Chúng tôi sẽ nghỉ đêm ở đó
và quay trở về vào chủ nhật vẫn theo đường cũ. Vann đã nghiên cứu rất kỹ tuyến
đường này và cho rằng chuyến đi này sẽ thực hiện được.
Nhưng
rất khó có thể nói trước điều gì vì gần một năm nay chưa có ai lái xe từ Sài
Gòn đi Hàm Tân theo tuyến đường này.
Cái
đêm trước khi chúng tôi rời Sài Gòn, tôi đã nói về chuyến đi này với một phóng
viên chuyện viết về lĩnh vực chính trị dưới quyền của Phil Habib ở đại sứ quán,
một người bạn của tôi, người mà tôi sẽ gọi là Victor. Anh ta là một sĩ quan trẻ
của Cục đối ngoại, nói được tiếng Việt, rất thông minh và am hiểu về Việt Nam.
Habib đã giữ anh ta ở lại Sài Gòn làm công việc phân tích các vấn đề chính trị
đã khá lâu kể từ sau khi anh ta đi thăm mọi nơi ở Việt Nam bằng ô tô, chứ không
phải bằng trực thăng hoặc máy bay. Khi biết chúng tôi sẽ đi ô tô, anh ta tỏ ra
nhiệt tình muốn đi cùng chúng tôi để nắm bắt được tình hình an ninh trên bộ.
Vann rất vui vì có một người làm về lĩnh vực chính trị đi cùng.
Chúng
tôi phải rời Sài Gòn từ sáng sớm thứ bảy vì muốn tới Hàm Tân trước khi trời tối.
Chúng tôi đón Victor và đi qua nhiều đường phố đông đúc ở nội thành Sài Gòn và ở
cả ngoại ô. Trên đường cao tốc tới Biên Hoà, thấy có nhiều xe tải hạng nặng ra
vào căn cứ lớn của Mỹ và cả đường băng ở đó. Khi chúng tôi rẽ về phía đông bắc
sau khi qua Biên Hoà, thì các phương tiện giao thông đã giảm bớt đi nhiều. Chẳng
bao lâu sau chỉ còn duy nhất chiếc xe trinh sát của chúng tôi trên đường. Chúng
tôi chạy qua những cánh đồng lúa, nhìn thấy những người phụ nữ nông dân bình dị
đội những chiếc nón lá đang lom khom, những cậu bé đang cưỡi trên lưng trâu. Mấy
đứa giơ tay vẫy chúng tôi. Victor thấy vui sướng vì lại được ra khỏi Sài Gòn
trên con đường này.
Anh
ta nói với chúng tôi rằng Habib là người rất thận trọng với những việc ông ta
giao cho các sĩ quan chính trị thực hiện, nhất là những việc mạo hiểm. Điều này
cũng hạn chế Victor làm những việc anh ta muốn, với tư cách là một phóng viên
phụ trách lĩnh vực chính trị ở các tỉnh.
Vann
đang lái xe, Victor ngồi ở chiếc ghế dựa nhỏ ngay phía sau Vann. Khi chúng tôi
đón anh ta, John đưa cho anh ta một khẩu súng, nhưng anh ta đã từ chối. Hầu như
mọi quan chức dân sự ở bên ngoài Sài Gòn, thậm chí ở các tỉnh lỵ, đều có vũ khí
trong văn phòng hoặc trên xe và mang chúng bên mình khi họ xuống các vùng nông
thôn, mặc dù họ không đem theo chúng vào trong các tỉnh lỵ hoặc các làng nơi họ
đặt căn cứ. Nhưng Victor lại không được huấn luyện về quân sự và cũng không có
kinh nghiệm về sử dụng các loại vũ khí.
Giờ
đây chúng tôi đi đang qua một vùng nông thôn rộng lớn, khá tiêu điều. Không có
chiếc xe nào đi cùng hướng với chúng tôi. John đưa ra những nhận xét trên đường
đi như thường lệ ông nói chủ yếu cho Victor nghe những điều ông đã bảo tôi lưu
ý từ trước: các cột hàng rào có những đoạn thép gai bị cắt cong lên, bên cạnh
những tiền đồn của PFs bị cháy hết, các đường băng nham nhở ngang qua một con
đường rải nhựa, nơi Việt Cộng đã cho nổ mìn phá con đường và nó đã được làm lại.
Lúc
đầu Victor hỏi John rất nhiều câu hỏi và ghi chép nhanh.
Sau
đó, anh ta lại im lặng trên suốt một đoạn đường. Cuối cùng anh ta nói:
"John, ông nhận xét như thế nào về tình hình an ninh dọc tuyến đường
này?"
John
nói: "Bình thường, ở mức trung bình".
Victor
lại im lặng. Sau đó anh ta nói nhỏ: "John, sự thật là tôi không dự định sẽ
làm việc này. Phil sẽ tức giận nếu biết tôi ra ngoài cùng với ông. Các sĩ quan
chính trị không được phép ra ngoài trên những con đường này, trong trường hợp
chúng ta bị bắt. Tôi nghĩ tốt hơn tôi nên quay lại". Vann nói với anh ta
chúng tôi không có thời gian để đưa anh quay lại, hoặc chúng tôi sẽ không thể tới
Hàm Tân vào ban ngày. Tuy nhiên, có một căn cứ của Quân đội Việt Nam cộng hoà ở
ngay phía trước, chúng tôi có thể để anh ở đó. Đến thứ bảy, chắc chắn sẽ có một
đoàn xe hộ tống trở về Sài Gòn và họ sẽ đón anh. Một trung uý của Quân đội Việt
Nam cộng hoà ở căn cứ đó đã khẳng định điều này, Victor xuống xe và chúc chúng
tôi may mắn trong chuyến đi. Anh ta nói, anh ta mong muốn có thể đi với chúng
tôi và thực sự trông chờ vào điều đó, thật là thú vị khi anh ta mong muốn điều
đó, nhưng anh ta nên nghĩ kỹ trước khi chúng ta khởi hành.
Một
giờ sau, sau khi lái xe qua những đồn điền cao su rộng lớn chúng tôi tới Xuân Lộc.
Chúng tôi gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ của các cố vấn Mỹ khi lái xe vào khu nhà
cố vấn của tỉnh. Vì gần một năm nay, họ chưa hề thấy một chiếc xe nào đi một
mình từ Sài Gòn vào đây. Nhưng họ đang chờ đợi chúng tôi vì Victor đã tới đó
trước chúng tôi và nói với họ chúng tôi đang trên đường đi. Một chiếc trực
thăng đã hạ cánh xuống căn cứ của Quân đội Việt Nam cộng hoà trên đường tới
Xuân Lộc và Victor quyết định đi nhờ một chuyến để tới nghe báo cáo của các cố
vấn ở đó.
Trong
bữa ăn trưa, sau buổi họp ngắn, chúng tôi nhận được rất nhiều câu hỏi về tình
hình trên dọc đường đi. Các cố vấn rất quan tâm tới những so sánh của chúng tôi
với 9 tỉnh khác mà chúng tôi đã tới khảo sát vài tuần trước đó. Có nhiều cử chỉ
lắc đầu huýt sáo khi chúng tôi nói chúng tôi sẽ tới Hàm Tân. Họ thậm chí chưa
bao giờ nhìn thấy con đường đó từ trên trực thăng, khi bay trên khu rừng có những
tán cây 2 tầng. Họ đưa cho chúng tôi thêm đạn, lựu đạn và tập trung xung quanh
chiếc xe để tiễn chúng tôi lên đường. Trước khi chúng tôi đi, Victor gõ nhẹ và
mở cửa xe. Anh ta nói, "Để cho vui, tôi sẽ đi cùng các anh". John nói
chắc chắn rồi, và Victor trèo lên xe.
Chúng
tôi tiếp tục câu chuyện còn bỏ dở từ bữa ăn trưa khi rời Xuân Lộc đi Hàm Tân.
Victor là một người bạn đường tốt, rất thông minh và vui tính. Anh ta lại ngồi
sau John; tôi ngồi ghế bên phải. Ngay sau khi rời Xuân Lộc, chúng tôi qua một
khu rừng rậm. Trời tối sầm lại. Mặc dù hôm đó là một ngày nắng đẹp nhưng mặt trời
đã biến mất. Trước đây tôi đã từng được nghe về các khu rừng có những tán cây 2
- 3 tầng, nhưng tôi chưa bao giờ nhìn thấy. Nghĩa là có vài tầng lá tiếp liền
nhau, phù hợp với các loại cây có chiều cao khác nhau, mỗi tầng lá đan xen nhau
như một cái trần tách biệt. Tôi đã thấy điều mà các cố vấn ở Xuân Lộc nói rằng
họ chưa bao giờ nhìn thấy con đường này từ bên trên. Từ "rừng nhiệt đới"
được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam vì dường như nó gợi cho người ta về tính ưu việt
hơn so với cái gọi là rừng hoặc đầm lầy, đây là loại khu rừng cổ tích.
Con
đường đi xuyên qua khu rừng khá nhỏ hẹp và hút gió, vì thế chúng tôi không thể
nhìn ra xa phía trước trong bóng tối.
Con
đường cứ như một đường hầm được đặt xuyên qua rừng cây rậm. Tôi chưa bao giờ
nhìn thấy con đường nào như thế. Trong những năm chiến tranh, con đường này
không được tu sửa và rừng rậm đã trùm lên nó vì thế nhiều chỗ chỉ đủ rộng để
cho một chiếc xe đi qua. Tôi tự hỏi chúng tôi sẽ làm gì nếu gặp một chiếc xe
khác đi ngược chiều, chưa kể đến nếu có một trận phục kích.
Một
số đoạn đường tôi có cảm giác nếu thọc tay ra ngoài cửa xe vào đám lá cây rối
tung, chắc sẽ không thể rút tay lại dược.
Chúng
tôi không chỉ bị che kín bằng các bức tường xanh ở hai bên mà thường xuyên nhìn
thấy ngay trước mặt cũng có một bức tường cách khoảng gần 50m, ở đoạn gấp khúc
của con đường.
Tôi
đang nghĩ là chỉ cần một người nấp ở phía sau tán lá, ở một đoạn đường vòng, với
khẩu súng tự động là có thể chặn được cả một tiểu đoàn trên con đường một chiều
này. Những chiếc trực thăng không thể phát hiện anh ta từ phía trên và đám bộ
binh sẽ phải mất nhiều thời gian để đi loanh quanh tìm anh ta, nếu họ muốn
thoát ra khỏi con đường này.
Các
dây nho và cành cây đang quất mạnh vào hai sườn bên xe, mọi người phải cố đóng
chặt cửa để các cành cây khỏi chọc vào bên trong xe. Đi được khoảng 10 phút
trên con đường này, Vann, không thể lái xe nhanh được vì có nhiều khúc quanh,
đã đặt khẩu M-16 lên cửa sổ, tay trái giữ chặt súng và đặt ngón tay vào cò chỉ
lái xe bằng tay phải. Ngồi phía dưới, tôi đã làm theo Vann nhưng về bên phải cửa
xe. Tôi phải giữ thật chặt để tránh các cành cây đâm qua cửa sổ vào, kéo ngược
nó lại. Tôi mở một trong các ống dựng lựu đạn đem theo, lấy ra hai quả lựu đạn
hơi cay và đưa cho John một quả. John đặt nó trên ghế cạnh ông ta, còn tôi để
trong lòng.
Đây
là một bài luyện tập tôi đã trải qua vài lần trong tháng trước, thường vào lúc
John đang lái xe rất nhanh. John đang nói với tôi một cách thực tế về những việc
khi lái xe, hy vọng những thận trọng này sẽ không làm những người đi trên xe phải
lo sợ.
Victor
không nói gì. Nhưng sau khi đi được 20 phút, Victor nhoài người lên phía trước,
vỗ vào vai Vann và hỏi, "John, tình hình an ninh trên đoạn đường này thế
nào?"
John
nói: "Tồi tệ".
Victor
không do dự lâu. Anh ta nói, "John, tôi nghĩ tôi phải quay lại". John
không nói gì. Rõ ràng chúng tôi không thể quay đầu xe lại được nữa. Nhưng đi được
khoảng một trăm mét nữa, con đường đã rộng thêm một chút và có chỗ lùi, ông ta
mới có thể quay xe lại được.
Quay
trở về Xuân Lộc bằng con đường chúng tôi vừa đi, Vann đặt súng xuống và lái xe
bằng hai tay, tăng tốc và vượt qua các đường rẽ nhanh hơn để bù lại thời gian
chúng tôi vừa mất. Victor không nói gì khi được quay trở về căn cứ. Chúng tôi vẫy
tay tạm biệt và Vann vòng xe và đi ngược lại.
Mặt
trời vẫn còn khá cao, cho tới khi chúng tôi không nhìn được thấy nó khi vào lại
khu rừng cũ.
John
lại có phần chậm đôi chút nhưng vẫn đi nhanh hơn lần đầu, tới khi ông lại đặt
chiếc M-16 lên cửa sổ và trở lại lái xe bằng một tay tới tận nơi chúng tôi đã
quay đầu lại. Lúc đó John khó có thể nói được gì, tiến lùi liên tục, nhưng mọi
sự bất ngờ lúc đó chỉ làm ông ta lắc đầu và cười. Vann nói: "Tôi thực sự
không nghĩ anh ta (Victor - ND) sẽ làm như thế lần thứ hai. Tôi cũng không nghĩ
anh ta có tác dụng".
Tôi
nói: "Lạy chúa, John, tại sao anh phải nói tình trạng an ninh trên con đường
này rất tồi?"
Trong
một giây, Vann bỏ cả hai tay khỏi vô lăng, mở rộng cánh tay, chỉ vào cây cối
đang quấn quýt lấy hai bên hông xe và nói "Tôi có thể nói được gì nào? Hãy
cứ nhìn đi?"
Khi
chúng tôi tới Hàm Tân, trời vẫn chưa tối nhưng cũng đã muộn. Chúng tôi vào khu
nhà của nhóm cố vấn và tự giới thiệu về mình. Một sĩ quan hỏi chúng tôi đến khi
nào; vì anh ta không nghe thấy tiếng máy bay trực thăng tới. Chúng tôi nói
chúng tôi không đi bằng trực thăng. Lúc đó anh ta nhìn ra ngoài và thấy chiếc
xe bám đầy bẩn của chúng tôi. Anh ta phác một cử chỉ tỏ ý nghi ngờ và hỏi
"Các anh lái xe tới đây à?" John nói đúng thế, sáng nay chúng tôi đi
từ Sài Gòn, qua Xuân Lộc. Các cố vấn khác tập trung xung quanh, nhìn chúng tôi
chằm chằm tỏ ý ngạc nhiên mặc dù thực tế là chúng tôi đã đi suốt cả ngày bằng ô
tô.
Họ
nói gần một năm nay, không ai lái xe trên con đường này.
Một
người hỏi: "Con đường đó được mở rồi à?"
John
nói: "Đúng thế, hôm nay".
Một
cố vấn bộ binh về các vấn đề tác chiến trong rừng hỏi, "Dọc đường đi có
nhiều chỗ có thể phục kích tốt không?"
John
trả lời: "Hai chỗ, Sài Gòn tới Xuân Lộc và Xuân Lộc tới Hàm Tân".
Sau
khi trở về tới Sài Gòn, chúng tôi đã thực hiện chuyến đi cuối cùng. Vũng Tàu, một
tỉnh gần Sài Gòn nhất nằm ở ven biển, được người Mỹ cho rằng đó là nơi rất nguy
hiểm nếu đến đó bằng đường bộ. Người Việt Nam và người Pháp đã lái xe đến đó suốt,
trên một tuyến đường cao tốc khá tốt, mặc dù thỉnh thoảng họ phải dừng lại nộp
phí giao thông ở các trạm thu phí của Việt Cộng. Dẫu sao đối với những người Mỹ
thì những chuyến đi như thế vẫn chắc chắn được coi là đồng nghĩa với sự chết
chóc và bắt bớ.
John
nói, từ những thông tin riêng của mình và từ lý do về mặt tâm lý như đã nói
trên, ông ta cho rằng điều này đã bị cường điệu hoá. Vũng Tàu là một nơi nằm
ngoài Sài Gòn, mọi người đều muốn đến đây vào những ngày nghỉ cuối tuần vì ở đó
có một bãi biển rất đẹp. Nhưng bãi đỗ trực thăng thì có hạn. Vì thế người Mỹ cảm
thấy có sự phân vân giữa việc lái xe đến đó hay đi xe buýt, giống như người Việt
Nam hoặc người Pháp, và sự miễn cưỡng của họ mà họ không muốn tự thừa nhận, là
không muốn thực hiện bất cứ sự mạo hiểm nào.
John
cho rằng suy nghĩ chung của người Mỹ là sẽ chẳng có gì nguy hiểm khi lái xe tới
đó đã phản ánh cách giải quyết của họ đối với cuộc xung đột này mà không cảm thấy
hèn nhát. John không muốn thừa nhận rằng Việt Cộng đã làm chủ các tuyến đường
đi tới một trong các tỉnh trong địa bàn ông ta quản lý.
Bằng
việc lái xe đến đó, ông ta hy vọng có thể làm cho viên tỉnh trưởng thấy xấu hổ
phải tham gia tích cực hơn vào các hoạt động an ninh, điều này sẽ gây tiếng
vang tốt và giúp cho an ninh của tỉnh được tốt hơn. Nhưng tôi cho rằng lý do lớn
nhất của ông ta đi tới các tỉnh bằng xe ô tô là mong muốn được đến thăm mọi nơi
trong 11 tỉnh ông ta phụ trách bằng xe ô tô. Trong bất cứ tình huống nào, ông
ta cũng không từ bỏ mong muốn này. Như thường lệ, John vẫn lái xe. Ông ta đem
theo mấy chiếc sandwich để ăn dọc đường. Trong chuyến đi này, có rất nhiều xe cộ
chạy trên đường. Nhưng chỉ sau một giờ, chúng tôi đã gặp một dãy xe con, xe tải,
xe buýt bị chặn lại, thành một hàng dài phía trước mặt. Vann quyết định xem có
chuyện gì xảy ra. Giữa đường cao tốc và một cái rãnh nhỏ phía bên phải có khoảng
đất chỉ vừa đủ chỗ cho ông ta có thể lách ra và lái xe thẳng lên phía trên đầu
của dãy xe con đang bị chặn lại. Hoá ra nó dài cũng độ vài dặm. Trời nóng bức,
nhiều lái xe và hành khách, gồm cả những người trên xe buýt đổ xuống, đang đứng
cạnh xe của họ.
Những
chiếc xe này bị chặn lại đã hơn 2 tiếng đồng hồ. Những đứa trẻ nhỏ từ đâu đến
đang bán bỏng ngô và các túi đựng các quả dứa. Một số lái xe nói với chúng tôi,
phía trước có một trạm kiểm soát quân sự.
Cuối
cùng thì chúng tôi cũng lên được phía đầu hàng, một binh sĩ Quân đội Việt Nam cộng
hoà đã chặn chúng tôi lại. Một trung uý Quân đội Việt Nam cộng hoà tiến tới từ
nơi một trung đội lính đang nằm dài trên cỏ và nói với chúng tôi, bằng tiếng
Pháp, chúng tôi không thể đi xa hơn. Đang có khoảng 1.000 Việt Cộng đang vượt
qua con đường phía trước mặt. Đó là một sự thông báo gây sốc có quá nhiều Việt
Cộng. Tôi chưa từng được nghe là có nhiều Việt Cộng đến như vậy trong một cuộc
hành quân. Tôi nghĩ chẳng có gì lạ khi họ nói con đường này không an toàn. Viên
trung uý không biết khi nào con đường sẽ được thông. Anh ta rất lịch sự, nhưng
quả quyết rằng chúng tôi sẽ phải chờ; chúng tôi không thể đi tiếp lúc này. Đó
là sự khẳng định.
Tôi
dịch cho John vì ông ta không nói được tiếng Pháp.
John
nhìn về phía trung đội lính. Phần lớn binh lính đang nằm nghỉ, một số đang ăn,
hoặc đang hút thuốc. Ông ta nheo mắt nhìn lên chiếc máy bay trinh sát đang lượn
đi lượn lại một cách chậm chạp ở phía trên coa đường, cách khoảng một dặm về
phía trước. Sau đó ông nói: "Chuyện vớ vẩn", và bắt đầu quay xe lại
đường cao tốc, ngay trước những chiếc xe khác.
Viên
trung uý nhìn một cách ngạc nhiên, sau đó tức giận. Anh ta chạy tới trước xe
chúng tôi, hai tay dang ra chỉ về phía trước ra hiệu cho chúng tôi dừng lại.
Anh ta nói tiếng Pháp, "Không được! Các ông không thể đi được! Đoạn này bị
cấm hoàn toàn". John phẩy tay bảo anh ta tránh ra và lái xe tiến dần về
phía trước.
Viên
trung uý đứng sang một bên nhưng rút súng lục từ trong bao ra và chĩa vào chúng
tôi. Anh ta dang rộng tay ra và nói tiếng Pháp nhanh hơn tới mức tôi không thể
hiểu mặc dù tôi có nghe được ngữ điệu. Anh ta quát to bằng tiếng Việt Nam với một
số binh lính và họ đã bắt đầu đứng dậy. Tôi hy vọng John dừng lại, nhưng ông ta
quay lại nhìn viên trung uý đầy quả quyết khiến cho nòng súng của anh ta phải
hướng lên trên - và quay đầu bỏ đi. Khi chúng tôi tăng tốc, tôi quay lại nhìn.
Viên trung uý nhìn hai chúng tôi rất tức giận và cảnh báo một cách đầy đe doạ
việc chúng tôi đang làm, và điều đó đã làm tôi lo lắng.
John
lao xe đi thật nhanh. Chúng tôi có vũ khí trong xe, những John đã không để nó
lên cửa sổ. Con đường thẳng tắp và các vùng quê hiện ra ở cả hai bên đường.
Không có cây cối, không gì che khuất. Con đường này hoàn toàn đối nghịch với
con đường rừng trên đường tới Hàm Tân. Nhưng chúng tôi không nhìn thấy một ai,
không có dấu hiệu của Việt Cộng, không có quân đội Việt Nam cộng hoà, cũng
không có chiếc xe nào khác. Suốt cả đoạn đường chỉ có mình chúng tôi.
Sau
10 đến 12 phút, tôi hỏi Vann tại sao ông ta chắc chắn rằng viên trung uý đã
sai. Vann nói vì ông chẳng cảm thấy sự nguy hiểm nào cả. Điều gì đã làm cho
Vann khẳng định như vậy? Vann nói: "Anh có nhìn thấy những binh lính của
Quân đội Việt Nam cộng hoà đang nằm trên bãi đất đó không? Họ sẽ không thể có
tâm trạng nghỉ ngơi như thế nếu họ thực sự cho rằng có Việt Cộng ở cách một dặm
về phía trước. Họ hoàn toàn không thể ở đó nếu có tình hình nguy cấp".
Vann cũng không nghe thấy tiếng đạn pháo. Ông ta chỉ lên chiếc máy bay nhỏ đang
bay trên đầu chúng tôi suốt dọc con đường và nói: "Hãy nhìn mà xem, nó
đang bay thấp và chậm như thế nào. Nó không bị hoả lực dưới mặt đất bắn. Vì thế,
không thể có một Việt Cộng nào dọc tuyến đường này và cả phía trước". Tuy
nhiên, Vann vẫn lái xe nhanh qua các cánh đồng vắng vẻ. Trong vòng mấy phút,
chúng tôi đã đến được chỗ dãy xe ô tô đi ngược chiều với chúng tôi. Nó trông
như thể đoàn xe mà chúng tôi vừa bỏ lại phía sau. Có nhiều binh lính của Quân đội
Việt Nam cộng hoà trên đầu hàng xe. Trông họ rất hoảng hốt khi nhìn thấy chúng
tôi. Khi thấy chúng tôi lái xe qua, tất cả các tài xế đang nằm dưới đường vội
vã quay trở về xe và khởi động máy. John nói: "Họ gặp chúng ta, họ nghĩ đường
đã thông. Tôi đoán là thế". Chúng tôi không thể nói để cho họ đi vì lính của
Quân đội Việt Nam cộng hoà chặn họ lại. Làn đường của chúng tôi rất vắng vẻ,
nên đi rất thoải mái trong khi trên các làn đường khác những chiếc xe nối đuôi
nhau bị chặn lại dài đến vài dặm.
Khi
họ đã ở phía sau chúng tôi, tôi hỏi John: "Ông nghĩ gì về tất cả điều này?
Viên trung uý đó hình như thực sự lo sợ về việc cứ lao lên phía trước của chúng
ta".
John
nói: "Anh ta lo lắng vì nếu chúng ta đi qua được thì, anh ta sẽ không có cớ
gì để cho đám lính nằm quanh ở đó. Lẽ ra anh ta phải đi cùng với lính ra xem thực
sự đã có chuyện gì xảy ra ở đó".
"Nhưng
tại sao họ lại bắt xe cộ dừng lại sau đó? Điều gì đang diễn ra?"
John
nói: "Ồ, có thể đã có thông báo một số Việt Cộng, có thể là một tiểu đội,
đi qua đoạn đường này nhiều giờ trước đó".
"Anh
ta nói là một nghìn cơ mà".
"Một
cơ hội lớn để làm quan trọng hoá vấn đề ấy mà".
Như
thường lệ, hoá ra John đã biết điều viên trung uý đang làm, mặc dù đã đi qua trạm
kiểm soát được mấy phút mà tôi vẫn chưa an tâm lắm. Chúng tôi tới Vũng Tàu rất
sớm để thảo luận, ăn tối với nhóm cố vấn và các đại diện của Cơ quan Phát triển
quốc tế (AID) ở đó. Sáng hôm sau, John tới thăm tỉnh trưởng và chúc mừng ông ta
vì tình hình của tỉnh đã an toàn hơn năm trước nhiều, khi mà chúng tôi không
bao giờ nghĩ tới việc có thể lái xe tới đó như chúng tôi vừa làm. Viên tỉnh trưởng
lắng nghe những góp ý của John về việc làm như thế nào để tình hình tốt hơn nữa
trước khi ra tiễn chúng tôi về Sài Gòn.
Chú
thích:
(72)
David Halberstam viết vềVann: Halberstam, The Making ofa Quagmire, 147-49.
(73)
Đây là những chúthích của tôi: Ellsberg, bảnghi nhớ cho cuốn ghiâm: Chuyện thăm
tới mộttỉnh bất ổn, Hậu Nghĩa,tài liệu chưa xuất bản.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét