Thứ Ba, 1 tháng 5, 2018

Phần 16. “NHỮNG BÍ MẬT VỀ CUỘC CHIẾN TRANH VIỆT NAM...” - Daniel Ellsberg

Hình bìa cuốn sách  "Những bí mật về chiến tranh Việt Nam - Hồi ức về Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc" (Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers)
Tiến sĩ Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc và là cố vấn Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ
Lời dẫn của Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn: Tiến sĩ Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc và là cố vấn Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ trong buổi phỏng vấn với CNN và trong sách  "Những bí mật về chiến tranh Việt Nam - Hồi ức về Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc" (Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers) đã viết: "Không hề có chiến tranh Đông Dương thứ nhất và thứ nhì, chỉ có một cuộc xung đột nối tiếp trong một phần tư thế kỷ. Dùng ngôn từ thực tế, đứng về một phía (Mỹ), ngay từ đầu nó đã là một cuộc chiến của Mỹ: mới đầu là Pháp - Mỹ, sau đến toàn là Mỹ. Trong cả hai trường hợp, nó là một cuộc đấu tranh của người Việt Nam – không phải là tất cả người Việt Nam nhưng cũng đủ để duy trì cuộc đấu tranh – chống chính sách của Mỹ và những kinh viện, ủy nhiệm, kỹ thuật gia, hỏa lực, và cuối cùng, quân đội và phi công, của Mỹ... Cuộc chiến đó không có gì là "nội chiến", như nó đã không là nội chiến trong cuộc tái chiếm thuộc địa của Pháp được Mỹ ủng hộ. Một cuộc chiến mà trong đó một phía hoàn toàn được trang bị và trả lương bởi một quyền lực ngoại quốc – một quyền lực nắm quyền quyết định về bản chất của chế độ địa phương vì những quyền lợi của mình – thì không phải là một cuộc nội chiến... Theo tinh thần Hiến chương Liên Hiệp Quốc và theo những lý tưởng mà chúng ta (nước Mỹ) công khai thừa nhận, đó là một cuộc ngoại xâm, sự xâm lược của Mỹ".
Mời xem video clip mới nhất của Kênh QPVN- Chuyên mục Nhận diện sự thật số 120 ngày 27/4/2018:
Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn và Trung tướng Nguyễn Quốc Thước trả lời trên Kênh QPVN: VÌ SAO LỊCH SỬ CHIẾN THẮNG 30-4 VẪN BỊ XUYÊN TẠC?


Theo yêu cầu của Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn, Google.tienlang xin đăng trọn bộ cuốn sách "Những bí mật về chiến tranh Việt Nam - Hồi ức về Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc" (Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers) của Tiến sĩ Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc và là cố vấn Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ.
*************
Chương 30. Chuyển vào hoạt động bí mật

Tối thứ hai, ngày 14-6-1971, chúng tôi đến dự buổi chiêu đãi tại gia của Peter Edelman và Marian Wright Edelman. Nhà họ chật cứng. Người ngồi trên sàn nhà, người ngồi trên sofa với những chiếc đĩa trong lòng. Hai chủ đề chính của các cuộc hội thoại là:Hồ sơ Lầu Năm Góctiết lộ điều gì và ai đã cung cấp tài liệu đó cho tờThời báo New York. Patricia và tôi lắng nghe mà không đóng góp gì nhiều.

Jim Vorenberg mải ăn uống, trong một góc phòng. Anh ta không nhìn ra chúng tôi.

Vào sáng thứ ba, kỳ ba được xuất bản. Tổng Chưởng lý John Mitchell gửi một bức thư cho Toà soạnThời báo New Yorkyêu cầu ngừng việc xuất bản và trao trả lại bản sao của tài liệu nghiên cứu đó. Toà soạn từ chối và buổi chiều hôm đó, Bộ Tư pháp đưa ra một đề xuất, lần đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ, về một lệnh cấm chính thức tại toà án quận cấp liên bang ở New York. Vị quan toà ban hành lệnh hạn chế tạm thời trong khi ông ta xem xét lệnh cấm chính thức. Lần đầu tiên kể từ Cách mạng, một lệnh cấm của toà án liên bang ngăn cản các nhà máy in của một tờ báo Mỹ in một câu chuyện nhiều kỳ.

Điều khoản bổ sung lần thứ nhất (First Amendment -Tuyên bố trong Hiến pháp Mỹ bảo vệ quyền tự do ngôn luận, tự do tôn giáo và tự do hội họp), nói rằng: "Quốc hội không được ban hành luật… hạn chế quyền tự do ngôn luận hoặc tự do báo chí", là văn bản cao nhất ngăn cấm hành vi tiên chế của chính phủ liên bang và chính quyền bang đối với các phát hành báo chí và sách. Bộ Tư pháp của chính quyền Nixon đang tiến hành một thử nghiệm có tính tiên phong, yêu cầu các toà án liên bang vi phạm hoặc phót lờ Hiến pháp hoặc trên thực tế bác bỏ Điều khoản Bổ sung lần thứ nhất. Đó quả thật là sự khẳng định dũng cảm nhất trong Chiến tranh lạnh rằng "an ninh quốc gia" vượt trên các đảm bảo của hiến pháp về Tuyên ngôn nhân quyền.

Tôi nhận được một cú điện thoại từ Dunn Gifford, một người bạn của Neil Sheehan mà tôi gặp tháng trước. Khi đó ông ta nói với tôi rằng Neil đã hỏi ông, với tư cách của một cựu sĩ quan tình báo hải quân, liệu công bố những bức điện tín, dạng điện tín có trong tài liệu nghiên cứu, có làm tổn thương hệ thống mật mã của Mỹ không. Ông trả lời, một cách chính xác, là không. Với việc kể lại câu chuyện đó, ông ngầm lưu ý rằng tôi nên biết Neil có những nguyên tắc riêng với tư cách là một nhà báo, không phải hành động theo cách nghĩ của tôi.

Trong cuộc điện thoại sáng thứ ba, Gifford nhắc lại cảnh báo trước đó bằng cách giục tôi cung cấp hồ sơ cho tờBưu điện Washington, khi mà hiện nay,Thời báo New Yorkbị cấm không được tiếp tục xuất bản. Ý tưởng này chưa từng xuất hiện trong đầu tôi, và câu trả lời tức thì của tôi là: "Tôi sẽ không làm như vậy". Ngay buổi tối hôm thứ bảy, khi đọc kỳ đầu câu chuyện đăng trên tờThời báo New York, tôi không còn bực tức Neil và Toà soạn vì đã không thông báo gì cho tôi trong vòng ba tháng. Khi nhìn cách họ đã xử lý vấn đề và ảnh hưởng mà họ có được, tôi không cảm thấy gì khác ngoài sự hài lòng với những gì họ đã làm. Tôi ý thức được nghĩa vụ đối với Neil và tờ Thời báo, dù rằng họ quyết định giữ khoảng cách với tôi.

Dường như chắc chắn rằng Neil hay tờThời báo New York, hoặc cả hai, sẽ đoạt giải Pulitzer, mà họ xứng đáng nhận được.

Đối với tôi việc cung cấp tài liệu này cho tờBưu điện Washingtoncó thể phá hoại khả năng đó hoặc là buộc họ phải chia sẻ giải thưởng này. Cũng có thểThời báo New Yorksẽ mất đi động lực để tiếp tục xuất bản, với thời gian đã ấn định, khi các phần khác của tài liệu đã được công bố đâu đó.

Neil và tôi chưa bao giờ thảo luận về quyền độc quyền công bố câu chuyện của tờ Thời báo, nhưng tôi tin chắc rằng những nhà biên tập sẽ yêu cầu quyền đó khi họ đáp ứng điều kiện của tôi để cung cấp tài liệu này cho họ. Tôi chấp nhận điều đó Neil có thể không chắc chắn rằng tôi sẽ tuân theo một thoả thuận như vậy. Dường như, động lực chính hay sự tính toán chủ yếu thúc đẩy tờ Thời báo công bố hồ sơ, bất chấp sự khích lệ của các luật sư, là mối lo ngại, đặc biệt từ phía Neil, rằng nếu không làm như vậy, tôi sẽ đi nơi khác. Trong trường hợp đó, họ sẽ bị tờ Bưu điện "nẫng tay trên". Thật là ngớ ngẩn khi ông ta đưa ra khả năng đó khi giả bộ rằng vị thế tờ Thời báo chưa chắc chắn. Nhưng trên thực tế, kể từ khi nói chuyện với Neil, tôi chưa bao giờ nghĩ tới việc nói cho một tờ báo khác về tài liệu đó. Và tôi trả lời Giford rằng tôi trung thành với Neil, và tôi không thể phản bội lòng trung thành của mình bằng cách cung cấp "tin sốt dẻo" của họ cho tờBưu điện Washington.

Gifford chỉ ra rằng mối nguy hiểm ở đây còn lớn hơn danh tiếng mà tờ Thời báo hay Neil có được. Ông tin rằng cần phải tiếp tục đà này, duy trì sự quan tâm liên tục của công luận với nội dung của hồ sơ. Không ai có thể biết đến bao giờ tờ Thời báo nối lại việc xuất bản. Chúng ta thậm chí không biết rõ điều lệnh cấm có bị từ chối thực hiện hay không. Sự tiết lộ có thể chấm dứt ở đây, trừ phi các tờ báo khác sẵn sàng nắm lấy ngọn cờ, dám thách thức Bộ Tư pháp và chính quyền.

Lập luận của ông đầy thuyết phục. Tôi buộc phải nghĩ đến khả năng này, mặc dù tôi luôn cảm thấy khó chịu với việc qua mặt Neil và tờ Thời báo. Cam kết và nguy cơ họ sẽ phải gánh chịu trong việc quyết định công bố tài liệu đã rõ ràng. Xem xét lệnh cấm "vô tiền khoáng hậu" đó, khả năng họ bị truy tố hình sự là không nhỏ. (Trên thực tế, Bộ Tư pháp đang ráo riết chuẩn bị xử lý vụ việc này, dự định ngay sau phiên toà xét xử tôi). Có thể Neil và tờ Thời báo đã không đối xử với tôi như một đối tác, nhưng tôi khâm phục sự can đảm của họ, biết ơn họ với tư cách là một công dân và một nhà hoạt động.

Mặt khác, tôi phải suy nghĩ nghiêm túc lời cảnh báo của Gifford rằng toàn bộ tiến trình sẽ bị dừng lại vĩnh viễn trừ phi tôi thúc đẩy nó. Nhờ có quyết định của chính quyền coi vụ việc này như một cuộc khủng hoảng tầm cỡ quốc gia để biện minh cho các nỗ lực kiểm duyệt báo chí "vô tiền khoáng hậu", nội dung của tập hồ sơ đã thu hút được sự chú ý với mức độ đáng ngạc nhiên từ phía dư luận. Độc giả của các tờ báo mong muốn tìm hiểu diễn biến nào khiến cho chính quyền hoảng sợ và buộc phải mạnh tay như vậy. Tôi luôn tin rằng, tác động tổng thể của câu chuyện này phụ thuộc vào phạm vi lịch sử được phơi bày. Tác động mạnh mẽ không phải từ sự tiết lộ bí mật của bất kỳ trang giấy nào, một tập hồ sơ nào hay một cá nhân nào. Điều gây choáng váng tột bực là sự ngoan cố và bản chất của các hình mẫu lừa lọc, liều lĩnh và chủ nghĩa hoài nghi.

Công bố điều đó với bất kỳ một độc giả nào hoặc cả đất nước, độ dư chấn sẽ mạnh hơn rất nhiều.

Ba kỳ đầu công bố trên tờ Thời báo đề cập đến chính quyền Johnson nhưng một đoạn "châm biếm" trong bài báo ngày thứ ba cho thấy bài báo kỳ tới sẽ tập trung vào Eishenhower. Tôi không muốn tiến trình lịch sử sẽ bị cắt cụt ở đây. Càng cân nhắc về khả năng này, đề nghị của Gifford càng lôi cuốn tôi. Tờ Thời báo đã xem xét việc in ấn nhật báo sáng thứ tư với một loạt các trang trắng thay vì cho đăng kỳ tới của câu chuyện như kế hoạch. Khoảng trống không chữ với nguyên nhân là lệnh cấm của chính phủ có thể là trường hợp đầu tiên trong lịch sử báo chí Mỹ. Và người ta cũng mong đợi, đây sẽ là trường hợp cuối cùng. Nhưng cuối cùng, tờ Thời báo lại đăng những câu chuyện khác thế vào chỗ trống. Nhiều mẩu tin và bài phân tích được đăng để lấp chỗ trống, bởi vì lệnh cấm gây ra một trong hai vụ vi hiến lớn nhất trong hai thế kỷ trở lại đây. Đài truyền hình, trước kia hầu như phớt lờ kỳ đầu không mấy tiếng vang hôm chủ nhật, thì nay dành ít nhất là 15 phút trong tổng số 30 phút của chương trình thời sự trong nước hàng đêm trên một trong ba kênh chính thức để nói vềHồ sơ Lầu Năm Gócvà các vụ kiện tụng tại toà án.

Đêm khuya ngày thứ ba, ai đó từ Toà soạn củaTuần tin tứcgọi điện cho tôi để sắp xếp cuộc gặp với một nhóm các biên tập viên vào buổi sáng hôm sau. Tôi ra ngoài Quảng trường Harvard dùng bữa sáng cùng với Lloyd Norman, một phóng viên của tạp chí Tin tức Lầu Năm Góc mà tôi đã quen biết nhiều năm, và Joel Blocker, một biên tập viên cao cấp. Họ bắt đầu câu chuyện bằng cách thông báo cho tôi biết bài trên trang nhất trong số tạp chí tuần tới sẽ là việc công bốHồ sơ Lầu Năm Gócvà họ dự định nói rõ tôi là nguồn gốc của tài liệu đó. Tôi nói: "Tôi không dự định bình luận về người cung cấp thông tin đó. Tôi sẽ bình luận tất cả những gì các ông muốn về nội dung của tập hồ sơ này và ý nghĩa của nó theo cách nghĩ của tôi. Tôi tiếp cận được với toàn bộ nghiên cứu này, và tôi đã đọc từ đầu đến cuối".

Blocker nói: "Chúng tôi tin rằng ông chính là người phát tán tài liệu đó nhưng chúng tôi tiến hành trừ phi ông sẵn sàng khẳng định điều này".

Tôi trả lời rằng tôi không đoán này đoán nọ về điều đó, nhưng với tư cách là một người tham gia thực hiện nghiên cứu và một người am hiểu về nó, tôi chắc chắn rằng việc xuất bản tài liệu này là một điều tốt. Công chúng cần và xứng đáng được biết mọi điều trong công trình nghiên cứu đó. Tương tự như vậy, Quốc hội cũng phải được biết. Theo ý kiến của tôi, bằng cách nào đó, tất cả nội dung của công trình nghiên cứu cần phải được công bố. Điều đó không có gì tổn hại mà chỉ có lợi cho an ninh quốc gia. Tôi sẵn lòng viết bài về các chi tiết trong nội dung, với độ dài bất kỳ tuỳ ý.

Blocker tiếp lời: "Này, vấn đề là sẽ không có bài báo trên trang bìa trừ phi chúng tôi có sự khẳng định của ông về nguồn gốc của tài liệu".

"Tệ thật. Nếu đúng là như vậy, các ông đang mất một bài báo có tiếng vang lớn về nội dung của hồ sơ đó".

Chúng tôi nói chuyện hơn ba giờ đồng hồ, kết thúc trong văn phòng của tôi ở MIT. Trong bài tường thuật của Blocker về cuộc phỏng vấn (ra ngày 21 tháng sáu), ông ta nói rằng: tôi (tác giả) "đã thẳng thừng từ chối bình luận về liệu có phải ông (tác giả) đã cung cấp những tài liệu mật cho tờ Thời báo".

Blocker trích nguyên văn lời của tôi: "Tôi rất mừng khi hồ sơ này được công bố… Tôi mong muốn Quốc hội và công chúng có thể tiếp cận tư liệu này hai hoặc ba năm về trước. Những văn bản này chứng tỏ các trợ lý của Tổng thống và các quan chức khác trên thực tế đã được cho phép nói dối công chúng. Nhưng bây giờ, những người chịu trách nhiệm về sự leo thang của cuộc chiến phải chịu trách nhiệm về những văn bản mà họ đã ký".

Blocker tường thuật lại những gì tôi kể cho họ nghe về nỗ lực vô vọng của tôi khi tìm cách để các quan chức cao cấp của chính quyền như Henry Kissinger và trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Irwin đọc hồ sơ này, hay ít nhất là xem qua những bản tóm tắt. Mặc dù không có gợi ý của tôi, nhưng tờTuần tin tứcsau đó phỏng vấn John Holum, trợ tá lập pháp của Thượng nghị sỹ McGovern, và Pete McCloskey. Hai người này cho biết tôi đã đề nghị cung cấp cho họ những văn bản mật.

Holum tường thuật lại: "Ông ta (tác giả) nói ông ta sẽ công bố chúng cho dù ông ta sẽ bị tống vào tù". (Đây là lời lẽ từ văn phòng Thượng nghị sỹ được đăng trong số báo hơn một tuần trước khi tôi bị buộc tội, mặc dù họ đã hứa là không tiết lộ tên của tôi). "Theo lời khuyên (của Holum), McGovernd đã từ chối lời đề nghị".

Tuy nhiên, bất chấp sự đề nghị thiết tha từ phía tôi, các biên tập viênTuần tin tứckhông muốn tường thuật quan điểm của tôi về nội dung của tài liệu hay là về cuộc chiến. "Ellsberg, 40 tuổi, chứng tỏ là một kẻ ba hoa tột độ, và nói năng bừa bãi… Với một quyết tâm gần như một nỗi ám ảnh, Ellsberg nói đi nói lại về những tác động tích cực của việc công bố các văn bản đó. Ông ta nói, những tài liệu đó là những gì tốt nhất mà chúng ta có - một xuất phát điểm tốt để hiểu biết thật sự về cuộc chiến, có giá trị như những hồ sơ về tội ác chiến tranh tại Nuremberg".

Họ không hài lòng việc chúng tôi bỏ đi. Nhưng tôi không muốn đưa ra lời khẳng định mà họ cần tại thời điểm đó. Cho đến lúc này, chưa có dấu hiệu nào cho thấy Bộ Tư pháp sẽ quyết định truy tố hình sự. Tôi không ngạc nhiên rằng tờ Tuần tin tức nhanh chóng biết được rằng tôi là nguồn gốc của tài liệu đó. Dòng cuối cùng của bài báo về cuộc phỏng vấn ghi lại, tôi vừa cười vừa nói rằng: "Tôi lấy làm hãnh diện trở thành kẻ bị tình nghi là đã tuồn tài liệu này ra ngoài". Và tôi biết chắc rằng Bộ Tư pháp nghi ngờ ít nhiều từ câu nói này. Nhưng tôi đã quyết định không kích động chính quyền đi đến một quyết định khởi tố hình sự chưa từng có trong lịch sử bằng cách công khai chỉ trích, nếu chính quyền kiềm chế trong việc buộc tội tôi. Bài báo trên trang bìa có thể tạo nên hiệu quả thông tin tốt.

Chỉ có Chúa mới biết tại sao tờ Thời báo không hỏi ý kiến của tôi về bất cứ điều gì nhưng tôi không nghĩ rằng đóng góp của tôi là cần thiết. Hàng nghìn trang tài liệu có thể tự nói - khi mà chúng được công bố. Và cuối cùng, như tôi từng hy vọng, tờTuần tin tứcđã đăng một bài báo trên trang bìa, không phải về tôi, mà về "Lịch sử bí mật của Việt Nam" (Ngày 28-6-1971, số trước ra ngày 21-6).

Ngay khi Blocker và Norman rời khỏi, tôi gọi điện thoại bằng thẻ trả trước của mình và, thông qua một người bạn, liên lạc với Ben Bagdikian của tờBưu điện Washington. Bagdikian đã rời Rand, quay trở lại tờBưu điện Washingtonnăm ngoái với tư cách một biên tập viên. Tôi chắc rằng ông ta đang xoay xở tìm kiếm một mẩu của hồ sơ. Tôi đã đoán chính xác rằng ông ta nghi ngờ tôi chính là người phát tán những tài liệu đó và có lẽ đang tìm tôi. Nhưng tôi không thể gọi điện thoại cho ông ta từ nhà của mình. Thông qua một nhân vật trung gian, "Ông Boston", Ben nhận được hướng dẫn để gọi đến một số điện thoại ở Cambridge từ một chiếc điện thoại "an toàn". Đó là số 617, và Ben đọc tin nhắn từ "ông Boston ở Boston". Ben nhận ra rằng đó là một bút danh và quyết định gọi điện thoại. Ông ta đi qua phố, đến Statler Hilton và gọi điện từ một bốt điện thoại công cộng. Mr. Boston nói rằng Ben có tin nhắn từ một người bạn cũ nhưng ông ta phải cho số của một bốt điện thoại công cộng, nơi mà ông có thể nhận được điện gọi tới. Ben cho số của bốt điện thoại bên cạnh.

Khi tôi gọi Bagdikian một vài phút sau, ông ta nhận ra giọng của tôi. Tôi hỏi ông ta liệu TờBưu điện Washingtoncó muốn in "những tài liệu đó" nếu có được chúng. Ông trả lời là "Có". Tôi hỏi liệu ông có được lời cam kết của tờBưu điện Washingtonkhông. Ông ta hứa sẽ gọi điện lại. Chúng tôi thoả thuận rằng nếu ông ta có được sự đảm bảo, ông sẽ đặt phòng tại một khách sạn ở Cambridge hay Boston, gọi đến một số khác với máy trả lời điện thoại tự động, để lại lời nhắn về nơi mà chúng tôi có thể gặp nhau. Ông ta gợi ý về lời nhắn là "Ông Medfold từ Providence (nơi mà Bagdikian đã từng làm) sẽ đợi ông ở khách sạn". Tôi đề nghị ông ta nên đặt phòng nhanh lên bởi vì hầu hết khách sạn đều kín chỗ trong tuần đầu tiên. Ông ta nên mang theo một chiếc vali lớn.

Ben nhận được tín hiệu "đèn xanh" từ phía chủ bút của tờ báo, Ben Bradlee. Khi Bagdikian gọi điện cho Bradlee từ sân bay, ông ta nói thêm rằng trong trường hợp ông ta có được những hồ sơ đó và nếu chúng không được đăng trên số báo ngày hôm sau, thì tờBưu điện Washingtonsẽ có một chủ bút mới. Bagdikian kể lại với tôi: Lúc ông ta đăng ký phòng tại khách sạn Boston dưới cái tên Medfold, ông thất kinh khi nhân viên lễ tân báo ông có một tin nhắn từ ông Bagdikian, người sẽ tới khách sạn cùng thời gian này từ Washington. Điều đó thì có liên hệ gì với ông không? - Bagdikian nghĩ. Dường như, Bagdikian quên mất tên giả của mình. Ông không có những trực giác như người bạn ông. Ben tự giới thiệu bản thân, nói rằng ông ta đăng ký dưới cái tên Medford. Khi ông ta vào phòng, ông ta nhận được một cú điện thoại của tôi, chỉ dẫn đến một địa chỉ ở Cambridge để lấy tài liệu và nhắn với nhân viên lễ tân cho phép một số người bạn của ông vào phòng khi ông ra ngoài.

Khi Bagdikian quay trở lại trên một chiếc taxi với một trong hai thùng các-tông mà ông đã được cho xem trong tầng hầm ở Cambridge, ông ta thấy Patricia và tôi đang đợi ông ta trong phòng khách sạn. Tôi muốn ông ta mang cả chiếc hộp thứ hai. Không lâu sau, ai đó mang chiếc hộp còn lại đến phòng. Trong khi đó, chúng tôi kiểm tra chiếc hộp thứ nhất lộn xộn giấy tờ. Chiếc hộp đựng một bộ hồ sơ đầy đủ, nhưng thứ tự lẫn lộn. Do trải qua nhiều giai đoạn "giải mật" với mảnh các- tông, kéo, máy cắt giấy, nên rất ít trang còn ghi số trang. Hầu hết các số trang trùng khớp với sự đánh dấu kín mà chúng tôi đã bỏ đi. Khi được chuyển đến, chúng tôi thấy thùng tài liệu thứ hai có cùng nội dung như vậy. Đó chính là trạng thái hồ sơ mà tôi muốn khi trao cho ông ta. Đầu tiên ông ta miễn cưỡng chấp nhận. Tôi muốn ông ta gửi thùng thứ hai tới Mike Gravel nếu ông thượng nghị sỹ từ Alaska này sẵn sàng sử dụng nó.

Cảm giác nghề nghiệp của Ben khiến ông ta không muốn trở thành một đối tượng trung gian với Quốc hội. Tôi không thể thông cảm, trong những tình huống đặc biệt này. TờBưu điện Washingtonrõ ràng muốn cái mà tôi có, và dường như họ cũng có thể giúp tôi. Tôi không nghĩ ra bất kỳ cách nào khác để mang hồ sơ này đến Washington nhanh chóng. Cuối cùng, ông ta đồng ý.

Bagdikian nhớ lại, tôi đưa ra hai điều kiện khác. TờBưu điện Washingtonkhông được tiết lộ danh tính của tôi và không in lại ngày tháng hoặc số hiệu của bất kỳ bức điện tín nào khi sao chép lại tài liệu. Nhiều người đã buộc tội tờThời báo New Yorkđã làm tổn hại hệ thống mật mã. Tôi cam đoan điều đó là không đúng, nhưng tôi không chắc chắn rằng chính phủ sẽ thừa nhận tại toà án.

Chúng tôi ở khách sạn cả đêm với ông ta, cắt bỏ những chú thích ngày tháng ở cuối trang và cố gắng phân loại các tập khác nhau. Patricia trở về nhà nghỉ ngơi trong khi tôi tiếp tục công việc. Ben đặt vé chuyến bay trở lại Washington, hai ghế hạng nhất cho "Ông Medford và một người khác". Ý của ông ta là muốn để chiếc vali tài liệu ở chiếc ghế bên cạnh. Sáng sớm hôm sau, chúng tôi nhận ra rằng chiếc vali tài liệu không đủ rộng. Ông ta quyết định sẽ mang về Washington hai chiếc hộp các-tông lớn như lúc đầu, nhưng chúng tôi không có dây hay băng để buộc chiếc hộp thứ hai. Sáng sớm, chúng tôi ra quầy lễ tân xin một đoạn dây thừng. Nhân viên bàn lễ tân không tìm thấy đoạn dây nào cả, nhưng ông ta gợi ý Ben nên ra ngoài để tìm, nơi mà đôi khi có dây buộc chó của khách. Ben trở lại với một sợi thừng dài 6 feet từ hàng rào cạnh bể bơi. Ông ta buộc chiếc hộp lại và lên xe ra phi trường. Tôi gọi điện cho Patricia và bảo cô ấy đến đón tôi. Trong lúc chờ đợi, tôi nghỉ lại trong phòng.

Trước khi rời khỏi phòng khách sạn, chúng tôi bật ti vi để xem tin tức buổi sáng. Chúng tôi nhìn thấy một trong hai ngọn đèn của nhà chúng tôi tại số 10 phố Halliard trên màn hình, với hai người đàn ông tự xưng là nhân viên FBI đang gõ cửa.

Người phát ngôn viên giải thích họ đang tìm cách thẩm tra Daniel Ellsberg cho quá trình điều tra của họ về việc rò rỉHồ sơ Lầu Năm Góc. Sau một lúc gõ cửa không thấy ai trả lời, hai người đàn ông rời đi. Patricia và tôi có cảm giác rằng họ sẽ không đi xa. Chúng tôi không muốn ở lại khách sạn này cho dù là một đêm, chứ không muốn nói là đêm thứ hai. Chúng tôi không mang theo gì, kể cả bàn chải đánh răng. Nhưng dường như, đây không phải là thời điểm tốt để trở về nhà. Và cũng không phải là ý kiến hay khi ở lại trong căn phòng mà ông Bagdikian của tờBưu điện Washingtonđã trả. Chúng tôi đến thuê phòng tại một khách sạn bên dòng sông Charles bờ phía Cambridge dưới tên giả. Buổi sáng hôm sau, chúng tôi chuyển sang một khách sạn khác. Trong một vài ngày tiếp theo, chúng tôi liên tục di chuyển qua các khách sạn khác nhau ở Cambridge. Sau đó, chúng tôi tìm thấy nơi ẩn náu ở Cambridge và trở về nhà sau 12 ngày trốn tránh.

Xem tin tức phát trong buổi sáng thứ năm, ngày 17-6-1971 chúng tôi nhanh chóng hiểu tại sao FBI lại chọn ngày hôm đó để ghé thăm căn hộ của chúng tôi. Khuya đêm hôm trước, trong khi chúng tôi đang làm việc tại khách sạn, cố gắng sắp xếp các tập hồ sơ theo đúng thứ tự, một nhà báo tên là Sidney Zion đã xuất hiện trên chương trình trò chuyện với các nhân vật nổi tiếng trên truyền hình tại New York và thông báo rằng ông ta đã phát hiện ra chính tôi là người cung cấpHồ sơ Lầu Năm Góccho tờThời báo New York. Đúng như tôi dự đoán, trên cơ sở những bài phỏng vấn ban đầu, cả Nhà Trắng và FBI đã xác định tôi là nghi can số một. Nhưng FBI tiết lộ rằng chính tuyên bố của Zion dẫn tới chỉ thị của Sở chỉ huy của FBI tại Wahshington cho văn phòng ở Boston thẩm tra tôi ngay lập tức. Văn phòng ở New York nhận được chỉ thị thẩm tra Zion. Do công bố tối hôm trước nên ở cả hai nơi các nhân viên FBI bắt gặp những đám đông nhà báo và quay phim chờ đợi sẵn quanh khu nhà tôi. Zion từ chối tiết lộ thêm điều gì, và FBI không thấy chúng tôi trở về nhà kể từ cái đêm chúng tôi ở lại khách sạn cùng với Bagdikian. Nhưng, nếu Zion không công bố, sẽ không có bất kỳ phóng viên truyền hình nào bên ngoài căn hộ số 10 phố Hilliard để ghi lại chuyện viếng thăm của nhân viên FBI, và chúng tôi cũng không thể được nhìn cảnh quay trực tiếp trên truyền hình. Thay vào đó, chúng tôi có thể có mặt tại hiện trường và gặp những nhân viên FBI khi trở về nhà, hoặc họ tìm thấy chúng tôi ở đó chiều ngày hôm sau. Mọi việc diễn ra may mắn lạ thường, mặc dù ý định của Zion chưa hẳn đã tốt như vậy.

Bí quyết tránh giáp mặt với FBI (trong thập kỷ 70) dường như là: không sử dụng điện thoại nhà hay cơ quan. Những người giúp đỡ chúng tôi tìm nơi ẩn náu và phân tán tài liệu liên lạc với chúng tôi trực tiếp hoặc thông qua những bốt điện thoại công cộng được chọn một cách ngẫu nhiên. Không ai trong số họ bị các quan chức hay bồi thẩm đoàn tra hỏi, hay bị báo chí phát hiện. (Sau 30 năm giấu tên, tất cả họ dường như muốn tiếp tục giữ kín. Tôi không thể thuyết phục bất kỳ ai trong số họ xuất hiện công khai hoặc để tôi có cơ hội nói lời cảm ơn bằng chính tên thật của họ).

Trong vòng 13 ngày, chúng tôi trở thành tâm điểm trong câu chuyện mà báo chí miêu tả là "cuộc săn lùng lớn nhất của FBI kể từ vụ bắt cóc Lindberg". Báo chí đưa tin các nhân viên FBI phỏng vấn nhiều người ở nhiều nơi trên thế giới khiến cho tôi nghi ngờ rằng một số đang lạm dụng cơ hội này để đi vui chơi. Chúng tôi ở Cambridge trong suốt thời gian đó, ở năm địa điểm khác nhau, có chỗ chỉ lưu lại trong một đêm. Việc đó được sắp đặt bởi một vài bạn bè thân thiết của tôi. Họ nhờ bạn bè trong số những nghiên cứu sinh hoặc những người hàng xóm. Điều đáng chú ý là tất cả những người trên đều hợp tác mặc dầu họ biết FBI đang truy lùng tôi. Theo lý thuyết, FBI chỉ muốn thẩm tra tôi. Nhưng rõ ràng là ở bất cứ thời điểm nào, lệnh bắt đều có thể được đưa ra, và những người chủ nhà có thể bị buộc tội là che giấu một kẻ phạm tội. Đó là thời điểm trong lịch sử dân tộc khi bạn có thể chìa tay ra với hầu hết thanh thiếu niên và nói: "Tôi đang hành động chống chiến tranh. Điều đó có thể có ích, có thể quan trọng, nhưng có thế rất nguy hiểm cho bạn. Bạn có giúp tôi không?". Một người bạn sau đó nói với tôi rằng cô ta đơn giản chỉ gọi những người quen biết trong các cuộc biểu tình và hoạt động chống chiến tranh khác, và nói với họ, "tôi cần căn hộ của bạn trong một vài ngày. Chúng tôi sẽ bảo quản nó. Đừng hỏi tôi bất kỳ câu gì?". Không ai thắc mắc, không ai từ chối. Đến nay, tôi vẫn chưa biết tên của họ.

Một dịp nọ, "ông Boston" xuống gác, băng qua đường tới bốt điện thoại ở góc phố, cách khoảng 50 thước từ căn hộ mà chúng tôi đang ẩn náu. Ông ta nói trong 10 phút với một người bạn của tôi là Lloyd Shearer ở Los Angeles, giúp tôi truyền đạt đến anh ta một số câu hỏi. Shearer là người cho tôi lời khuyên về các nhân vật tin cậy có thể làm việc được với giới truyền thông. Qua cửa sổ chúng tôi tình cờ nhìn thấy ông ta rời khỏi buồng điện thoại và quay trở lại phòng. Ngay khi ông ta bước chân vào cửa trước, có lẽ chỉ khoảng 12 phút từ lúc ông ta đặt máy, bốn chiếc xe cảnh sát lao về bốt điện thoại đó từ hai hướng. Xe phanh kít lại, và cảnh sát nhảy ra với súng lăm lăm, mặc dù bốt điện thoại trống không. Không còn nghi ngờ gì nữa, đường dây của Shearer đã bị nghe trộm. Chúng tôi nằm rạp xuống sàn dưới khung cửa sổ không có rèm che bởi cảnh sát bắt đầu ngó nghiêng tìm kiếm ngược xuôi trên con phố. Khi họ rời đi, chúng tôi chuyển sang một nơi khác nghỉ đêm. Đôi khi chúng tôi ở lại trong một căn hộ hai đến ba ngày.

Trừ khi chúng tôi chuyện chỗ, mà hầu hết diễn ra vào lúc nửa đêm, luôn chỉ có Patricia và tôi bên nhau. Nhìn lại, tôi nhận ra đó là hai tuần tĩnh lặng nhất, ít căng thẳng nhất mà chúng tôi có trong suốt hai năm tới. Chúng tôi không phải làm gì nhiều trừ việc quyết định chọn toà soạn nào, và cung cấp phần nào của nghiên cứu cho họ. Tất cả sắp đặt thực tế được thực hiện bởi những ân nhân của chúng tôi, bởi vì chúng tôi thậm chí không thể sử dụng điện thoại hay ra ngoài sử dụng điện thoại thẻ, hay làm những việc lặt vặt. Tôi nói với mọi người nơi mà họ có thể lấy tài liệu để chuyển đi. Nhưng họ lấy tài liệu từ những chỗ đó mà không nói cho chúng tôi biết họ làm vậy như thế nào.

Bạn của chúng tôi, "ông Boston" tỏ ra hết sức tài năng trong các hoạt động bí mật. Khi ông ta liên lạc với Ben Bagdikian giúp tôi, một số dàn xếp của ông ta để truyền đạt thông tin hay chuyện tài liệu khiến cho các biên tập viên sợ sệt bởi nó chi tiết hơn mức cần thiết. Nhưng về cơ bản, chúng phát huy hiệu quả. FBI không thể ngăn chặn bất kỳ vụ chuyên chở nào, bởi vì các phần của hồ sơ được tập kết đến một địa điểm từ các đường khác nhau. Đó là ý kiến của ông ta chia những phần liên tiếp thành từng gói riêng biệt. Ông nhớ lại cách làm đầu tiên của tôi, sau khi lệnh cấm thứ hai được ban hành, là trộn lẫn một vài tập hồ sơ vào với nhau, đảm bảo rằng tất cả đều được chuyển đi khi mà tôi bị bắt. Từ kinh nghiệm bản thân trước kia làm việc cho một nghị sỹ quốc hội, ông ta nhanh chóng thuyết phục tôi rằng tốt hơn hết là tiếp tục thực hiện bằng cách tiếp cận từng đối tượng một. Ông đảm nhận việc sắp đặt ông ta dành cho tôi việc chọn lựa đầu ra hàng ngày, và ông ta là người liên lạc và sắp đặt việc chuyện tài liệu.

Một điều khiến cho mọi việc phần nào dễ dàng hơn là không ai gặp khó khăn trong việc thương lượng để có được sự đồng ý của các tờ báo. Hầu hết tất cả các tờ báo chính đều không muốn đứng ngoài vụ này. Trong bối cảnh các thủ tục tố tụng đang được triển khai và sự tức giận rõ ràng từ phía chính quyền, thật ấn tượng khi không ai từ chối cơ hội tham gia. Sau tờBưu điện Washington, tờ Boston Globe hiển nhiên là lựa chọn tốt nhất cho đối tác kế tiếp. Mặc dù đây là một ấn phẩm địa phương, nhưng nó lại là một trong những tờ báo phản chiến tiên phong và mạnh mẽ nhất. Trường hợp tương tự là tờ St. Louis Postdispatch. Theo tôi nghĩ, họ đã đủ điều kiện để nhận được một lệnh huấn thị. (Trên thực tế, họ đã nhận được một lệnh cấm, cùng lúc với tờ Globe). Như Sanford-Ungar ghi lại, có thể là một sự trùng hợp ngẫu nhiên rằng cả bốn tờ báo bị cấm, trong số 20 tờ đã in các phần của hồ sơ, đều phê phán mạnh mẽ chính quyền Nixon và bày tỏ nghi ngờ về cuộc chiến.

Đối với các tờ báo khác, tôi lựa chọn trên cơ sở những tính chất đặc biệt. TờThời báo Los Angeles, tờ báo mà tôi nghĩ là đã đưa tin tốt về cuộc chiến, là ấn phẩm của nơi tôi đã sinh ra; Knight, hệ thống gồm 11 tờ báo, trong đó có cả thành phố Detroit nơi ba tôi ở, và tờ Người đưa tin Cơ đốc giáo là tờ báo chính của cha tôi (ông gửi cho tôi đơn đặt báo dài hạn trong nhiều năm).

Bạn bè giúp mua thức ăn, báo chí, các vật dụng trang điểm, áo sơ mi, đồ lót và tất. Patricia và tôi hàng ngày cùng đọc báo và theo dõi tin tức trên ti vi. Tôi đặc biệt nhớ lại một chương trình mà chúng tôi xem vào cái ngày cuối cùng của thời gian yên tĩnh bên nhau. Đó là chủ nhật, ngày 27-61971, một ngày trước khi tôi trình diện tại trụ sở toà án liên bang. Tướng Maxwell Taylor đang được Martin Agronskyk phỏng vấn, trong một chương trình lúc trước đã bị nghe lén.

Ông ta miêu tả đề xuất của ông ta với Tổng thống Kennedy tháng 11-1961. Ông ta nói với Agronsky và công chúng nước Mỹ 10 năm sau đó: "Tôi không đề xuất sự tham gia của các lực lượng chiến đấu. Tôi đã nhấn mạnh rằng, chúng ta chỉ nên đưa đến các lực lượng kỹ sư và hậu cần, để thực hiện các công việc hậu cần và giúp đỡ trong sự kiện tắm máu năm 1961. Vì vậy, đó không phải là một lực lượng chiến đấu… Tôi không đề xuất gì khác ngoài ba sư đoàn tiểu đoàn lính bộ … à, xin lỗi, ba tiểu đoàn kỹ sư…".

Đã một thập kỷ trôi qua kể từ thời điểm những đề xuất đó được đưa ra, và vị Tổng thống nghe đề xuất của ông đã chết.

Tôi nhớ lại hai điều khi mà tôi nghe ông ta nói: bộ sậu của Tổng thống nghĩ rằng họ có quyền nói dối vô hạn, và "hãy chú ý những điều ông nói, tướng quân, những bức điện của ông sắp được công bố ngày nào đó gần đây".

Hai ngày sau khi nội dung của cuộc phỏng vấn được công bố, Toà án Tối cao dỡ bỏ lệnh cấm, và tờ Thời báo nối lại việc xuất bản. Số báo ngày hôm sau đăng câu chuyện của thời kỳ Kennedy. Trong số những văn bản tờ báo công bố trong ngày thứ tư có những bức điện cấm sao chụp gửi Tổng thống vào cuối tháng mười năm 1961, đề cập việc đưa ngay lập tức lực lượng lục quân của Mỹ vào chiến trường như"là một hành động cầnthiết nếu chúng ta muốnlật ngược chiều hướng xấuhiện nay của tình hình…Trên thực tế, tôi khôngtin rằng kế hoạch cứuvãn miền Nam Việt Namsẽ thành công nếu khônghành động này" và cho rằng vai trò của các "kỹ sư" để "tung hoả mù" tỏ ra không còn hợp lý".

Đó là một lời khuyến nghị hoàn toàn trái ngược mà Taylor đưa ra vào thời điểm đó, năm 1961, và kéo dài trong nhiều năm. Một thập kỷ lừa gạt kết thúc với lời buộc tội của tôi. Nếu lịch sử vẫn còn giá trị để lừa gạt, thì nó cũng đáng để phơi bày, dù cho có phải trả giá bằng cuộc sống của chính mình.

Tạp chíTime(Thời đại) liên lạc với tôi thông qua Charlie Nesson, một giáo sư Luật học của Harvard, người đồng ý tham gia vào nhóm cố vấn pháp lý của chúng tôi để viết một câu chuyện trên trang nhất về tôi. Nhưng họ cần phỏng vấn tôi.

Derek Shearer, cùng với chúng tôi, thảo luận điều này với cha tôi Lloyd. Cha tôi kiên quyết thuyết phục tôi không nên làm như vậy. Ông nói những phóng viên nhật báo sẽ tức giận nếu tôi dành quyền độc quyền cho một tờ báo nào đó, đặc biệt là tạp chíTimes, tờ báo mà họ coi thường (chủ bút của tạp chíTimesHenry Grunwald, nhất quyết cấm đoán và chèn ép những phóng viên của ông ta viết về cuộc chiến. Một vài trong số họ đã xin thôi việc). Họ sẽ chỉ coi tôi như một kẻ tìm kiếm sự nổi tiếng cá nhân. Tôi nên tiếp tục duy trì sự tập trung của dư luận vào cuộc chiến và nội dung của tài liệu, không phải vào cá nhân tôi. Tôi nhắn với tạp chíTimesrằng cuộc phỏng vấn là không thể thực hiện được. Tôi không có thời gian. Tờ báo tiếp tục gây sức ép. Họ nói họ sẽ không thể đăng lên trang nhất nếu không phỏng vấn tôi. Họ có quy định về điều này.

Tôi nói, điều đó thật tệ. Tạp chíTimesđề nghị dành cho tôi ba trang để nói bất kỳ điều gì tôi muốn, không biên tập, như là một phần của bài báo. Đề nghị đó thật hấp dẫn và tôi cảm thấy dằn vặt khi phải từ chối cơ hội này. Nhưng tôi biết điều đó sẽ làm chệch con đường tôi đang đi, và tôi nên chú tâm vào những điều sắp xảy ra. Cuối cùng, Tạp chíTimesbuộc phải đăng bài báo đó. Tôi được cho biết rằng, kể từ bài báo viết về Adolf Hitler in năm 1943, đây là lần đầu tiên một bài trên trang bìa được đăng mà không có phần phỏng vấn cá nhân.

Đến phút cuối, những biên tập viên thuyết phục tôi chỉ trả lời họ một câu hỏi: Mắt tôi màu nâu hay xanh? Chúng tôi trả lời rằng mắt tôi màu xanh. Họ chỉ hỏi thế thôi. Mặc dù vậy, điều đó rõ ràng tạo nên sự khác biệt. Sau đó, ai đó từ tạp chíTimeđưa cho tôi bản in thử đầu tiên với bức hình của tôi trên trang bìa, đôi mắt nâu.

Tạp chíTimeslấy bức hình của tôi (đen trắng) từ cha tôi ở Detroit. Tạp chí Life cũng vậy. Bố tôi có các album ảnh của tôi. Một số trong đó được chụp khi tôi đang ở Việt Nam, hầu hết là ở Rạch Kiến, mặc bộ đồ chiến đấu và mang một khẩu súng tiểu liên K do Thuỵ Điển sản xuất. Tạp chíLifecó một bức ảnh lớn của tôi nằm trên cánh đồng lúa, với khẩu tiểu liên ngang vai. Một bức ảnh khác cho thấy tôi trong bộ đồ lính thuỷ đánh bộ màu xanh da trời. Tôi từng nghĩ rằng những bức hình đó từ Cha có thể giúp tôi thoát khỏi tình thế khó khăn, ngăn cản Nhà Trắng tuyên truyền rằng tôi là một kẻ không yêu nước. Nhưng sự việc diễn ra ngược lại. Việc công bố những bức ảnh đó đưa đến một nhận định rằng tôi là một kẻ được chăng hay chở, dễ thay đổi, có chút gì đó điên rồ bởi sự thay đổi cực đoan của bản thân tôi, cho dù việc đó có thể đặt ra câu hỏi là tại sao tôi được tin tưởng rất lâu với nhiều bí mật và được tham vấn ở cấp cao, bởi cả những đảng viên Dân chủ hay Cộng hoà. Ngay cả những bài báo thông cảm nhất cũng khai thác bi kịch của tình cảnh khốn đốn khiến tôi thay đổi quan điểm. Tiêu đề trênLifelà "Từ Diều hâu đến Bồcâu hung tợn". Tôi nghĩ tính từ miêu tả tình cảnh hiện tại của tôi thật thú vị, bởi vì nó dành cho giai đoạn trước với bức tranh tôi mang khẩu súng tiểu liên.

Sự chứng thực của cha về tôi ở Detroit rất có lợi cho tôi.

Tôi đọc nó trong các bản tin của hãng AP và nhìn thấy ông một vài lần trên tivi. Điều đó làm tôi cảm thấy ấm lòng. Xét cho cùng, ông là một đảng viên Đảng Cộng hoà. Người anh cấp tiến của tôi không thể nói chuyện với ông về chính trị. Cha tôi (lúc đó 80 tuổi) đã hai lần bỏ phiếu cho Nixon. Tuy nhiên, khi ông ta được hỏi về tôi, ông không chỉ tỏ ra cảm thông. Ông hùng hồn tuyên bố hoàn toàn ủng hộ những gì ông cho rằng tôi đang làm. Khi trả lời phỏng vấn tờDetroit News, ông nói: "Daniel đã từ bỏ mọi thứ để cống hiến cuộc đời nó để chấm dứt cuộc tàn sát điên rồ đó… Nếu con trai tôi đã cung cấp cho họ báo cáo đó, và nếu chính phủ buộc tội nó… thì thế đấy, nó có thể đang cứu sống nhiều thanh thiếu niên, nếu không thì họ sẽ bị gửi tới nơi đó (Việt Nam)". Bài báo tiếp tục: Ellsberg nói con trai của ông đã cho ông "biết rất nhiều điều tồi tệ khi đọc về cuộc chiến đến mức mà chúng ta không thể phí thời gian để nói về nó khi chúng ta ở cùng nhau. Chúng ta biết chúng ta đang đứng ở đâu - và chúng ta đang bị dồn vào chân tường".

Tôi không cho ông biết một chút gì về những gì tôi đang dự định, hoặc đang thực hiện, không lời cảnh báo (ngay cả tôi cũng không nói trước được điều gì) về những điều có thể xảy ra. Tôi không thể gọi điện cho ông khi tôi đang ẩn trốn. Nhưng trong các bài phỏng vấn, ông trình bày các vấn đề hệt như tôi đã mớm lời cho ông. Thực tế còn tốt hơn. Ông nói về Hiến pháp và vai trò của tự do ngôn luận trong nền dân chủ của chúng ta, về cuộc chiến kinh hoàng, vô vọng và sai trái, về những người đã bị nói dối cho đến lúc chết bởi sự lừa đảo của các vị Tổng thống của họ, về những sinh mạng mà tôi đang cố gắng cứu vớt. Tôi run lên vì cảm động khi nghe những lời đó từ ông. Một tuần sau khi chúng tôi đi vào hoạt động bí mật, theo đề nghị của tôi, Tom Oliphant chuyển tải thông điệp, trong bài báo về tôi trên tờ Globe, rằng: "Ông (tác giả) muốn cha, Harry Ellsberg… biết rằng ông (tác giả) biết ơn sâu sắc cho với những lời ủng hộ mà ông (cha của tác giả) tuyên bố trước báo giới tuần trước". Tất cả những điều này đến từ đâu? Tom nói với tôi sau đó: "Từ chính bản thân anh. Lúc đầu tôi ủng hộ cuộc chiến, nhưng những lá thư của anh từ Việt Nam làm tôi sáng mắt".

Những gì đang xảy ra ở nước Mỹ thật đáng ngạc nhiên và chưa từng có. Ngành công nghiệp báo chí, trong vòng 30 năm trở lại đây hoặc lâu hơn nữa, mỗi khi động đến chính sách đối ngoại và các vấn đề quốc phòng luôn bằng lòng với việc dựa vào các văn kiện của chính phủ, bỗng nhiên nổi loạn khắp nơi.

Hết tờ báo này đến tờ báo khác lên tiếng đòi cơ hội, không chỉ để đăng một phần của câu chuyện mà còn vượt qua ranh giới, trở thành sự phản kháng dân sự cực đoan. Chưa bao giờ trong lịch sử có một lệnh cấm hoạt động của báo chí. Trước khi có phán quyết của Toà án tối cao, đã có bốn lệnh được đưa ra, và cũng có thể lên đến hai mươi.

Sau lệnh hạn chế tạm thời ban đầu được đưa ra với tờThời báo New York, tất cả các tờ báo tham gia đăng nội dung tập hồ sơ đều thách thức lại tuyên cáo chính thức của Nhà Trắng và Bộ Tư pháp rằng họ đang gây thiệt hại nghiêm trọng đến an ninh quốc gia. Những cá nhân và cơ quan đưa ra tuyên bố đó được biết đến như là các trụ cột của chính phủ. Đối với bất kỳ ai trong số họ, trước khi sự việc xảy ra, dám thách thức lại phán quyết khẩn cấp của Tổng thống đồng thời là Tổng Tư lệnh quân đội trong thời kỳ chiến tranh, bằng hành động cụ thể và ở mức độ như vậy, là không thể tưởng tượng được, theo đúng nghĩa đen.

Đọc tin tức và theo dõi tình hình qua tivi từ các nơi ẩn náu khác nhau, tôi nghĩ điều này thật tuyệt vời: Họ đang ở đúng trong tiến trình mà tôi đã trải qua, học cách nghĩ cho chính họ, tự đánh giá về những gì đúng đắn cần phải làm trong một cuộc khủng hoảng, phát hiện ra rằng họ sẵn sàng chấp nhận cáo buộc và đối mặt với các hình phạt nặng nề khi họ không còn lựa chọn nào khác. Trong bối cảnh như vậy, tôi nhận thức nghĩa vụ cần phải mang cơ hội này đến càng nhiều người càng tốt. Điều đó có nghĩa là các mạng lưới truyền hình cũng cần có cơ hội để tham gia vào cuộc nổi loạn này.

Các kênh tin tức truyền hình đã sẵn sàng dành một nửa thời gian hoặc nhiều hơn trong chương trình thời sự đêm khuya để đối diện với chính phủ, nhưng việc đưa tin không đặt họ vào trong tình thế của các tờ báo đã đăng tải nội dung của hồ sơ. Các kênh truyền hình mới chỉ đưa tin về cuộc nổi loạn, chứ không tham gia. Nhưng hiện nay, khi các đồng nghiệp báo viết dám đương đầu với thách thức để thể hiện lòng can đảm thật sự, truyền hình quốc gia cần phải có cơ hội để chung sức với họ.

Chúng tôi bắt đầu với kênh truyền hình NBC bởi vì tôi đã xem hình ảnh của ông Chủ tịch tập đoàn, Julian Goodman, trên chương trình thời sự buổi đêm, ủng hộ việc tờThời báo New Yorkcông bố công trình nghiên cứu bí mật. Một người bạn của chúng tôi đã lách qua nhiều cấp quản lý tại NBC để mang tin nhắn chúc mừng của tôi đến Goodman, và lời đề nghị giúp ông cùng với tờThời báo New Yorkcông bố một phần tài liệu chưa phát hành trongHồ sơ Lầu Năm Góctrên kênh truyền hình của ông. Trong vòng nửa giờ, Goodman từ chối lời đề nghị. ABC từ chối nhanh hơn, ngay sau khi nghe lời đề nghị. Nhưng CBS chứng tỏ mối quan tâm thực sự, dựa trên thời gian của họ mà cân nhắc.

Quyết định cuối cùng không thuận cho chúng tôi. Nhưng họ đưa ra quyết định đó một cách miễn cưỡng sau một ngày xem xét kỹ lưỡng ở cấp lãnh đạo cao nhất. Cân nhắc chủ yếu là CBS lúc đó đang dính líu vào một vụ đối đầu pháp lý liên quan đến bộ phim tài liệu của hãng về quan hệ công chúng của giới quân sự, Vụ bán tháo Lầu Năm Góc. Một Uỷ ban của quốc hội đề xuất buộc tội CBS không tuân theo lệnh của Quốc hội, từ chối giao nộp cuốn phim gốc để điều tra. Hạ nghị viện đang chuẩn bị bỏ phiếu về đề xuất này. Frank Stanton của CBS và hầu hết nhân viên dưới quyền nghĩ rằng điều đó sẽ tác động xấu cho cuộc bỏ phiếu, và họ sẽ phải chịu quá nhiều áp lực trong cùng một lúc nếu chống lại chính sách bảo mật của Lầu Năm Góc lúc này. Tôi hiểu điều đó, và tôi tôn trọng thực tế rằng, trái ngược với hai kênh truyền hình NBC và ABC, CBS đã thực sự cố gắng hết sức. Chính vì vậy, vài ngày sau, khi cả ba hãng truyền hình, thông qua các nhà trung gian, đề nghị phỏng vấn tôi trong lúc tôi vẫn còn hoạt động bí mật, tôi đã dễ dàng chọn CBS.

Tôi hy vọng rằng CBS sẽ chọn phóng viên Walter Cronkite, phát thanh viên của chương trình thời sự buổi tối, người được coi là "người đàn ông đáng tin cậy nhất của nước Mỹ". Và Cronkite đã đến. Sau khi trở về từ Việt Nam sau trận Tổng tiến công Mậu Thân năm 1968, anh ta đã nói với khán giả rằng chúng ta đang sa lầy trong "bế tắc", một từ mà Nhà Trắng rất sợ nói tới. Tổng thống Johnson, khi xem chương trình này, đã nói với các đồng sự "Tôi vừa mất Trung Mỹ". Vài tuần sau, ông ta rút khỏi chiến dịch tranh cử Tổng thống.

Chiều muộn ngày 23-6-71, Cronkite và nhóm của anh ta đến một ngôi nhà lớn ở Cambridge, nơi tôi đang đợi sẵn.

Một số đoạn của buổi phỏng vấn được trình chiếu trên chương trình thời sự sớm buổi tối, và một chương trình khác muộn hơn, trong vòng nửa tiếng đồng hồ, từ 10h30 đến 11h trong cùng buổi tối. Trong phần chính của buổi phỏng vấn, tôi có cơ hội để trình bày với khán giả truyền hình cả nước tại thời điểm nhiều người xem truyền hình nhất về chiến lược bí mật của Nixon và sự tương tự của nó với những gì tôi đã thực hiện tại Lầu Năm Góc năm 1964 trong một thời gian nhất định.

Một số đoạn, bao gồm cả phần mở đầu và kết thúc của chương trình như sau:

Cronkite(mở đầu): Mặc dù còn nhiều tranh cãi, nhưng cái tên duy nhất được nhắc đến nhiều nhất như là người cung cấp tài liệu cho tờ Thời báo, Daniel Ellsberg, cựu nhân viên của Bộ Ngoại giao và Lầu Năm Góc, và sau đó ít khi xuất đầu lộ diện, hôm nay đã đồng ý trả lời phỏng vấn tại một địa điểm bí mật. Nhưng ông từ chối thảo luận về vai trò của ông, nếu có, trong việc công bố hồ sơ. Tôi hỏi ông ấy, theo ông, những phát giác quan trọng nhất liên quan đến các tập hồ sơ của Lầu Năm Góc là gì?

Ellsberg:Tôi nghĩ rằng, bài học được rút ra là tất cả mọi công dân của đất nước này đều không thể trả nổi cái giá mà họ đã để cho Tổng thống tự mình lãnh đạo đất nước, cả về đối nội và đối ngoại, mà không có sự giúp đỡ của Quốc hội, cũng như không có sự trợ giúp của công luận…

Cronkite. Có phải việc đính chính thông tin công khai tuỳ thuộc vào cá nhân các nhà lãnh đạo ở Washington hơn là do quy định của pháp luật?

Ellsberg:Tôi không đồng ý với nhận định này. Với tôi, dường như các "nhà lãnh đạo" - những người mà các bạn hay liên tưởng đến các quan chức hành pháp, hay nhánh Hành pháp của chính phủ - đã củng cố một ấn tượng trong chúng ta trong suốt một thế hệ vừa qua, đồng nhất Nhánh Hành pháp với Chính phủ. Và thực sự họ là những nhà lãnh đạo mà theo cách này chính phủ có thể không hoàn toàn lành mạnh nếu chúng ta vẫn tự coi mình là một nền dân chủ. Trên thực tế, tôi thực sự kinh ngạc trước phản ứng của Johnson, coi những phát giác đó "gần như là tội phản quốc", bởi vì nó gây ra một cảm giác rằng những hành động gây tổn hại cho danh tiếng của một chính quyền nhất định, một cá nhân nhất định thực sự là tội phản bội quốc gia. Điều đó đồng nghĩa với quan niệm: "Tôi chính là nhà nước". Và chân thành mà nói, rất nhiều Tổng thống, không chỉ Johnson đâu, đều có cái cảm giác như vậy. Điều mà tôi nhận thức sau khi đọc tài liệu đó là chúng ta phải luôn ghi nhớ rằng đây là một đất nước tự điều hành. Chúng ta chính là chính phủ.

Về khía cạnh thể chế, Hiến pháp quy định sự phân quyền, cho Quốc hội, cho toà án, một cách không chính thức cho báo chí, được bảo vệ bởi Tu chính án thứ nhất … Tôi nghĩ rằng chúng ta không thể để các quan chức của Nhánh ành pháp quyết định thay cho chúng ta những gì công chúng cần biết, về thành tích cũng như cách thức họ đang thực hiện nhiệm vụ của họ…

Cronkite:Bằng cách nào mà người ta có thể giữ bí mật tài liệu nghiên cứu này ở Nhà Trắng?

Ellsberg:Thực tế các quan chức của chính phủ đã giữ kín những bí mật này, họ đã dành cả cuộc đời của họ học cách ngậm miệng. Tôi cũng là một người trong số đó.

Cronkite. Một số người nói, tài liệu đó còn chưa đầy đủ, hay là "một phần lịch sử bị đánh mất". Có phải vậy không?

Ellsberg:Đó mới chỉ là điểm xuất phát. Đó là điểm bắt đầu của một thời kỳ lịch sử. Tôi có thể nói, đó là màn khởi đầu chính, nhưng chỉ là mở màn… Trong bảy nghìn trang của tài liệu nghiên cứu đó, tôi không nghĩ có một dòng nào đề cập đến một dự đoán về tác động có thể có từ chính sách của chúng ta đối với thương vong của người Việt Nam, hoặc người tị nạn, và ảnh hưởng sinh thái của hoá chất diệt cỏ. Cũng không có một dự đoán hay tính toán nào về những tác động đã xảy ra, không hề. Và tài liệu chỉ đơn giản phản ánh những lo ngại nội bộ trong những quan chức của chúng ta. Tài liệu không đề cập gì đến việc các quan chức của chúng ta không hề lo ngại về tác động từ chính sách của chúng ta đối với người Việt Nam.

Cronkite:ông miêu tả thế nào về những người mà họ không có chung cảm xúc khi đọc được điều này, khi biết được điều nọ, khi họ cũng có quyền tiếp cận với những bí mật đó như ông. Có phải họ lạnh lùng? Có phải họ vô tâm? Có phải họ độc ác?

Ellsberg:Tất nhiên, nhận định thông thường, mô tả thông thường về họ là họ thuộc số những nhân vật đứng đắn nhất, đáng kính trọng nhất và trách nhiệm nhất mà xã hội chúng ta có. Về khía cạnh lai lịch của họ, đánh giá đó thuyết phục. Nếu đọc được những dòng lịch sử đó, tôi nghĩ những người khác cũng cảm thấy như tôi. Nhưng tôi không thể không có cảm giác rằng sự đứng đắn, nhân tính của họ, sẽ được đánh giá một phần bởi những quyết định mà họ đưa ra, nguyên nhân mà họ đi đến quyết định đó, và hậu quả của chúng. Tôi sẽ không nhận xét về họ. Bằng chứng đã rõ ràng.

Tôi chắc chắn rằng, tại thời điểm này, nhiều người sẽ đau đớn hơn tôi khi nghe câu chuyện, tất nhiên bởi vì tôi đã quen thuộc với nó, đã đọc đi đọc lại vài lần. Nhưng tất cả người Mỹ hiện nay sẽ đau đớn khi đọc hồ sơ này - nhiều phần khác sẽ sớm được công bố - và phát hiện ra rằng, những người mà họ kính trọng, tin tưởng và dành cho quyền lực, khinh thường họ như cách họ khinh thường những đồng minh Việt Nam của chúng ta.

Cronkite:Ông nói sao về những hiệu ứng tức thì (của những phát giác này) đối với cuộc chiến trong những ngày này, tháng 6-1971?

Ellsberg:Vâng, cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn… Tôi hy vọng rằng Thượng viện sẽ làm được nhiều hơn. Tôi hy vọng rằng họ nhận thức ra trách nhiệm của họ đối với công dân của họ, đối với công dân của đất nước này, và đối với các cử tri, và họ sẽ làm nhiều hơn để tái đắc cử. Họ là những người tự do, những người dám gánh vác trách nhiệm để chám dứt cuộc chiến tranh này.

Cha tôi có một câu nói yêu thích trong Kinh thánh mà tôi hay thường được nghe khi còn là một đứa trẻ: "Sự thật sẽ giải phóng bạn". Và tôi hy vọng rằng, với việc công khai sự thật - công khai trên báo chí, ở các gia đình, ở nơi mà nó cần phải được công bố, nơi mà các cử tri có thể thảo luận - sự thật đã thoát ra khỏi hộp kín, và không có cách nào khác để cất nó vào hộp trở lại - tôi hy vọng sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi cuộc chiến. Tôi mong muốn chúng ta có thể bước qua cuộc chiến tranh… sao cho lịch sử của 20 năm kế tiếp sẽ không giống như lịch sử của 20 năm vừa qua.

Trong phần tường trình trước Toà án Circuit của Quận Columbia, thứ ba, ngày 22-6, tờBưu điện Washingtonđã thừa nhận những ảnh hưởng pháp lý của những nỗ lực do nhóm hoạt động bí mật chúng tôi trong việc tiếp tục phân tán tài liệu "Tờ báo cũng cảnh báo toà án phúc thẩm rằng các nỗ lực của chính phủ cuối cùng sẽ trở nên vô ích với thực tế là ngày càng nhiều các tờ báo đăng tài liệu đó". Một điều chắc chắn là:"Sự tiết lộ công khainội dung của tài liệusẽ sớm đến với côngluận Mỹ". Sự chắc chắn của tiến trình này phụ thuộc vào khả năng mạng lưới của chúng tôi bị FBI thâm nhập và tóm gọn, cũng như phụ thuộc vào sự cung cấp các bản sao. Tất cả văn bản công bố đều được phát ra trực tiếp hay gián tiếp từ chúng tôi.

Một yếu tố may mắn không thể thiếu khác là thời điểm và tính gấp rút gây áp lực sao cho Patricia có thể chụp tài liệu kịp thời mặc dù không một ai dự đoán trước được những tình huống đặc biệt đó đã làm cho chúng trở nên đặc biệt giá trị.

Nhân vật được Nixon bổ nhiệm, thẩm phán Roger Robb, đưa ra vấn đề thông tin tiếp tục được tiết lộ trên các tờ báo khác tự đặt ra câu hỏi rằng liệu có phải chính phủ "đang yêu cầu chúng ta kiểm soát một bầy ong". Ông ta dùng từ này có lẽ để chỉ các báo, nhưng từ "bầy ong" diễn tả chính xác đặc điểm của đội ngũ những người hoạt động bí mật của chúng tôi.

Thứ năm, ngày 24-6, phép ẩn dụ "một đàn ong" bị lu mờ bởi hình ảnh so sánh ngầm "vỡ đập". Trên khắp đất nước, mười một tờ báo trong hệ thống Knight - Detroit, Miami, Tallahassee, Akron, Boca Raton, và hai tờ báo ở mỗi thành phố Philadenphia, Charlotte, và Macon - cùng với tờ Thời báo Los Angeles, đồng loạt được phát hành với những tiết lộ mới. Cùng ngày đó, tờThời báo New Yorkkháng án lên Toà án Tối cao để xem xét lại quyết định phúc thẩm có lợi cho chính phủ của toà án Circuit. Cùng với nhiều yêu sách khác, Alexander Bickel đại diện cho tờ Thời báo yêu cầu một buổi điều trần ngay lập tức bởi vì "không chỉ quyền được thông tin của công chúng đã bị vi phạm trong vòng một tuần lễ mà tờ Thời báo, tờ báo đã dũng cảm đi tiên phong trong việc công bốHồ sơ Lầu Năm Góc, đang bị buộc phải nhường đường cho các tờ báo khác".

Thông tin tiếp tục được các tờ báo công bố bất chấp nỗ lực của Bộ Tư pháp. Có lẽ, cũng vì lý do đó mà, một thời gian sau khi cơ quan này đưa ra lệnh hạn chế đối với tờ Boston Globe, Bộ Tư pháp dường như từ bỏ việc đưa ra các lệnh cấm. Không có thủ tục pháp lý nào được triển khai đối với Thời báo Chicago Sun - Times, Thời báo Los Angeles hoặc bất kỳ tờ báo nào thuộc hệ thống báo chí Knight, mặc dù về nguyên tắc, tất cả những ấn phẩm này đều có nguy cơ gây ra tổn hại lập tức và nghiêm trọng đối với quốc gia mà chính phủ đã tuyên bố trong các trường hợp trước đó.

Buổi sáng thứ sáu, ngày 25-6, năm vị thẩm phán của Toà án Tối cao bỏ phiếu để xác định liệu có xử gấp vụ việc của TờThời báo New Yorkvà TờBưu điện Washington. Họ đồng ý nghe tranh luận vào ngày hôm sau trong một phiên toà họp vào buổi sáng thứ bảy chưa từng có trong lịch sử.

Bốn vị thẩm phán - Hugo Black, William Douglas, William Brennan và Thurgood Marshall - bất đồng ý kiến với quyết định nghe tranh luận "nói rằng họ đã có thể từ chối vụ việc này, và ngay lập tức dỡ bỏ mọi hạn chế đối với tờ Thời báo và Bưu điện". Rõ ràng, để dỡ bỏ lệnh cấm, cần phải thuyết phục ít nhất một trong số các thẩm phán còn lại. Do đó, tôi muốn thêm nhiều tờ báo vào danh sách những kẻ nổi loạn vì hai lý do. Trường hợp xấu nhất, nếu Toà án Tối cao duy trì lệnh cấm trong một thời gian ngắn, tôi muốn công bố càng nhiều nội dung của tài liệu càng tốt trước khi điều này xảy ra.

Hơn nữa, khi tin tức càng lan rộng, thì càng nhiều cơ hội mà một hoặc hơn nữa các thẩm phán đang lung lay, giống như Bobb và số đông trong bồi thẩm đoàn của Toà D.C Circuit, sẽ có ấn tượng rằng việc đưa ra lệnh cấm còn cần phải tranh luận thêm. Khi các thẩm phán tranh luận, tôi muốn cung cấp cho họ thêm các bằng chứng rằng hệ thống tư pháp đã tỏ ra hoàn toàn không còn khả năng ngăn cản dòng thông tin lưu chuyển tự do (Điều khoản Bổ sung lần thứ nhất chưa bao giờ quy định nhiệm vụ này cho hệ thống tư pháp).

Tất nhiên, Bộ Tư pháp có động cơ trái ngược. Tôi nghi ngờ nếu họ tin rằng có cách nào đó mà họ có thể chặn đứng dòng thông tin. Nhưng, rõ ràng Bộ Tư pháp cho rằng họ có thể củng cố lập luận trước Toà án Tối cao nếu họ nhấn mạnh quan điểm về tính khẩn cấp và nghiêm trọng của việc tiết lộ thông tin mà họ ra sức gây sức ép trong hai tuần qua bằng việc truy bắt người cung cấp thông tin như một kẻ tội phạm hình sự.

Các bài báo đưa tin chứng tỏ rằng cơ quan này đang cố gắng để có được một bản cáo trạng và lệnh bắt dành cho tôi trước khi Toà án Tối cao họp vào buổi sáng thứ bảy. Vấn đề có thể là không một ai trong số các tờ báo chấp nhận chứng thực (hoặc đã từng chứng thực) rằng tôi đã cung cấp các tập hồ sơ.

Tôi cũng chưa thừa nhận điều này. Gần đây, nhất là buổi phỏng vấn của Cronkite vào ngày 23-6, tôi từ chối bình luận về vai trò của tôi, bởi vì chưa có dấu hiệu rõ ràng rằng chính quyền có định khởi tố hay không. Bộ Tư pháp đã có bằng chứng chi tiết rõ ràng rằng thông cáo báo chí của McGovern và McClosky khẳng định tôi đã đưa tài liệu cho họ và tôi đã quả quyết sẵn sàng chịu bắt giam để công bố thông tin này.

Nhưng, không có tuyên bố của tôi (hoặc của một phóng viên đã nhận tài liệu từ tôi) thì điều đó không đủ để chứng minh tôi đã cung cấp các văn bản đó cho báo chí.

Về việc sao chép tài liệu, vợ cũ của tôi đã đưa ra bản khai có tuyên thệ mà con tôi và tôi đã mớm lời cho cô ấy. Tony Russo từ chối làm chứng. Nhưng trước đề nghị được dành cho quyền miễn trừ và đối mặt với khả năng bị tạm giam vì khinh thường pháp luật nếu từ chối, Lynda Sinay đã cung cấp bằng chứng. Với chứng cứ đó, quan toà Venetta S. Tasopoulos ra trát bắt giam tôi ngay tối thứ sáu ngày 25-6. Lệnh bắt này được đưa ra kịp thời để đưa vào hồ sơ họp của Toà án Tối cao vào sáng thứ bảy.

Khi luật sư riêng của tôi Charlie Nesson tìm đến tôi với lệnh bắt đó, ông ta nói rằng tôi phải trình diện với cơ quan công quyền ngay lập tức. Tôi nói: "Tôi không thể làm như vậy. Tôi còn rất nhiều bản sao của tài liệu để phân phát".

Charlie nói tôi không còn cơ hội nào khác. "Nếu anh không trình diện, anh sẽ trở thành một tên tội phạm đang lẩn trốn".

"Tệ thật. Tôi không thể kết thúc như vậy".

Charlie nhắc đi nhắc lại điều đó và rời khỏi để tham khảo ý kiến với Boudin. Khi trở lại, ông ta hỏi: "Anh cần bao nhiêu lâu để thoát khỏi phần hồ sơ còn lại".

"Một vài ngày", tôi trả lời.

Sau khi bàn bạc với tôi, Charlie và Boudin gọi đến Bộ Tư pháp và cố gắng thuyết phục họ với ý tưởng tôi sẽ trình diện ngay lập tức nếu Bộ Tư pháp đảm bảo tôi sẽ được thả vào cuối tuần mà không cần bảo lãnh. Như chúng tôi đã dự đoán, họ không thành công. Charlie gọi điện lại cho tôi và hỏi: "Khi nào anh có thể tới được?"

"Sáng thứ hai".

Charlie gọi cho luật sư đại diện ở Boston và nói với ông ta rằng tôi sẽ trình diện vào sáng thứ hai, không sớm hơn. Ông luật sư nói: "Ông biết rằng, anh ta sẽ không làm như vậy".

Charlie quá quyết: "Vâng, anh ta sẽ làm như vậy".

Yên lặng trong một phút, Luật sư đại diện nói: "Ồ, được rồi, FBI sẽ không thể tìm thấy anh ta cho đến ngày hôm đó".

Charlie nói: "Ông biết không, ông đang nói chuyện trên một đường dây bị nghe trộm". Đó là giả định mà các luật sư của tôi đưa ra, mặc dù họ không biết thực sự về điều đó.

"Ông đang đùa đấy hả".

"Không hề".

Viên quan chức của Bộ Tư pháp thốt lên: "Ôi, Chúa ơi" và cúp máy.

Charlie kể lại câu chuyện này cho tôi và nói, "Anh có hai ngày". Tôi xem lại những gì còn lại và quyết định xem sẽ chuyện chúng cho ai. Tất nhiên, tôi không nhất thiết phải làm như vậy. Tôi có thể trình diện ngay và giao lại công việc này cho ai đó, nhưng từ trước đến nay, tôi là đầu tầu của quá trình này và tôi muốn trụ lại đến phút cuối cùng. Sau khi hai mươi tháng nỗ lực, và sau hai tuần thắng lợi vừa qua, thách thức công khai và thành công, tôi không hề muốn rời bỏ khi các nhà chức trách bảo tôi phải làm như vậy. Luật sư của tôi còn ở vào một tình trạng khó xử hơn, có nguy cơ dính líu vào một vụ rắc rối pháp lý, nhưng họ gánh chịu mà không một lời phàn nàn. Khi Toà án Tối cao đang nghe tranh luận, họ tuyên bố tại một cuộc họp báo ở Boston rằng tôi sẽ trình diện tại Văn phòng luật sư tại Boston lúc 10.00 sáng thứ hai, ngày 28-6. Họ cũng không biết gì nhiều về nguyên nhân của sự trì hoãn này.

Sáng thứ bảy, tôi chia các bản sao còn lại thành hai phần và cuối tuần, nhóm của chúng tôi chuyển chúng đến toà soạn báo Người đưa tin Cơ đốc giáo vàTuần tin tức. Đến đêm chủ nhật, tủ đựng tài liệu đã sạch trơn. Chúng tôi đã sẵn sàng lộ diện vào sáng ngày hôm sau. Tôi không biết điều gì sẽ xảy ra trong trường hợp bảo lãnh. Hai ngày với tư cách là một kẻ chạy trốn có thể không thuyết phục được thêm một vị quan toà để cho phép tôi bước ra khỏi toà án. Trong căn phòng ở nhờ cuối cùng, chúng tôi nghĩ đây có thể là đêm cuối cùng chúng tôi bên nhau. Trước lời thúc giục quyết liệt của chính phủ trong buổi sáng chủ nhật đề nghị Toà án Tối cao tiếp tục ngăn chặn việc công bố thông tin cho công luận Mỹ, tôi cảm thấy thật bõ công để chứng minh trên thực tế nỗ lực của chính phủ là vô ích, trong khi các thẩm phán đang cân nhắc, để các tờ báo sẵn sàng hành động như thể họ không bị ràng buộc gì.

Buổi sáng ngày thứ hai, ngày 28-6, Charlie Nesson đến để cùng chúng tôi đến toà án liên bang thưa kiện.

Ông bày tỏ hy vọng sẽ có nhiều nhà báo ở đó. Tôi mặc bộ đồ đẹp nhất mà ai đó đã "ăn trộm" ra khỏi căn hộ của tôi. Đó là một món quà cưới của người anh rể và là bộ complê may duy nhất mà tôi từng có. Tôi mặc nó trong suốt phiên toà. Trong những ngày này, trước khi vụ Watergate diễn ra, dường như bất kỳ ai đến toà án với một bộ complê lịch sự cùng cà vạt luôn có vẻ như vô tội trước hội thẩm đoàn.

Charlie đưa cho tôi lời khuyên của một nhà báo rằng FBI đang cố gắng một cách tuyệt vọng để tóm được tôi trên đường trước khi tôi trình diện tại toà án. Sự bất lực của FBI trong nỗ lực truy bắt tôi hai tuần qua khiến họ lúng túng, trong khi đó tôi đang phân tán hồ sơ và xuất hiện trên kênh truyền hình quốc gia, và tìm kiếm sự minh chứng vào phút cuối. Bản thân tôi cũng cảm thấy ấn tượng về sự thất bại của họ trong việc tìm kiếm tôi hay ngăn cản bất cứ bản sao nào của hồ sơ trước khi chúng xuất hiện. Một vài ngày sau đó, tôi hỏi luật sư của tôi, Leonard Boudin: "FBI thực sự giỏi cái gì?"

Leonard trả lời: "Bắt kẻ đi đầu thú".

Theo kinh nghiệm quá khứ, Boudin tin rằng Bộ Tư pháp hào hứng muốn trình diện tôi trước ống kính camera như là một kẻ tội phạm bị bắt giam, với còng số tám, nếu không nói là xích sắt. Charlie nói tôi có thể gặp rất nhiều xe cảnh sát ở trên đường dẫn tới trụ sở toà án. Ông ta cho rằng chính phủ sẽ rất hài lòng nếu tóm được tôi, thậm chí ở những phút cuối cùng, trước khi tôi bước vào Quảng trường Bưu điện. Ông ta thuê một chiếc taxi đến chở chúng tôi đến đó. Ông hướng dẫn người lái xe theo một lộ trình lòng vòng. Chúng tôi đi vòng ra rất xa và qua Charles trên một chiếc cầu ít được sử dụng.

Sáng hôm đó, tôi hình dung trong đầu một tuyên bố ngắn, tôi muốn nói với báo giới nếu tôi có cơ hội trước khi bị bắt.

Đây có thể là cơ hội đầu tiên cho tôi đứng ra nhận trách nhiệm duy nhất về việc tiết lộ hồ sơ. Khi tôi còn hoạt động bí mật và chưa công khai nhận tôi là nguồn gốc của hồ sơ, tôi không thể chứng thực giả thuyết là đồng nghiệp cũ đã khai với FBI để thoát khỏi sự nghi ngờ. Giờ đây, tôi muốn bắt đầu tuyên bố hùng hồn và công khai rằng tôi làm việc này với trách nhiệm của cá nhân và "một mình", với tư cách như là một nhân vật trong chính phủ, một người được phép biết các thông tin mật. (Rõ ràng, ngay khi tôi quyết định, tôi không đơn độc, mà nhận được sự giúp đỡ quan trọng từ phía bạn bè, gia đình và những người phản đối chiến tranh). Đó là điểm chính mà tôi muốn nói, nhưng đó cũng là tuyên bố đầu tiên tôi phát biểu trực tiếp về động cơ và hy vọng của bản thân tôi.

Trong khi đi lòng vòng, tôi chợt nghĩ ra rằng Patricia cần phải có một bản sao những điều mà tôi muốn nói, để trong trường hợp tôi bị bắt khi đang phát biểu hoặc trước khi tôi có thể nói ra, cô ấy có thể phát ngôn thay tôi. Trên chiếc ghế sau của chiếc xe tắc xi, Patricia ngồi kề bên, tôi viết ra tuyên bố của mình trên vài trang giấy viết thư và trao cho cô ấy. Tôi nói với cô ấy rằng nếu cảnh sát tìm ra được chúng tôi trước khi chúng tôi đến nơi hoặc bắt tôi đi đâu đó trước khi tôi kịp nói điều gì hoặc trước khi tôi kịp kết thúc, cô ấy sẽ tiến về phía micro và kết thúc bài phát biểu giúp tôi.

Charlie ngồi ở ghế đằng trước với người lái xe. Tất cả mọi người - trong lúc tôi đang tập trung nguệch ngoạc viết - theo dõi các xe tuần tra và đợi nghe tiếng còi rú vang. Nhưng những con đường mà người tài xế chọn hầu như vắng tanh, ngay cả trong buổi sáng thứ hai. Ngay khi tôi dừng bút và trao những tờ giấy cho Patricia, chiếc taxi rẽ ngoặt qua góc phố và dừng lại trước lối vào Quảng trường Bưu điện. Con đường đông nghịt người từ đầu này đến đầu kia. Một số họ giương cao dấu hiệu ủng hộ tôi. Chúng tôi xuống xe và tiếng hoan hô dậy vang khi đám đông kéo đến xung quanh.

Thoạt tiên, đám đông dường như tập hợp toàn những người mà chúng tôi quen biết, nhưng không có một ai trong số đó là những đồng nghiệp lâu năm của tôi trong chính phủ và Rand mà hầu hết là các bạn bè trước và sau đó, đặc biệt là từ Boston và Cambridge và trên khắp vùng Bờ Đông. Điều đó giống như một bữa tiệc sinh nhật bất ngờ, hoặc chương trình"This is your life"(*), hoặc những kinh nghiệm chết lâm sàng mà nhiều người đã kể lại sau cơn hôn mê, rằng khi họ đi qua một đường hầm tối để đến ánh sáng, họ gặp lại tất cả những người yêu thương.

Ở một đầu của quảng trường nhỏ là toà nhà Post Office với toà án liên bang và văn phòng luật sư Mỹ bên trong. Tôi nhìn thấy những người trông giống như quan chức, cùng cảnh sát đứng ở các bậc cầu thang. Nhưng có vẻ họ không muốn bắt tôi. Họ cư xử giống như những người tốt bụng. Rõ ràng, do tôi đã tiến những bước dài mà không bị còng tay, họ sẵn sàng từ bỏ cuộc chơi và để tôi tự đến với họ. Họ chờ đợi trong khi chúng tôi ôm lấy nhau, bắt tay với phóng viên trong đám đông.

Họ bị nhấn chìm bởi một làn sóng báo chí. Chưa bao giờ tôi thấy nhiều nhà báo, phóng viên ảnh, phóng viên truyền hình đến như vậy. Họ vây quanh chúng tôi. Không có sự ngăn cách nào giữa tôi với họ để phát biểu. Tôi nói trước một rừng micro trước mặt. Tôi tự diễn thuyết. Đám đông ép sát vào tôi. Patricia không cần phải phát ngôn hộ tôi nữa. Tôi nói:

"Mùa thu năm 1969, theosự chủ động của cánhân, tôi nhận trách nhiệmbáo cáo với Chủ tịchcủa Uỷ ban Đối ngoạiThượng viện thông tin trongcái gọi là Hồ sơLầu Năm Góc, bao gồmcả tài liệu nghiên cứuvề các cuộc đàm pháncủa Mỹ, những điều chưatừng được tiết lộ chobáo giới. Đến thời điểmđó chỉ có tôi vàhơn một chục cá nhânkhác có quyền tiếp cậnnhững nghiên cứu này. Đếnmùa xuân năm nay -hai cuộc xâm lược sauđó - khoảng 9 ngànngười Mỹ nữa và hàngtrăm ngàn người dân ĐôngDương bị chết, tôi chỉcó thể ân hận rằngtại thời điểm đó, tôiđã không phơi bày lịchsử trên báo chí chongười dân Mỹ biết. Hiệnnay, tôỉ đã hoàn thànhcông việc đó, một lầnnữa, với sự chủ độngcủa cá nhân tôi.

Tất cả những hành độngđó trái ngược với quyđịnh bảo mật và, thậmchí, trái ngược với cáchthức xử lý thông tincủa Bộ Quốc phòng. Tuynhiên, với tư cách làmột công dân có tráchnhiệm, tôi cảm thấy khôngthể hợp tác thêm nữatrong việc che giấu thôngtin này đối với côngluận Mỹ. Tất nhiên, hànhđộng của tôi có thểgây nguy hiểm cho bảnthân, và tôi sẵn sàngchịu trách nhiệm về mọihậu quả do quyết địnhcủa mình gây ra. Đócó thể là hậu quảcho cá nhân tôi, giađình tôi.

Nhưng dù hậu quả đócó ra sao, cuối cùngchúng cũng không thể sosánh với những hậu quảmà tôi, cùng với hàngtriệu người Mỹ khác, đãtừng vui vẻ chấp nhậnkhi trước để phục vụcho tổ quốc này.

Đối với tôi đây làmột hành động của hyvọng, một hành động củalòng tin. Hy vọng rằngsự thật sẽ giải thoátcho chúng ta khỏi cuộcchiến này. Tin rằng nhữngngười dân Mỹ hiểu biếtsẽ buộc những công chứccủa họ ngừng nói dối,ngừng tàn sát và chấmđứt chết chóc ở ĐôngDương do những người Mỹgây ra".

Cuối cùng, khi chúng tôi rẽ đám đông để bước vào toà nhà liên bang, một phóng viên hỏỉ tôi: "Ông cảm thấy thế nào khi vào tù?". Tôi hỏi lại: "Chắc hẳn ông sẽ không vào tù để giúp chấm dứt chiến tranh chứ?"

Chúng tôi bước lên bậc thềm nơi các quan chức đang chờ đợi. Một số họ đang mỉm cười. Họ đón mừng chúng tôi trong lòng, và những cánh cửa đóng lại bỏ mặc đám đông hò reo bên ngoài. Hai giờ đồng hồ sau, khi tôi bước ra ngoài, mọi người vẫn chờ đợi và hoan hô một lần nữa. Tôi được thả với 50.000 ngàn đô tiền bảo lãnh mà không chắc chắn sẽ phải chờ đợi việc kiện cáo hoặc xét xử tiếp theo.

Sáng thứ ba, ngày 29-6, trong khi Toà án Tối cao đang xem xét các trường hợpHồ sơ Lầu Năm Góc, tờNgười đưa tin Cơ đốcgiáođăng bài báo của riêng họ dựa trên tài liệu nghiên cứu đó với quảng cáo đây là phần đầu tiên trong một chùm ba bài liên tiếp. Tôi biết rằng Cha sẽ rất vui khi thấy tờ Người đưa tin Cơ đốc giáo trên thực tế đã tán thành hành động của tôi.

Đêm ngày thứ ba, 29-6, Thượng nghị sỹ Mike Gravel của Alaska bỏ lá phiếu của mình, hai lần: lần thứ nhất tại Thượng viện, nơi ông là nghị sỹ duy nhất cố gắng cản trở cuộc chiến và cuối cùng là người duy nhất nhậnHồ sơ Lầu Năm Góctừ tôi và cố gắng đọc chúng để ghi lại. Lần thứ hai là vào đêm khuya hôm đó, trong một buổi điều trần của Tiểu ban xây dựng và mặt bằng của Uỷ ban các công trình công cộng của Thượng viện mà ông triệu tập một cách vội vã.

Ông đã vội vã rời khỏi phòng tập thể thao của Thượng viện thứ sáu, ngày 18-6, để nhận một cuộc điện thoại mà trợ tá của ông nghi ngờ rằng do tôi gọi. (Tờ Bưu điện Washington công bố bài báo đầu tiên vào buổi sáng hôm đó và biết rõ sẽ bị cấm). Từ một chiếc máy điện thoại công cộng, không giới thiệu bản thân, tôi hỏi liệu ông có nghiêm túc về việc kéo dài thời gian để trì hoãn việc thông qua lệnh cấm, và liệu ông có muốn sử dụngHồ sơ Lầu Năm Góccho mục đích này. Ông trả lời "Có" một các chắc chắn với cả hai câu hỏi.

Ngày 24-6, bất chấp mối lo ngại với tư cách là một nhà báo, Ben Bagdikian giữ lời hứa với tôi, chuyển chiếc hộp với tập tài liệu thứ hai đến cho Gravel (từ chiếc xe này sang chiếc xe khác) trước khách sạn Mayflower ở Đại lộ Connecticut.

5 giờ 55 phút sáng thứ ba, ngày 29-6, Thượng nghị sỹ Gravel bị ngăn cản bởi một thủ đoạn nghị trường của một nghị sỹ Đảng Cộng hoà, không thể tiến hành việc kéo dài thời gian ở phòng họp nghị viện. Ý định của ông là kéo dài cho đến khi dự thảo hết hạn 30 giờ sau đó giữa đêm ngày thứ tư.

Ông tiếp tục sử dụng ảnh hưởng cá nhân, bởi không nghị sỹ nào đủ can đảm cản trở. Ông triệu tập một cuộc điều trần vào buổi đêm trong một tiểu ban ít tiếng tăm mà ông làm chủ tịch.

Với tư cách là Thượng nghị sỹ duy nhất có mặt, ông bắt đầu đọcHồ sơ Lầu Năm Gócđể ghi vào hồ sơ điều trần lúc 21h45 trước ống kính camera. Ông ghi lại phần tài liệu còn lại mà Bagdikian đã chuyển đến cho ông vào băng khi ông ngưng buổi điều trần một mình vào lúc 1 giờ sáng. Sau đó, với sự giúp đỡ của các trợ lý, ông phân phát hàng bọc những văn bản tối mật trước đó chưa từng công bố cho một đám đông nhà báo và cho hãng tin AP. Hãng tin này đã đưa những văn bản đó lên mục tin tức của nó và truyền đi khắp đất nước. Ông làm như vậy mà không có sự đảm bảo nào về quyền miễn trừ của đại biểu quốc hội cho những hành động trên, và với nhiều khả năng sẽ bị các đồng nghiệp tẩy chay, và nguy cơ bị khiển trách hay mất chiếc ghế nghị sỹ. Khi các thẩm phán của Toà án Tối cao chuẩn bị ra phán quyết buổi sáng hôm đó, các toà báo ở khắp Washington và các nơi khác đã có sẵn các bài báo dựa trên những tài liệu mật mà Ngài Thượng nghị sỹ đã phân phát.

Cũng trong buổi sáng thứ tư, ngày 30-6, khi tờ Monitor xuất bản kỳ hai, tờ Tin chiều của Long Island công bố những tiết lộ mới mà chúng tôi đã cung cấp cho họ cuối tuần.

Tờ báo này trở thành tờ báo cuối cùng có nguy cơ đối mặt với Bộ Tư pháp, bởi vì Toà án Tối cao ngay chiều hôm đó, bỏ phiếu với tỷ lệ 6-3 (cả Potter Steward và Byron White tham gia vào số đông), huỷ bỏ giá trị của tất cả các lệnh cấm trên cơ sở Hiến pháp và gạt bỏ mọi cản trở cho việc tiếp tục công bốHồ sơ Lầu Năm Góc.

Chú thích:

(*) "This is your life"(Đây là cuộc sống củabạn) Một chương trình truyềnhình quen thuộc của Anh,phát sóng thường kỳ kểtừ năm 1955. Mỗi chươngtrình kể về câu chuyệncuộc đời của một nhânvật nổi tiếng, hoặc ngườiđã giúp đỡ người khácHọ không biết trước vềđiều đó, và người dẫnchương trình mang lại chohọ ngạc nhiên ngay từđầu chương trình. Họ đượcmời đến trường quay, nơimà bạn bè, gia đìnhvà những người khác xuấthiện với tư cách làcác vị khách mời vàkể chuyện về họ. Tấtcả chi tiết về cuộcđời họ được ghi lạitrong một cuốn sách bìađỏ lớn, và sẽ đượctặng lại vào cuối chươngtrình. Chương trình này đãtrình chiếu đến năm 1987do Eamonn Andrews phụ trảchvà sau đó chuyển sangcho Micheal Aspel (1933 đến2003). Một chương trình tươngtự, với tên gọi tươngtự được phát trên truyềnhình Mỹ từ 1952 đến1961 - ND.

Chương 31. Cuộc chiến tranh vẫn đang tiếp diễn

Lời H. R. Haldeman nói với Tổng thống Nixon, trong băng ghi âm của Phòng Bầu dục, 14-7-1971 về tác động củaHồ sơ Lầu Năm Góc:

"Đối với một người bìnhthường, tất cả chỉ làmột mớ văn chương cầukỳ. Nhưng trong mớ vănchương cầu kỳ này lạinói lên một điều rấtrõ ràng. Anh không thểtin vào chính phủ, anhkhông thể tin vào nhữngđiều họ nói, và anhkhông thể tin vào nhữnglời phán xử của họ.Và niềm tin vào sựsáng suốt của Tổng thốngvốn được thừa nhận rộngrãi ở Mỹ đã bịtổn thương nghiêm trọng, bởinó chỉ ra rằng ngườita sẵn sàng làm nhữngđiều mà Tổng thống muốndù cho điều đó làsai lầm, và Tổng thốngcũng có thể sai lầm(103)".

Thông điệp đó đã đến với quần chúng như một lời tuyên bố chung chung. Chính nhờ lệnh cấm đầy kịch tính của Nixon và thái độ bất chấp của phần lớn báo giới Mỹ mà sự chú ý đổ dồn vào nội dung những tài liệu đó đã vượt quá những trông đợi của tôi: phủ kín 50 trang tờThời báo New York, chiếm một nửa thời lượng bản tin tối trong suốt một tháng; xuất hiện trên trang nhất của không chỉ 19 tờ báo mà chúng tôi gửi bản sao mà hầu như toàn bộ tất cả các tờ báo trong nước. Và toàn bộ các tiêu đề và bài xã luận, trong suốt một tháng, ngày nào cũng nhắc lại thông điệp mà Haldeman đã tóm tắt một cách cô đọng và nhanh chóng.

Dù rằng thông điệp này xa lạ và khó lọt tai, nhưng không ai thực sự phản bác và không thể chối bỏ nó. Đó là một sự thay đổi trong ý thức của người Mỹ. Nó càng được củng cố sau khi bí mật về vụ Watergate được hé lộ. Một sự thay đổi chỉ đem lại những điều tốt đẹp nếu chúng ta vẫn là một nền Cộng hoà.

Tuy nhiên tôi đã sớm nhận ra rằng tâm lý của những cử tri và những nhà bình luận vẫn khó tin vào những lời suy luận đối với ông Tổng thống đương nhiệm. Ít nhất là họ cũng phản đối trên cơ sở là tôi không có những tài liệu tương tự như những tài liệu mà tôi đã cung cấp về những chính quyền tiền nhiệm. Đây là việc mà tôi phải sớm kết thúc trong vòng 2 năm tới, sau một cơ hội lớn để kiểm chứng điều đó. Bản cáo trạng của Bộ Pháp lý dành cho tôi, sau hai tuần truy nã rộng khắp nhưng thất bại, đã cho tôi thấy cơ hội của mình. Điều đó đã làm cho tôi trở nên nổi tiếng đến mức tôi có thể sử dụng để truyền tải thông điệp chính: cách thức dối lừa của cơ quan hành pháp, lạm dụng quyền lực thời chiến, và chiến lược vô vọng nhằm ngấm ngầm đe doạ và công khai leo thang bạo lực trong những Hồ sơ của Lầu Năm Góc trong suốt 23 năm qua vẫn tiếp tục được chính quyền Nixon theo đuổi, trong năm cầm quyền thứ ba và sau đó.

Hầu như chẳng có ai tin tôi cả. Tôi không có những tài liệu để chứng minh cho những điều tôi nói về chính sách bí mật của Nixon, và không ai trong chính quyền bước ra để cung cấp những tài liệu này. Bản cáo trạng đối với tôi về ba tội nghiêm trọng cấp liên bang, cuối năm đó đã tăng thêm khoảng một tá tội danh khác khiến tôi có thể sẽ bị phạt tù tổng cộng 115 năm - cùng với Anthony Russo, người cũng bị thay đổi cáo trạng, có thể tù 25 năm rõ ràng là nhằm ngăn chặn bất kỳ một sự tiết lộ trái thẩm quyền những thông tin giống như của chúng tôi, có lẽ cũng phát huy tác dụng. Có thể thông cảm được rằng, rất ít người trong công chúng muốn tin lời tôi nói về triển vọng của cuộc chiến và sự leo thang tiếp diễn, và vì tôi thiếu những bằng chứng thuyết phục hơn, nên họ không cảm thấy bị bắt buộc phải tin. Vì vậy, tôi chỉ có thể nói, tôi không định thuyết phục những người không tích cực tham gia vào phong trào phản chiến. Những nhà phỏng vấn chuyên nghiệp và hầu hết những nhà bình luận đều lắng nghe tôi và đối xử với tôi một cách trân trọng. Nhưng kể cả những người này và công chúng đều không thực sự nghiêm túc tin vào những lời cảnh báo mà tôi cố gắng truyền đạt: Cuộc chiến này chưa kết thúc và nó không phải đang trong tiến trình kết thúc, thậm chí nó đang mở rộng ra một lần nữa.

Thật không may, những sự kiện xảy ra đã chứng minh là tôi đúng. Tuy nhiên vào mùa thu năm 1971, sự lạc quan trong lời tuyên bố của Nixon về việc khai thông quan hệ với Trung Quốc đã khiến công chúng hiểu điều này nghĩa là cuộc chiến đã là chuyện cũ, lui vào lịch sử, những thông điệp của tôỉ lại trở nên thiếu sức thuyết phục và lạc lõng. Mọi người suy đoán trong thông điệp hào nhoáng của Nixon về chuyến thăm Trung Quốc sắp tới rằng một thoả thuận về Đông Dương đang được định hình. Có lẽ Tổng thống Nixon và Henry Klssinger cũng tin vào điều đó. Còn tôi thì không.

Tôi không thấy có một dấu hiệu nào là Nixon đã từ bỏ những mục tiêu cá nhân: nhằm ép miền Bắc rút quân khỏi miền Nam cùng với Mỹ hoặc chấp nhận một lệnh ngừng bắn nhằm để Chính quyền Thiệu vĩnh viễn nắm quyền tuyệt đối ở Sài Gòn.

Tôi cũng không thấy một dấu hiệu mong manh nào cho thấy Hà Nội sẽ chấp nhận những điều khoản này. Đối với miền Bắc Việt Nam, việc đồng ý ngừng bắn và trên cơ sở lời hứa về những cuộc bầu cử được tổ chức bởi chế độ chống cộng Sài Gòn thì cũng không khác gì những thoả thuận rỗng tuếch mà người Pháp đã đưa ra năm 1946 hay phương án của những "nhà bảo trợ" đưa ra trong Hiệp ước Geneva năm 1954. Tuy nhiên đó chính là điều mà Nixon nghĩ trong đầu; ông ta thậm chí còn không buồn thay đổi cái vỏ bọc của nó.

Những kí ức của ông ta về những năm 1954 đến 1960 khi ông đang là phó Tổng thống cũng sống động như của họ. Ông ta không hề có ý định cho phép có một cuộc bầu cử năm 1972 hoặc 1973 để rồi dẫn đến việc chia sẻ quyền lực ở Sài Gòn hoặc những người Cộng sản nắm quyền, cũng như Dwight Eisenhower hoặc John Foster Dulles đã từng làm năm 1954 và 1956. Thực ra tôi nghi ngờ rằng ông ta đang hy vọng lặp lại chính xác phương án Geneva mà Hà Nội cương quyết phản đối: nghĩa là Liên Xô và Trung Quốc sẽ lại ép một giải pháp như vậy đối với đồng minh nhỏ bé của mình, để đổi lấy việc cải thiện quan hệ với Mỹ. Tuy nhiên, mặc dù Nixon có kế hoạch thăm cả Trung Quốc và Liên Xô, tôi tin rằng sự đối đầu giữa Trung Quốc và Liên Xô sẽ vẫn tiếp tục, giống hệt trong thập kỷ trước, và đảm bảo cho Hà Nội sự trợ giúp đầy đủ để tránh hậu quả đó. Dù sớm hay muộn, năm sau hoặc năm sau nữa, sẽ có một đợt tấn công mới để rồi Nixon sẽ đáp trả bằng việc tăng cường ném bom và có lẽ cả những biện pháp còn cứng rắn hơn.

Trong khi đó, ông ta vẫn tiếp tục rêu rao về cái gọi là "những cuộc phản công bằng không quân vì mục đích phòng thủ" (đối với miền Bắc đến một mức độ ngang với mức ném bom thời Johnson. Ngay sau đêm Giáng sinh 1972, ông ta lệnh cho hàng ngàn máy bay ném bom miền Bắc Việt Nam suốt 5 ngày, đây là đợt oanh tạc dữ dội nhất kể từ năm 1968). Vậy là 6 tháng sau khi xuất bảnHồ sơ Lầu Năm Góc, khi mọi người hỏi rằng tôi nghĩ những tài liệu này đã đem lại điều gì, tôi trả lời:

"Chẳng có tác dụng gì". Chẳng có tác dụng gì liên quan đến cuộc chiến tranh, mối quan tâm lớn nhất của tôi. Mục đích chính của tôi không phải là thay đổi dư luận: mục đích chính của tôi là ngăn chặn việc ném bom, cuộc chiến tranh, và chính sách của Nixon. Như tôi thấy, cả ba đối tượng này đều chưa bị ảnh hưởng gì bởi dư luận Mỹ, hoặc bởi những tài liệu của tôi, suốt từ khi Nixon lên nắm quyền đến nay.

Hầu hết người Mỹ đều muốn rút khỏi cuộc chiến từ trước khi những tài liệu này được xuất bản; phần đông coi cuộc chiến là phi đạo đức. Có lẽ cả hai nhóm người này đều đang tăng lên sau khi họ đọc các bài báo liên quan đến hồ sơ và bất cứ điều gì mà họ biết. Nhưng tác động đến mức nào? Bất chấp tình cảm của đa số, Tổng thống tiếp tục kéo dài cuộc chiến bằng cách giảm bộ binh nhưng lại tăng cường ném bom và luôn liên tục thuyết phục công chúng rằng ông ta đang đi đến một giải pháp.

Ông ta lại lặp lại luận điệu đó vài tháng sau, tháng giêng năm 1972, tiết lộ rằng đã có một số cuộc hội đàm bí mật và ra vẻ như có một số lời đề nghị "hào phóng" mà ông biết rằng Hà Nội sẽ không bao giờ chấp nhận.

Khi đó tôi đang dành thời gian mấy tháng, trước phiên toà xét xử chúng tôi bắt đầu vào tháng Năm, để viết lời bình luận trong một tập hợp những bài viết của tôi về Việt Nam, nhan đề "Hồ sơ cuộc chiến". Vì tôi đã hoàn thành phần giới thiệu của cuốn sách vào cuối tháng ba, tôi buộc phải viết những nhận định đáng buồn rằng: "Cuộc chiến vẫn tiếp tục và vẫn chờ một "sự kết thúc" bất tận, trong khi các đợt ném bom vẫn diễn ra đều đặn với cường độ ngang với Chiến tranh thế giới lần II". Mấy ngày sau khi tôi viết những dòng đó, miền Bắc mở đợt tấn công chớp nhoáng. Ba năm nay, Mort Halpelin và tôi từng dự báo đợt tấn công này, Nixon và Kissinger từng tìm cách ngăn ngừa nó bằng những lời đe doạ, những đợt ném bom, những đợt xâm lược công khai vào lãnh thổ Campuchia, Lào, và chính sách ngoại giao tam giác với Liên Xô và Trung Quốc. Một niềm tin vô căn cứ rằng sức mạnh của những lời đe doạ và những sự leo thang ít nhất cũng ngăn ngừa được một đợt tấn công ở quy mô luôn là tâm điểm trong chính sách chiến lược của chính quyền Mỹ suốt 3 năm qua. Đợt tấn công nổ ra ngay vào năm bầu cử Tổng thống cho thấy sự thất bại hoàn toàn của chính sách trước đó. Như Halpelin và tôi cũng dự báo, họ phản ứng bằng một đợt leo thang dài hơi, chưa từng có.

Ngay từ ngày 1-4-1972, tôi đã tiên đoán được việc thả thuỷ lôi ở Hải Phòng và theo đó, tôi chắc rằng, sẽ có những đợt ném bom không hạn chế ra miền Bắc, bao gồm cả B52. Tôi cũng chẳng biết nói gì thêm sau những lời cảnh báo của mình trước đó. Đối với ý nghĩa của sự kiện này, đây là lúc để xuất bản những tài liệu cuối cùng của tôi về cuộc chiến, tài liệu mã số NSSM-1 và một tài liệu tự chọn. Tôi từng muốn xuất bản những tài liệu này vào mùa thu năm ngoái, ngay sau khiHồ sơ Lầu Năm Gócđược phát tán, nhưng Patricia đã khuyên rằng trong bối cảnh Trung Quốc đang muốn khai thông quan hệ với Mỹ và Quốc hội lại đang tạm hoãn, những tài liệu này sẽ có ít tác dụng.

Nay ít nhất thì những tài liệu này sẽ chứng minh được rằng Nixon có ý định thả thuỷ lôi ở Hải Phòng từ năm 1969 và sự thiếu hiệu quả của quân đội Mỹ đã được các nhà phân tích tình báo dân sự dự báo trước.

Những luật sư của tôi chắc rằng, việc tiếp tục tung ra tài liệu này ra sẽ dẫn đến thêm một tội danh nữa trong cáo trạng của tôi, như họ đã từng thấy ở năm 1971. Hơn thế nữa, nó lại liên quan đến tài liệu mật của Hội đồng An ninh quốc gia từ chính quyền hiện tại, loại tài liệu không thể biện luận là thuộc diện tài liệu "lịch sử" được. Do vậy việc tránh tội là hầu như không thể. Tuy nhiên, họ không gây sức ép với việc tôi chuẩn bị đưa ra lời kêu gọi. Và vì chúng tôi sắp phải đối đầu với một cuộc tổng tấn công mà chúng tôi đã tránh né trong 7 năm qua, cả Patricia cũng đồng ý rằng đây là thời cơ để chúng tôi làm tất cả những gì có thể. Sự nhượng bộ duy nhất mà tôi đồng ý với các luật sư của mình là tôi sẽ không khiêu khích Bộ Tư pháp bằng việc cung cấp 500 trang tài liệu mật tại một buổi họp báo hoặc công khai tuyên bố mình là nguồn cung cấp những tài liệu đó.

Một lần nữa, Thượng nghị sỹ Mike Gravel sẵn sàng đóng vai trò trung gian đưa thông tin vào Hồ sơ quốc hội của Thượng nghị viện và lần này là cả giới truyền thông nữa. Mặc dầu đang phải cố gắng bảo vệ những người phụ tá khỏi bị kết tội vì có vai trò trong việc xuất bảnHồ sơ Lầu Năm Góctại nhà xuất bản Beacon - ông đã kháng án đến Toà án tối cao - ông vẫn khuyến khích tôi đưa cho ông ta bất cứ tài liệu gì tôi có. Tôi đã giao tài liệu NSSM-l cho ông để chờ thời điểm thích hợp. Vào tháng sáu ông bị Thượng nghị viện ngăn không cho đưa những văn bản trên vào Hồ sơ quốc hội qua một bài phát biểu tại Thượng viện. Dự tính được điều này, ông đã đưa những tài liệu này cho Jack Anderson và tờ Tuần tin tức và thế là chúng xuất hiện trong những bài viết nổi bật trên các báoBưu điện Washingtonvà Ngôi sao Washington, bắt đầu từ ngày 25-4-1972, chính vào ngày mà Thượng nghị viện ngăn cản Gravel đọc những tài liệu này trước Quốc hội.

Tám ngày sau, ngày 3-5-1972, tôi tranh thủ sự hiện diện của Thượng nghị sỹ Gravel và Hạ nghị sỹ Ron Dellums tại cuộc mít tinh trên bậc thềm trước toà nhà Quốc hội, là nơi tôi đang diễn thuyết - theo sự gợi ý của một trợ lý tư pháp của Dellum là ông Mike Duberstein - để Gravel có thể chuyển tài liệu cho Dellums. Sau khi cắt bỏ kí hiệu phân loại mật bằng một chiếc kéo, Duberstein đặt 500 trang tài liệu mật vào trong hộc dành cho những kiến nghị bổ sung cho Hồ sơ Quốc hội, theo đó tất cả đã được xuất bản vào ngày 10 và 11-5. Vậy là những Thượng nghị sỹ đang bàn cãi trong cuộc họp kín rằng liệu họ có đủ thẩm quyền để nhận tài liệu mật của Gravel hay cứ mặc kệ kí hiệu mật đi thì cuối cùng tất cả đều được đọc.

Tuy nhiên, chính quyền Mỹ cũng đã học được một vài bài học. Lần này không hề có yêu cầu báo chí hạn chế hoặc lệnh cấm của toà án, không phạt, không khiển trách, không tính thêm tội danh trong cáo trạng của tôi, mặc dù ông Tổng thống cũng như ông Chánh án Toà án tối cao biết quá rõ nguồn cung cấp một lượng thông tin mật ấy là từ đâu rồi. Những quan chức khôn ngoan đã không hề phản ứng hoặc bình luận gì trước việc xuất bản đó. Kết quả là, việc tiết lộ 500 trang văn bản bí mật của chính quyền Nixon chỉ gây một chút xáo động, không có tác động gì thực sự đáng kể.

Nỗi lo lắng của tôi về những điều sẽ đến với người dân Bắc Việt là hoàn toàn xác thực, bởi vì một đoạn băng ghi lại những đối thoại ở Nhà Trắng mãi đến gần đây mới được tiết lộ. Vào ngày 25-4-1972, buổi sáng mà tờBưu điện Washingtonlần đầu tiên cho đăng tài liệu NSSM-1 và những phân tích về việc thả thuỷ lôi ở Hải Phòng, có cuộc trao đổi trong Phòng Bầu Dục như sau:

Tổng thống Nixon:Chúng ta phải bỏ kiểukhông kích 3 ngày liêntiếp (ở khu vực HàNội và Hải Phòng). Chúngta ta cần phải nghĩđến một đợt ném bomdốc toàn lực - kéodài cho đến khi chúng… - Và bây giờvới việc đánh bom toànlực tôi đang nghĩ đếnnhững điều xa hơn thế.Tôi nghĩ đến đê đập,tôi nghĩ đến đường sắt,và tôi nghĩ đến tấtnhiên, cả những bến cảng…

Kissinger: … Tôi đồng ývới ngài.

Tổng thống Nixon:… Chúng ta phải sửdụng lực lượng lớn …

Hai tiếng sau, vào buổitrưa, H. R Haldeman vàRon Ziegler cùng dự vớiKissinger và Nixon:

Tổng thống:Chúng ta giết được baonhiêu bên Lào?

Ziegler:Có lẽ là 10 ngànhoặc 15 ngàn?

Kissinger:Nói chung ở bên Lào,ta hạ được khoảng 10,15 ngàn…

Tổng thống:Thế đấy, quay lại chuyệnđợt tấn công vào miềnBắc mà ta đang tính…nhà máy điện, bất kểcái gì còn lại -trạm xăng dầu, bến cảng…và tôi đang tính cólẽ ta sẽ nên đánhcả các đê đập. Điềuđó sẽ làm chết nhiềungười chứ?

Kissinger:Khoảng 200.000 người.

Tổng thống:Không, không, không,… tôi thàdùng bom nguyên tử cònhơn. Anh hiểu không hảHenry.

Kissinger:Điều đó, tôi nghĩ, cólẽ là quá nhiều.

Tổng thống:Bom nguyên tử, điều đólàm anh khó nghĩ à?Tôi chỉ muốn anh nghĩrộng ra, Henry, vì Chúa(104).

Một tuần sau, ngày 2-5-1972, sau khi nghe Kissinger và Haig trình bày về lợi ích của việc kết hợp ném bom và phong toả, Tổng thống đã đồng ý tiến hành cả hai. Như ông ta tuyên bố: "Phong toả kết hợp némbom toạ độ sẽ giúpchúng ta đạt được mụctiêu - khiến bọn BắcViệt phải quỳ gối"(105).

Vậy là, dù cho "kể cả Miền Nam sụpđổ" thì, một khả năng theo dự báo của Kissinger, miền Bắc dưới áp lực kép sẽ "phải trao lại tù nhân,nước Mỹ không thể bịđánh bại. Chúng ta khôngthể thua ở Việt Nam…Vì vậy chúng ta phảirút kiếm. Vì vậy -việc phong toả sẽ tiếptục. Và tôi phải nóilà… tôi thích nó …và tôi muốn mọi ngườihiểu rõ điều này. Lýthuyết về chiến lược đánhbom toạ độ là đúngđắn và tôi muốn nơiđó phải bị đánh bomnát vụn. Nếu chúng tahành động, chúng ta hãydội bom lên lũ khốnkiếp đó khắp mọi nơi.Hãy cất cánh bay, hãycất cánh bay".

Ngày 4-5, sau khi bàn luận về quyết định của mình với Kissinger, Al Haig, và John Connally, Nixon đã suy nghĩ về triển vọng cuộc chiến với Việt Nam. Nghe trong băng của Phòng Bầu Dục, ông ta đập xuống bàn như đang chỉ vào một tấm bản đồ tưởng tượng, hoặc có lẽ một tấm bản đồ thật ở đó:

"Việt Nam! Lũ khốn đóđang ở trong chỗ này,ngay chỗ này (đập) Đâylà nước Mỹ (đập). Đâylà Tây (đập) Âu, cáivùng nhỏ xíu kiêu căng,đã gây quá nhiều thiệthại… Đây là Liên Xô(đập), và đây là (đập)Trung Đông… Đây là (đập)lũ Châu Phi ngu dốt…và đây là lũ MỹLa tinh không đến nỗingu lắm. Đây là chúngta. Chúng nó muốn gâysự với nước Mỹ. Bâygiờ, mẹ kiếp bọn Ananút,chúng ta phải làm việcthôi. Chúng ta sẽ nghiềnnát chúng. Đây chẳng phảilà giận dữ hay gìcả. Những lời chê bairằng tôi "nóng nảy" đềunhảm nhí. Đáng ra tôiphải làm việc này từlâu rồi, tôi đã khôngnghe theo bản năng mình.

"Tôi sẽ cho thấy lànước Mỹ không thua. Tôinói thẳng như thế, vàchính xác là như thế.Miền Nam Việt Nam cóthể thua. Nhưng nước Mỹkhông thể thua. Điều nàycó nghĩa là tôi đãcó quyết định. Bất kểđiều gì xảy ra vớimiền Nam Việt Nam, chúngta sẽ nghiền nát miềnBắc.

"Chỉ một lần, chúng tasẽ phải dùng hết sứclực của đất nước nàyđối với cái nước nhỏbé khốn kiếp kia: đểchiến thắng trong cuộc chiến.Chúng ta không thể dùngtừ "chiến thắng". Nhưng nhữngngười khác thì được".

Trong một cuộc trao đổi sau đó, Nixon có nói với Kissinger:

"Có một điểm duy nhấtmà tôi và anh cònbất đồng… là liên quanđến việc đánh bom. Anhquá quan tâm đến lũdân thường, còn tôi cóccần, tôi không quan tâm".

Kissinger trả lời: "Tôi quan tâm đến dân thường vì tôi không muốn cả thế giới đoàn kết chống lại ông như chống lại một tên đồ tể".

Tại cuộc mít tinh trước toà nhà Quốc hội ngày 3-5, tôi đã tiên đoán được việc thả thuỷ lôi ở Hải Phòng sắp tới. Hoá ra, ông Tổng thống đã bí mật quyết định một ngày trước đó.

Việc này được tiến hành 6 ngày sau đó, vào ngày 8-5-1972.

Richard Nixon đã chờ đợi chiến dịch này kể từ khi chưa nắm quyền đến lúc nắm quyền, trong gần một thập kỷ. Tôi đã phản đối kế hoạch này, và lo rằng nó sẽ dẫn đến việc ném bom ồ ạt, và kéo dài. Tôi vẫn nhớ cảm giác chiều hôm đó và nói với Patricia, đó là ngày đen tối nhất của đời tôi. Sau đó khi chúng tôi chuẩn bị cho phiên toà ở Los Angeles, tôi nói với Mort Halpelin, người tham gia vào nhóm biện hộ với vai trò cố vấn: "Này, có lẽ chúng ta sắp kết thúc lời dự báo mà anh nói với tôi 3 năm trước".

Ông ta trả lời: "Không, Hà Nội vẫn chưa bị đánh bom".

Vào tháng bảy, sau khi nghe bản kiến nghị của hội thẩm đoàn tiến trình tranh tụng của chúng tôi bị hoãn lại sau khi Bộ Tư pháp phát hiện ra thiết bị nghe trộm điện tử trong số một luật sư của chúng tôi. Trong suốt quá trình trì hoãn kéo dài đó, tôi đã dành suốt mùa biểu tình năm 1972 để cảnh báo bất kỳ ai rằng tôi biết khả năng chiến tranh sẽ còn leo thang. Trong số đó bao gồm hầu như tất cả các đoàn báo chí đến đưa tin về việc tái đắc cử của Tổng thống tại Đại hội toàn quốc của Đảng Cộng hoà, và tại một cuộc họp báo do Hạ nghị sỹ McCloskey tài trợ. Ở khắp nơi, khán giả của tôi đều rất lịch sự nhưng vẫn hoàn toàn hoài nghi thông điệp của tôi. Họ thấy dễ tin hơn vào tuyên bố của Kissinger hồi cuối tháng 10 rằng "hoà bình đã ở trong tầm tay", thông điệp này đã đưa đến việc tái đắc cử của Tổng thống trong tuần sau đó với một chiến thắng áp đảo lớn thứ hai trong lịch sử nước Mỹ. Ở một vài góc độ, độ chênh lệch phiếu của Nixon còn cao hơn cả Lyndon Johnson năm 1964, người đã chiến thắng với khẩu hiệu "chúng ta không cần mở rộng chiến tranh nữa", ba tháng trước khi ông ta bắt đầu đánh bom Bắc và Nam Việt Nam.

Một tháng sau cuộc bầu cử và một tuần trước lễ Giáng sinh năm 1972, Tổng thống Nixon lệnh cho những chiếc B52 ra Hà Nội lần đầu tiên. Trong 11 ngày đêm tiếp theo - trong kỳ nghỉ Giáng sinh - máy bay Mỹ đã trút xuống Bắc Việt Nam 20.000 tấn bom (lượng chất nổ ngang với quả bom nguyên tử ném xuống Nagasaki). Con số này được cộng vào với con số 150.000 tấn được ném xuống Bắc Việt Nam từ tháng tư đến tháng mười.

Nếu tính từ thời điểmHồ sơ Lầu Năm Gócđược tiết lộ một năm rưỡi trước đó - sau khi đa số người dân Mỹ được thăm dò ý kiến cho rằng tham gia vào cuộc chiến là phi đạo đức" - thì Tổng thống Nixon đã ném khoảng 1,5 triệu tấn bom xuống vùng Đông Dương. Tức là ngang với toàn bộ số tấn bom mà Mỹ ném xuống châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ lần II.

Trong tuần lễ Giáng sinh năm 1972, tôi luôn được hỏi rằng tôi nghĩ gì về tác dụng của việc phát tánHồ sơ Lầu Năm Gócđối với cuộc chiến. Tôi vẫn trả lời giống như câu trả lời một năm trước đó: "Chẳng có gì, chẳng có tác động gì cả. Điều này đúng cả với phong trào hoà bình rộng lớn, mà việc xuất bản những tài liệu này chỉ là một phần. Và không chỉ phong trào hoà bình mà cả toàn bộ phong trào chống chiến tranh cũng chẳng có tác động gì cả. Cả khối cử tri cũng không gây được tác động".

Trong suốt những tuần lễ Mỹ ném bom với mật độ dày đặc nhất trong lịch sử, 6 tuần sau thắng lợi vang dội của Tổng thống Mỹ nhờ lời hứa hẹn "Hoà bình trong tầm tay", tôi vẫn tiếp tục nói: "Người Mỹ chúng ta cũng có nhiều khả năng gây ảnh hưởng đến những gì đang xảy ra ở Hà Nội và Hải Phòng trong tuần này, như người Liên Xô có thể gây ảnh hưởng tới cuộc xâm lược Tiệp Khắc. Không như Liên Xô, chúng ta có một nền dân chủ thật sự. Điều mà chúng ta không có ở lúc này là một sự kiểm soát dân chủ đối với chính sách đối ngoại của Mỹ.

Vào cuối tháng 1-1973, Hiệp định Hoà bình Paris được ký kết, Mỹ dừng ném bom Đông Dương, trừ Campuchia vẫn còn bị ném bom tăng cường. Tuy nhiên, như tôi dự báo - cùng với Nhà Trắng - cái tiêu đề chính thức "Hiệp định về chấm dứt chiến tranh và lập lại hoà bình ở Việt Nam" vẫn chứng tỏ lối tư duy độc đoán. Hiệp định đã không đem lại một khoảng khắc hoà bình hay ngừng bắn nào cho miền Nam Việt Nam và không mở ra triển vọng nào cho việc kết thúc chiến tranh. Điều mà Kissinger và sếp của mình có trong tay vào tháng mười và đã thoả thuận lại, về cơ bản là không thay đổi. Tháng 1-1973, theo quan điểm của họ hoặc trên thực tế, chưa phải là lúc kết thúc cuộc chiến. Đó chỉ là một thoả thuận với Hà Nội về việc Mỹ đơn phương rút bộ binh để đổi lấy việc trao trả tù binh chiến tranh Mỹ, cùng với những lời cam kết rỗng tuếch về việc chuẩn bị và tiến hành những cuộc bầu cử công khai ở miền Nam Việt Nam, có sự tham gia của Mặt trận dân tộc giải phóng.

Vì lãnh đạo của cả Washington và Sài Gòn đều sớm cho thấy họ không có ý định tuân thủ những điều khoản về bầu cử, cục diện vẫn là Mặt trận dân tộc giải phóng bị gạt ra ngoài lề các hoạt động chính trị công khai trong miền Nam. Trong khi đó, chính quyền Thiệu, được sự hậu thuẫn của người Mỹ, vẫn tuyên bố nắm quyền lực hợp pháp và duy nhất. Vì vậy, sẽ không thể có triển vọng tiếp tục ngừng bắn như vậy đối với Mặt trận dân tộc giải phóng và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, hoặc đối với Việt Nam cộng hoà. Với việc chiến sự vẫn tiếp tục giữa Quân đội Việt Nam cộng hoà và Mặt trận dân tộc giải phóng (Việt Nam Dân chủ Cộng hoà), tôi dự đoán Mỹ chắc chắn sẽ ném bom trở lại miền Bắc, miền Nam Việt Nam, và Lào sau hai tháng tạm ngưng chờ quân Mỹ rút hết. Cuốn "Không hoà bình, Chẳng danh dự" của Larry Berman (2001), một tài liệu đầu tiên về chính sách của Nixon và các cuộc đàm phán đã phản ánh hầu như đầy đủ các tài liệu và các cuộc phỏng vấn của cả hai bên, khẳng định rõ rằng Nixon luôn có dự định đó. Nixon đã bí mật, nhắc đi nhắc lại những cam kết "đảm bảo 100%" với Tổng thống Thiệu rằng ông ta sẽ tái ném bom quy mô lớn càng sớm càng tốt.

Nixon thực sự có ý định thực hiện lời hứa đó, Kissinger cũng vậy. Như Berman tiết lộ, Kissinger ra sức thúc giục các đợt không kích với quy mô tương đương đợt Giáng sinh năm 1972, lại Lào và Việt Nam năm 1973, kể cả trước khi các lực lượng Mỹ kịp rút hết.

Tuy nhiên đợt ném bom mà Nhà Trắng chăm chăm thực hiện đã không xảy ra, vì những lý do, cuối cùng, chính là nền dân chủ Mỹ, và chế độ pháp quyền. Việc xét xử Tony Russo và tôi, với việc tranh tụng trước toà bắt đầu lại vào tháng Giêng đã bộc lộ cho công chúng thấy phản ứng của Nixon đối với việc phát tánHồ sơ Lầu Năm Góc. Nhưng đó không phải là phản ứng duy nhất. Việc phát tán trái quy tắc của tôi đã làm khuấy động một chuỗi phản ứng trong bộ máy cầm quyền và dẫn đến việc kiềm chế rất hiệu quả sự lạm dụng những quyền lực thời chiến của Tổng thống Nixon trong vài năm sau đó, ngăn ngừa việc Mỹ ném bom trở lại Việt Nam và Lào, và rút ngắn cuộc chiến.

Chú thích:

(103) "Đối với một ngườibình thường" - Tổng thốngvà Haldeman, 15:09, 14 tháng7, 1971, Phòng Bầu Dục.Cục hồ sơ An ninhquốc gia. Xem biên bảntại Cục hồ sơ Anninh quốc gia, Đại họcGeorge Washington, www.gwu.edy/NSAEBB

(104) "Chúng ta phải bỏkiểu không kích" - Tổngthống và Kissinger, 10:45, 25tháng 4, 1972, Toà nhàVăn phòng Hành pháp.


(105) "Phong toả kết hợpném bom toạ độ" -Tổng thống và Haig, 24:42,2-5-1972, Trao đổi tại PhòngBầu dục 717-20.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét