Hình bìa cuốn sách "Những bí mật về chiến tranh Việt Nam - Hồi ức về Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc" (Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers)
Tiến sĩ Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc và là cố vấn Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ
Lời dẫn của Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn: Tiến sĩ Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc và là cố vấn Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ trong buổi phỏng vấn với CNN và trong sách "Những bí mật về chiến tranh Việt Nam - Hồi ức về Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc" (Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers) đã viết: "Không hề có chiến tranh Đông Dương thứ nhất và thứ nhì, chỉ có một cuộc xung đột nối tiếp trong một phần tư thế kỷ. Dùng ngôn từ thực tế, đứng về một phía (Mỹ), ngay từ đầu nó đã là một cuộc chiến của Mỹ: mới đầu là Pháp - Mỹ, sau đến toàn là Mỹ. Trong cả hai trường hợp, nó là một cuộc đấu tranh của người Việt Nam – không phải là tất cả người Việt Nam nhưng cũng đủ để duy trì cuộc đấu tranh – chống chính sách của Mỹ và những kinh viện, ủy nhiệm, kỹ thuật gia, hỏa lực, và cuối cùng, quân đội và phi công, của Mỹ... Cuộc chiến đó không có gì là "nội chiến", như nó đã không là nội chiến trong cuộc tái chiếm thuộc địa của Pháp được Mỹ ủng hộ. Một cuộc chiến mà trong đó một phía hoàn toàn được trang bị và trả lương bởi một quyền lực ngoại quốc – một quyền lực nắm quyền quyết định về bản chất của chế độ địa phương vì những quyền lợi của mình – thì không phải là một cuộc nội chiến... Theo tinh thần Hiến chương Liên Hiệp Quốc và theo những lý tưởng mà chúng ta (nước Mỹ) công khai thừa nhận, đó là một cuộc ngoại xâm, sự xâm lược của Mỹ".
Mời xem video clip mới nhất của Kênh QPVN- Chuyên mục Nhận diện sự thật số 120 ngày 27/4/2018:
Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn và Trung tướng Nguyễn Quốc Thước trả lời trên Kênh QPVN: VÌ SAO LỊCH SỬ CHIẾN THẮNG 30-4 VẪN BỊ XUYÊN TẠC?
Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn và Trung tướng Nguyễn Quốc Thước trả lời trên Kênh QPVN: VÌ SAO LỊCH SỬ CHIẾN THẮNG 30-4 VẪN BỊ XUYÊN TẠC?
Theo yêu cầu của Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn, Google.tienlang xin đăng trọn bộ cuốn sách "Những bí mật về chiến tranh Việt Nam - Hồi ức về Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc" (Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers) của Tiến sĩ Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc và là cố vấn Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ.
*************
Chương
12. Rời
Việt Nam
Vào
một tối giữa tháng giêng năm 1967, đại tá Châu mời tôi đến ăn tối tại nhà ông để
gặp cấp trên mới của ông ta ở Bộ Tổng Tham mưu - Đại tướng Ngô Dzu. Ngày hôm
sau dưới sự hướng dẫn của tướng Landsdale, tôi báo cáo lại cuộc trò chuyện đó
dưới dạng một bản ghi nhớ cho phó Đại sứ thường trực Porter.
Dzu
nói rằng tinh thần chiến đấu yếu kém của binh lính trong Quân đội Việt Nam cộng
hoà là do sự thiếu tin cậy, và thiếu tôn trọng đối với ban lãnh đạo tối cao của
GVN. Mỗi cấp bậc - từ tiểu đội trưởng đến những sư đoàn trưởng và cao hơn nữa -
đều nhận thấy rằng thượng cấp của họ đều dính dáng đến những hành vi nhũng nhiễu
hoặc lôi kéo về mặt chính trị và lấy đó làm cái cớ để cho mình có những hành động
tương tự. Binh lính sẽ tiếp tục bị căm ghét vì những hành động trộm cắp và ngược
đãi đến khi nào có sự cải cách triệt để từ cấp cao nhất. Ông ta cho rằng những
việc làm phi pháp của sĩ quan và binh lính là sự phản ánh trực tiếp những cảm
nhận của họ rằng cuộc chiến kéo dài khiến họ cảm thấy mệt mỏi, và không thể
dành được chiến thắng với bộ máy nhà nước và những nhà lãnh đạo như hiện nay.
Tôi gạch chân điều đó trong bản báo cáo, để nhấn mạnh sự bức xúc của ông ta khi
nói tới điều đó một cách nghiêm túc, trong bóng tối bên chiếc bàn được thắp nến,
phía sau nhà ông ta. Ông ta nói tiếp sự tham nhũng và hối lộ sự phản ánh nỗi
tuyệt vọng. "Khi bạn nhận ra, từ bản chất của ban lãnh đạo của chúng ta, rằng
không còn hy vọng gì cho sự tiến bộ, bạn chẳng thể đạt được điều gì ở địa
phương, hay sư đoàn của mình, cả về mặt quân sự lẫn chính trị… bạn sẽ quay sang
làm những gì có thể để phục vụ cho lợi ích của chính gia đình mình".
Khoảng
một tuần sau, Đại tá Châu tới nhà tôi nói chuyện.
Lúc
đó tôi vừa trở về sau một chuyến khảo sát cuộc hành quân, trong lần đó tôi đã
phát hiện một đường hầm dài của Việt Cộng. Hiển nhiên, nó không hề bị bỏ hoang,
bởi lúc đó tôi phát hiện ra những chân nến cháy dở dính vào những vỏ đạn, trong
đó chất sáp vẫn còn lỏng và nóng. Tôi quyết định sẽ không tiến vào sâu hơn nữa.
Tôi đem các chân nến về, cùng với những mẩu giấy viết tay cạnh đó, mà sau này
khi chúng được dịch tôi mới biết đó là những lá thư tình. Tôi kể với Châu về cuộc
hành quân, và nói rằng tôi có thứ này muốn cho anh ta xem. Tôi lên phòng ngủ và
đem xuống một đôi dép Hồ Chí Minh tôi tìm thấy trong đường hầm, đó là một đôi
dép xăng đan làm bằng cao su đã qua lưu hoá với đế dép được cắt từ những lốp xe
tải phế thải, đó là đôi dép mà Việt Cộng và trước họ, những người Việt Minh
trong thời kỳ chống Pháp đã đi.
Đôi
mắt anh ta sáng lên, và đón lấy chúng từ tay tôi. Anh ta nâng niu chúng trong
tay và ngắm chúng rất lâu như thể anh ta đang bế trên tay một đứa trẻ. Gương mặt
anh ta trở nên dịu dàng khi nói và với một thanh âm mà tôi chưa từng nghe trước
đó. Đó là một cảm xúc rất riêng tư. Anh ta nói: "Tôi đã từng đi nó trong
suốt 4 năm", nghĩa là anh ta đã tham gia vào tổ chức Việt Minh vào cuối những
năm 40 trong cuộc chiến với Pháp. Anh ta ngừng lại một lúc thật lâu, tôi cũng
giữ im lặng. Anh ta nói: "Đó là những năm tháng đẹp nhất trong cuộc đời
tôi".
Một
lát sau, anh ta đặt đôi dép xuống và nói: "Anh biết không, có một điều mà
tôi luôn tự hỏi bản thân mình rằng: tôi nói tôi rời bỏ Việt Minh và tham gia phục
vụ đức vua Bảo Đại, sau là đến Tổng thống Diệm bởi vì Chủ nghĩa Cộng sản quá khắc
nghiệt, họ không tôn trọng tôn giáo cũng như những truyền thơng dân tộc của
chúng tôi, đường lối phát triển của họ quá cứng nhắc đối với chúng tôi, và
chúng tôi cần sự giúp đỡ của Phương Tây. Nhưng đó có phải là sự thật không? Hay
tôi đã theo phe khác chỉ vì tôi quá mệt mỏi khi phải sống dưới những đường hầm
và ở trong rừng, tôi muốn đi giày da và mặc một bộ quân phục đẹp và ngủ trên một
chiếc giường êm, trong một căn nhà? Tôi luôn tự hỏi mình điều đó".
Tôi
đợi anh ta nói tiếp, nhưng anh ta đã im lặng. Tôi hỏi: "Thế câu trả lời của
anh là gì?"
Anh
ta đáp: "Tôi không biết".
Tháng
hai, tôi quyết định thực hiện các chuyện thanh tra ở vùng châu thổ nơi tôi đã
phải hoãn lại từ tháng trước. Trước tiên, tôi tới thăm một số địa phương, nhưng
điều mà tôi thực sự mong đợi mục đích chính của chuyến đi, là được tham gia
cùng với một đơn vị thuộc một sư đoàn người Việt, theo các cố vấn Mỹ của sư
đoàn thì đơn vị này đang thực hiện một chiến dịch tuần tra vào ban đêm. Vì tôi
được biết rằng không một đơn vị nào khác thực hiện việc đó, dù lớn hay nhỏ, và
đó là sự thiếu sót tai hại đối với bất cứ triển vọng nào của chương trình bình
định.
Trong
bản báo cáo về nghiên cứu vai trò và nhiệm vụ chiến lược hồi tháng 6 vừa qua,
tôi có viết: "Một đòi hỏi đặc biệt khẩn cấp đối với các đợt tuần tra và phục
kích ban đêm - là phải xác định rõ nơi cuộc đụng độ có thể xảy ra theo báo cáo
của tình báo. Trừ khi các cuộc hành quân đêm của các lực lượng Quân đội Việt
Nam cộng hoà (RVANF) bắt đầu với mục đích làm cho Việt Cộng không được an toàn
khi di chuyển, hoặc tiến vào làng trong đêm, chứ dứt khoát là không thể cắt bỏ
được gốc rễ của họ đã ăn sâu trong lòng dân chúng để từ đó tiêu diệt những nhóm
quân du kích hoặc giảm bớt sự kiểm soát của họ".
"Họ
đã giành lại màn đêm từ tay Việt Cộng!" Đó là những gì người ta nói về sư
đoàn này. Tôi đã từng nghe điều này trước đó nhưng những người ở sở chỉ huy của
MACV nói rằng đây là điều có thực, đoàn cố vấn đề có mối quan hệ đáng kinh ngạc
đối với một sư đoàn trưởng nổi tiếng, và việc đó thực sự đang xảy ra.
Tôi
tin những người đang nói ra điều này và cách họ nói về nó.
Tôi
muốn được tận mắt trông thấy chứ không phải vì tôi có chút nghi ngờ mà vì tôi
muốn biết được điều kỳ diệu này đã xảy ra và được truyền bá như thế nào.
Chắc
chắn rằng, tại sở chỉ huy của sư đoàn, viên Đại tá, Trưởng đoàn cố vấn đề có một
biểu đồ lớn cho thấy số lượng của những đợt tuần tra đêm được thực hiện bởi mỗi
tuần một tiểu đoàn thuộc Sư đoàn trong suốt vài tháng qua. Số lượng thay đổi tuỳ
thuộc vào các tiểu đoàn khác nhau, và dao động hàng tuần, nhưng cũng có thể dễ
dàng nhận thấy xu hướng được tổng kết trên các đường cong của một biểu đồ khác.
Số lượng các đợt tuần tra, bắt đầu ở số 0 hoặc gần tới đó, đã đều đặn đạt tới
chỗ mà sư đoàn sắp kết thúc là hàng trăm đợt trong một tuần, hàng tá các đợt
trong một đêm. Trong 2 năm ở Việt Nam, tôi chưa từng gặp một điều tương tự như
thế. Viên Đại tá tự hào về điều này cũng là điều dễ hiểu. Tôi muốn nghe toàn bộ
câu chuyện về việc ông đã làm thế nào để có kết quả ấy nhưng tôi phải chờ đến
ngày hôm sau. Trời đang xế chiều, tôi muốn chắc chắn rằng mình có đủ thời gian
để xuống một tiểu đoàn để tham gia vào cuộc tuần tra đêm đó. Tôi xem lướt.qua tấm
bản đồ rộng, nơi các khu vực tuần tra được đánh dấu bằng bút chì cho các trung
đoàn và tiểu đoàn tôi chỉ ra một trung đoàn và nói ý định của mình với viên đại
tá Viên đại tá có vẻ rất ngạc nhiên với ý định của tôi, nhưng tôi đã giải thích
bằng cơ sở và những kinh nghiệm của mình ở Rạch Kiến. Ông ta thấy tôi đã rất sẵn
sàng với tất cả những trang bị cần thiết. Ông ta cũng biết cấp bậc của tôi, nên
không tranh luận nữa. Nhưng ông ta nói, không chắc về việc có thể sắp xếp với một
lời yêu cầu bất thình lình như thế. Tôi nói, sẽ tốt hơn nếu thực hiện việc đó một
cách không chính thức. Đây không phải là một cuộc thanh tra chính thức mà thật
ra chỉ muốn có một câu chuyện ấn tượng hơn nhiều để chọn ra một trong hàng tá
các đợt tuần tra đêm, tham gia cùng với họ, sau đó miêu tả lại sự khác nhau mà
nó đã tạo ra ở vùng nông thôn khi có một sư đoàn người Việt đang hoạt động vào
ban đêm. Tôi chưa từng nghe tới một đơn vị người Việt nào khác nơi bạn có thể
thực hiện việc này, vì thế chúng tôi có được câu chuyện này càng sớm càng tốt.
Ông
ta đã hiểu được vấn đề, nhưng ông nói rằng vào thời điểm này sẽ rất bất tiện
cho tôi khi tới thăm trung đoàn mà tôi đã chọn trên bản đồ. Ông ta không nói rõ
lý do. Có lẽ mọi thứ sẽ được tiến hành một cách tốt hơn nếu như hoãn lại tới
chuyến đi sau của tôi. Nhưng tôi không dám chắc khi nào mình có thể quay lại lần
nữa, tôi đã chờ đợi điều này từ rất lâu rồi, và cuối cùng cũng thành công. Tôi
thúc ép ông ta cho tôi tới thăm một trung đoàn khác và sau vài cuộc nói chuyện
trên điện đài, ông ta đưa tôi tới một trạm chỉ huy trung đoàn cách đây khoảng một
dặm.
Ở
đó, cố vấn trung đoàn cũng có thái độ ngập ngừng khi đưa tôi xuống tiểu đoàn.
Tôi hiểu sự dè dặt này của họ. Với tất cả những gì tôi đã nói chỉ là: đây không
phải là chuyện thanh tra chính thức, tôi là người của đại sứ quán, và không một
người chỉ huy hay cố vấn nào, sẽ cảm thấy hoàn toàn dễ chịu với một chuyến viếng
thăm không trong kế hoạch những hoạt động quân sự của một trong số các đơn vị
chiến đấu của họ mà không hề được báo trước. Ai có thể đoán trước được điều gì
sẽ xảy ra, hoặc đơn vị sẽ như thế nào trong đúng cái đêm đó, hoặc ai biết được
việc này thì sao? Thế nên tôi không hề ngạc nhiên khi lại được nghe nói rằng điều
này quâ bất ngờ, và rằng không biết có thể sắp xếp được không, nhưng tôi cũng
không dễ dàng bỏ cuộc. Tôi đe doạ ông ta nhưng không nhằm một ý đồ xấu nào; tôi
biết rằng tôi không nên ở đó để họ phải lúng túng. Tôi không quan tâm tới chất
lượng của các hoạt động. Điều mà tôi thật sự quan tâm là câu chuyện về họ, về
những binh lính người Việt đang tiến về phía vành đai của tiểu đoàn trong đêm tối.
Trên
thực tế, có một vấn đề trong chuyện này, cuối cùng tôi đã biết được ở bốt chỉ
huy tiểu đoàn mà tôi đã được đưa tới lần cuối và đến đúng lúc trời vừu sập tối.
Một thiếu tá người Mỹ, cố vấn cho một tiểu đoàn, đã chỉ cho tôi xem tấm bản đồ
có những tuyến đường tuần tra trong đêm. Khi biết tôi sẽ tham gia vào một trong
số đó, ông ta nói rằng không thể. Tôi hỏi tại sao, và lần này tôi nhận được câu
trả lời hết sức thẳng thắn. Các cuộc tuần tra trên bản đồ thật ra không hề có
thực. Không hề có một cuộc tuần tra ban đêm nào. Không chỉ ở trung đoàn đoàn
này mà còn ở tất cả các đơn vị khác thuộc sư đoàn, theo như viên thiếu tá biết
được.
Vậy
còn những thống kê và các khu vực tuần tra, các danh sách có trên tất cả các biểu
đồ ở sở chỉ huy trung và sư đoàn?
Bịa
đặt. Dưới áp lực của cố vấn sư đoàn và đối tác người Việt Nam của mình, mỗi tiểu
đoàn phải lập ra các kế hoạch tuần tra cho từng ngày và gửi các báo cáo và tính
toán lên trên, nhưng trên thực tế không có một đại đội người Việt nào cho quân
của mình đi tuần tra đêm trong khu vực hoạt động của Việt Cộng. Không rõ đã có
ai từng cố gắng khiến họ thử làm việc đó chưa?
Vị
đại tá của Sư đoàn đã có những con số để đưa lên biểu đồ. Hàng trăm cuộc tuần
tra trong một tuần. Nhưng không một cuộc nào thực sự diễn ra. Không phải 10,
50, mà là 0. Không có cuộc nào để tôi có thể đi cùng. Tôi cám ơn vị thiếu tá vì
sự ngay thẳng của ông, điều khá hiếm hoi ở những người có cùng địa vị của ông,
dẫu điều đó có thể khiến ông gặp rắc rối. Nhưng tôi cũng cảm thấy mình như một
kẻ ngốc. Họ lại lừa tôi. Tôi giống như Charlie Brown 11 lần đá vào khoảng
không. Tôi không thể tin được rằng mình lại có thể bị lừa một cách dễ dàng như
vậy.
Điều
gì đã khiến tôi xuống tới tận đây mà không một chút nghi ngờ cho đến khi tôi biết
được những thông tin tồi tệ từ viên thiếu tá ấy? Đó là cái cách mà người ta thường
nói: "Đây mới là sự thật, đây mới thật sự là điều đang xảy ra. Một khi nó
không phải là chuyện nhảm nhí, như thể họ đã biết tỏng rồi". Có lẽ họ
không biết, tôi không nghĩ rằng họ đã cố tình lừa tôi. Điều gì đã lừa dối họ.
Đó hẳn là nội dung chi tiết của bản báo cáo, nỗ lực đã được thể hiện trong đó.
Viên
đại tá có biết không? Tôi nhận ra rằng mình không quan tâm đến điều đó. Nếu là
một năm trước, tôi sẽ nghĩ đó là trách nhiệm của mình phải quay trở lại Sở chỉ
huy Sư đoàn để thông báo với ông ta - nếu như ông ta thực sự không biết - hoặc
để cảnh cáo ông ta, nhưng đó không phải là lý do làm tôi phải xuống đây lần
này. Tôi ngồi nói chuyện với viên thiếu tá một lát, rồi ngủ lại trên cái giường
mà ông ta chỉ cho tôi, và ngày hôm sau tôi lái xe quay về Sài Gòn.
Tôi
đã quá mệt mỏi với việc thu thập và báo cáo cùng một vấn đề hết lần này đến lần
khác ở 43 tỉnh khác nhau. Tôi mệt mỏi vì phải vạch trần sự dối trá của Quân đội
Việt Nam cộng hoà và chương trình bình định. Bây giờ tôi khá thoải mái trong việc
quyết định mình sẽ làm gì. Điều xuất hiện trong đầu tôi lúc này là mong muốn được
quay trở lại làm việc với đám lính Hoa Kỳ, quan sát, theo kiểu tôi đã làm ở Rạch
Kiến. Tôi có lý do chính đáng để làm điều đó; để đánh giá chiến dịch bình định
cho ngài phó đại sứ, tôi cần theo dõi khá nhiều các kiểu hành quân và các loại
đơn vị khác nhau của quân đội Mỹ. Tôi có thể bắt đầu tại Khu vực phi quân sự
(DMZ) ở phía bắc và sau đó sẽ đi suốt dọc dài miền Nam Việt Nam, quan sát hết
đơn vị này đến đơn vị khác.
Tôi
bắt đầu chương trình trong vòng khoảng một hoặc hai tuần vào một ngày bình thường
với một đơn vị của Quân đội Việt Nam cộng hoà ở phía Bắc gần khu phi quân sự. Một
vài ngày sau, khi đang làm việc ở phía nam tôi đã tới dự một chương trình nghe
có vẻ rất hay ở gần Đà Nẵng. Cố vấn là William Corson, một trung tá lính thuỷ
đánh bộ, người đã Phát minh ra cái gọi là CAPs, các trung đội hành động phối hợp.
Đó là các tiểu đội trong đó hai phần ba lính là người Việt Nam và một phần ba
là lính thuỷ đánh bộ người Mỹ. Tiểu đội trưởng là một người Việt Nam, và một tiểu
đội phó phụ trách nhóm lính thuỷ đánh bộ. Nhóm lính này được học đủ ngôn ngữ của
nhau nên có khả năng giao tiếp với nhau một cách cơ bản.
Nói
một cách dễ hiểu thì đó là điều mà Lyndon Johnson đã từng đề nghị theo cách kết
hợp các đơn vị người Việt và người Mỹ trở lại vào năm 1965. Giới lãnh đạo bên
quân đội lúc đó đã không đồng tình với điều này. Họ muốn các đơn vị của Mỹ có
thể hoạt động độc lập với các đơn vị của người Việt Nam, để tránh việc phải chi
quá nhiều viện trợ. Họ thừa nhận một điều rằng các đơn vị của Việt Nam đã bị
tình báo của Việt Cộng thâm nhập vào, và họ không muốn các đơn vị của Mỹ bị
chia nhỏ ra để trở thành điều mà người ta luôn nghĩ là sẽ đóng vai trò huấn luyện
chủ yếu.
Nhưng
ý tưởng của Corson, theo như những gì ông ta đã giải thích với tôi chiều hôm
đó, là cả hai bên sẽ cùng tạo ra được sức mạnh cần thiết. Phía Việt Nam rõ ràng
nắm rất rõ về con người và đặc điểm của các vùng lãnh thổ. Quân lính thuỷ đánh
bộ sẽ học tập từ họ và sẽ huấn luyện cho các đối tác của mình về các kỹ năng
chiến thuật qua những ví dụ. Sự có mặt của họ sẽ đảm bảo cho quân đội Việt Nam
hoả lực yểm trợ tốt, không quân và pháo binh, mà thuỷ quân lục chiến có thể điều
động từ các căn cứ của Mỹ. Quan trọng hơn cả, đó là nhờ có sự hiện diện của thuỷ
quân lục chiến, các cuộc tuần tra có thể được thực hiện vào ban đêm.
Thế
nên đêm hôm đó là lần đầu tiên tôi hành quân trong đêm cùng với đội quân người
Việt. Trong tiểu đội còn có 4 người Mỹ nữa, họ đi dọc theo những con mương dẫn
nước, dưới ánh trăng. Trong buổi giới thiệu vắn tắt tình báo của Quân đội Việt
Nam cộng hoà đã cho chúng tôi biết rằng có khoảng 500 Việt Cộng đang qua nơi
chúng tôi đang hành quân. Đây không phải là một thông tin ngẫu nhiên hay một
thông báo thông thường, do vậy chúng tôi phải hết sức cảnh giác.
Đôi
lúc, quá nửa đêm chúng tôi tạm dừng chân ở một cánh đồng để phục kích trong vài
giờ. Chúng tôi rời khỏi chỗ con mương, ngồi dưới nước nấp giữa những cây lúa.
(Các cánh đồng lúa ở Việt Nam được bón bằng phân bắc, nên khi tôi bị suy sụp vì
bệnh viêm gan một vài tuần sau đó, tôi đã nghĩ đến điều này).
Tôi
quan sát một hướng, còn một người lính Việt Nam đứng ngay sau lưng tôi, quan
sát một hướng khác. Chúng tôi cảm thấy tự tin vì nghĩ rằng người kia cũng sẽ thức
để cảnh giác và bảo vệ lẫn nhau, bảo vệ những người còn lại. Đó là một cảm giác
thật gần gũi. Một lát sau chúng tôi kiểm tra xung quanh cho nhau, khoảng cách
giữa những người Mỹ và người Việt Nam trở nên gần gũi hơn rất nhiều so với bình
thường. Ngay trước khi trời sáng chúng tôi đã trở về doanh trại.
Chúng
tôi không gặp phải cuộc đụng độ nào, bản báo cáo về hoạt động của Việt Cộng có
vẻ như không chính xác. Nhưng một trung đội hành động phối hợp khác cũng hành
quân trong đêm đó đã bị rơi vào ổ mai phục khi đi qua một ngôi làng nhỏ. Tôi tới
nói chuyện với viên tiểu đội trưởng người Việt Nam, một trong số những người bị
thương. Anh ta nằm trên một chiếc giường bạt, bị băng bó khá nặng, nhưng vẫn có
thể nói chuyện.
Tôi
khá ấn tượng với mối quan hệ giữa lính Mỹ và lính Việt đêm hôm đó; lý luận của
Corson, theo tôi, có vẻ khá hiệu quả.
Nhưng
người đội trưởng này lại có một câu chuyện hoàn toàn khác Anh ta nói tiếng Việt
thông qua một người phiên dịch, nhưng có thể dễ dàng nhận thấy sự cay đắng
trong giọng. Anh ta nói, người Mỹ thực sự không hề quan tâm đến ý kiến của người
Việt. Rõ ràng người Mỹ mới là người chỉ huy cuộc hành quân.
Khi
viên tiểu đội trưởng cố gắng thông báo một điều gì đó với một lính thuỷ đánh bộ,
người lính này cũng chẳng hề quan tâm.
Tôi
hỏi anh ta qua người phiên dịch: "Anh định nói gì với anh ta?". Tiểu
đội trưởng chống khuỷu tay cố nhỏm dậy và nói mấy câu với tôi. Tôi không thể hiểu
chúng, dù nghe không hề giống tiếng Việt. Tôi đề nghị anh ta nhắc lại, và anh
ta đã nhắc lại chậm rãi và rõ ràng, nhưng tôi vẫn không thể hiểu được. Tôi hỏi
người phiên dịch: "Anh ta đang nói tiếng gì vậy?
Người
phiên dịch trả lời: "Tiếng Anh".
Tôi
hỏi người phiên dịch có hiểu anh ta nói gì không, người phiên dịch trả lời là
không. Tôi bảo phiên dịch hỏi lại xem anh ta vừa nói gì bằng tiếng Việt và sau
đó nói lại với tôi.
Họ
trao đổi với nhau vài câu bằng tiếng Việt. Người phiên dịch, với vốn tiếng Anh
khá tốt, dịch lại cho tôi: "Chúng ta đang đi vào ổ mai phục".
Tôi
nói, "Hừm," và hỏi viên tiểu đội trưởng tại sao anh ta lại biết điều
đó. Anh ta trả lời, thông qua phiên dịch, rằng khi họ tới một ngôi làng,
"không có tiếng chó sủa, và cũng chẳng có ánh đèn". Anh ta giải
thích, vào thời điểm đó của đêm, thường họ phải nhìn thấy vài ánh đèn, hoặc ánh
lửa trong các túp lều xuyên qua cửa chính hoặc cửa sổ, và vài con chó xồ ra đuổi
và sủa ầm ĩ. Sự im lặng và bóng tối cho thấy các cửa chính và cửa sổ đều đóng,
và có ai đó đã nhốt và bịt mõm lũ chó. Việt Cộng đang chờ họ. Nhưng khi anh ta
cố gắng nói với viên trung sĩ người Mỹ rằng có mai phục ở phía trước thì viên
trung sĩ lại lờ đi và tiếp tục tiến lên phía trước như thể người đội trưởng
chưa từng nói gì. Thái độ của người Mỹ luôn như vậy, anh ta nói. Thế nên khi bị
bắn, họ bị thương mất 3 người, và cũng thật may mắn là còn cơ hội chạy thoát.
Tôi
nói với người phiên dịch, và sau đó là với Corson, rằng tôi đã biết được vấn đề
thực ở đây là gì. Vấn đề dạy ngoại ngữ cần thực hiện và cần tập trung hơn nữa.
Có một số cụm từ cụ thể họ nên nắm được một cách chắc chắn, và người phiên dịch
sẽ giúp kiểm tra xem họ có hiểu không. "Chúng ta đang bị mai phục" là
một trong số cụm từ đó. Điều đặc biệt quan trọng là binh lính người Việt có thể
nói câu đó bằng một giọng Mỹ, vì người Mỹ đã quen với cách nói như vậy. Trên thực
tế, sự việc này đã chứng minh cho điểm mạnh trong ý tưởng của Corson, của những
người Mỹ đang làm việc cùng với người Việt, nếu họ có thể giải quyết tốt vấn đề
giao tiếp. Đây là một trường hợp hiếm thấy khi tôi có thể ca ngợi một kế hoạch
nào, khi trở về MACV, mặc dù họ có vẻ không tha thiết nghe lắm. Họ vẫn không muốn
quan tâm đến việc lãng phí khi để binh lính Mỹ cộng tác với binh lính người Việt
Nam.
Trong
vòng vài tuần kể từ khi đi tuần tra vào ban đêm, tôi bắt đầu suy sụp vì bệnh
viêm gan. Bệnh phát trong thời gian tôi đi nghỉ ở Pattaya, một bãi biển ở Thái
Lan tôi đã tới để thăm Patricia vào năm ngoái. Tôi nằm dưỡng bệnh trong một nhà
điều dưỡng ở Bangkok trong vòng một tháng, cho tới khi tôi có thể tự bay về Sài
Gòn, để tiếp tục nằm bẹp thêm một tháng nữa. Cùng lúc đó, kế hoạch bình định
đang được tái lập, dưới sự điều khiển của MACV và Westmoreland, nhưng đứng đầu
là Bob Korme, người của NSC, không thuộc giới quân sự. Nếu tôi tiếp tục làm việc
ở đây, tôi sẽ làm phó hoặc làm trợ lý cho Kormer, một người bạn cũ của tôi từ
những ngày còn ở Rand và Washington. Nhưng vì cần phải tĩnh dưỡng để hồi phục
nên tôi đã không thể tham gia được ít nhất trong vòng 6 tháng. Trong hoàn cảnh
đó, tôi quyết định trở về Mỹ. Harry Rowen đã trở thành chủ tịch của Công ty
Rand, và ông ta rất muốn tôi quay trở lại.
Nằm
ngửa trên giường với chiếc máy tính trên bụng, tôi giành thời gian để viết một
bản ghi nhớ dài tóm tắt lại những kết luận mà tôi đã rút ra cho câu hỏi tại sao
chúng ta lại lâm vào tình trạng không lối thoát như hiện nay và làm thế nào
chúng ta có thể hình dung ra cách để làm mọi thứ tốt hơn. Đây là những việc giành
cho Hội đồng đặc nhiệm của các đồng nghiệp dân sự và quân sự của tôi ở Sài Gòn,
thế nên tôi đã không nêu ra gợi ý cho rằng chúng tôi phải tìm cách thoát ra khỏi
tình trạng này, điều mà cá nhân tôi luôn quan tâm tới trong suốt một năm qua.
Tôi dành lời khuyên đó cho Washington khi tôi về nước. Những người ở đây không
thể quyết định được việc đó, thậm chí cũng không để đưa ra gợi ý một cách có hiệu
quả. Họ được cử đi để dốc hết sức mình, làm đến hết mức có thể, cho nên tôi chỉ
tập trung vào các biện pháp làm thế nào thực hiện mọi công việc tốt hơn những
gì chúng tôi đang làm, để giảm thiểu mọi sự cản trở, để có thể phát triển hơn,
mà không cần tạo thêm những việc mới trên con đường thoát ra khỏi khó khăn.
Một
bản ghi nhớ dài đề đạt xem xét lại những quyền ưu tiên và những nỗ lực cho toàn
bộ kế hoạch bình định năm 1967.
Nhưng
nỗ lực chủ yếu của tôi là bản tài liệu 38 trang kín chữ về sự giúp đỡ của Mỹ
trong các kỳ bầu cử sắp tới ở Việt Nam và tại sao chính phủ của chúng ta nên
thay đổi quan điểm từ việc ủng hộ các ứng cử viên quân sự như Kỳ hoặc Nguyễn
Văn Thiệu tới khích lệ, hoặc đơn giản là cho thừa nhận việc thay thế họ bằng những
nhà lãnh đạo dân sự đáng được tôn trọng. Theo như một nhà báo khá nổi tiếng của
Việt Nam, Tôn Thất Thiên, đã nói với tôi rằng ban lãnh đạo của một đất nước cần
phải được tôn trọng, và có một chính phủ được tôn trọng thì nó chắc chắn phải
nghiêm túc". Tướng Kỳ thuộc lực lượng không quân, hiện đang làm việc trên
cương vị là thủ tướng (được sự ủng hộ của các tướng lĩnh khác và người Mỹ),
cũng khó có thể tiến xa hơn nếu phải đáp ứng các tiêu chí đó. Người Việt Nam
đánh giá ông ta là một kẻ thiếu chín chắn, thiếu tinh thần dân tộc, một kẻ ăn
chơi, trác táng, trình độ hạn hẹp, vụng về, hấp tấp, chỉ thỉnh thoảng mới tỏ ra
nghiêm túc, và khoa trương (thường xuyên tới thăm những vùng nông thôn với bộ
vét nylông bóng bảy, chiếc khăn quấn cổ tẩm nước hoa oải hương và một khẩu súng
lục có báng súng nạm ngọc trai, trên đó khắc tên cô tình nhân của ông ta. Mà
đây là một nền văn hoá chịu ảnh hưởng của Nho giáo cho nên tuổi tác, phẩm cách,
sự trưởng thành, học vấn, đạo đức được đánh giá rất cao. Theo như Thiên nói, đối
với nước Mỹ việc thiên vị hay ủng hộ cho Kỳ - tại thời điểm tôi viết về những
việc này, là sự lựa chọn duy nhất cho vị trí Tổng thống - như là một kẻ lãnh đạo
bù nhìn, bị đánh giá là một sự sỉ nhục, một sự khinh bỉ, bởi chính bản thân ông
ta và một số đông người Việt Nam.
Nhưng
cá tính và vẻ bề ngoài của Kỳ ít ra còn vớt vát lại cho ông ta phần nào. Kỳ là
người miền Bắc, một quân nhân, đã từng là một sĩ quan của Pháp ít chống đối, và
luôn tin rằng mình nợ người Mỹ để có được vị trí này. Nhìn chung, tôi cho rằng:
"Sẽ là một sự rèn luyện thử thách khi tưởng tượng làm thế nào một người có
thể thay đổi hoặc bổ sung thêm một loạt những tiêu chuẩn này để tạo ra một kẻ
ít được chấp nhận hơn và xa lạ hơn trong vai trò của người lãnh đạo dân tộc ở
Việt Nam".
Còn
về phần tướng Thiệu, đối thủ chính về phía quân sự của Kỳ trong việc tranh cử,
quyền hạn của ông ta chỉ kém Kỳ một chút. Ông ta không phải là người miền Bắc,
mà là người miền Trung, không phải là người miền Nam, và ông ta thêm vào lý lịch
của mình rằng ông là người theo đạo Thiên Chúa. Theo như tôi biết, ông ta có đạo
đức, chín chắn, giàu kinh nghiệm và khôn ngoan hơn Kỳ, nhưng vì một số lý do,
những phẩm chất này cũng không làm ông ta tự tin hơn khi đứng trước công chúng.
"Kỳ không có được niềm tin và sự tôn trọng của người Việt Nam vì ông ta
quá khác lạ so với những tập tục và văn hoá của người Việt, Thiệu không giành
được lòng tin của họ vì ông ta đơn giản bị coi là người không đáng tin cậy: bí ẩn,
quỷ quyệt, "quá thông minh", một sức mạnh khá ấn tượng được tạo ra bởi
vai trò của ông ta trong các cuộc đảo chính nhằm hất cẳng những người tiền nhiệm.
"Với những điều đã nói ở trên, như chính ông ta thừa nhận, Thiệu và Kỳ
cùng có một trở ngại chính trị chung đó là cả hai đều trong lĩnh vực quân sự,
vì ông ta được chỉ định phải có báo cáo cách đây vài tuần, người Việt Nam rất
khó chịu với những kỷ luật quân đội". Tôi trích dẫn ở đây một câu nói của
thành viên trẻ trong Hội đồng Lập hiến: "Hãy cho chúng tôi bất cứ ai. Già
hay trẻ, tôi không quan tâm, miền Bắc, miền Trung hay miền Nam, miễn là anh ta
không thuộc lĩnh vực quân sự".
Ba
mươi trang kín chữ tiếp theo tập trung vào vấn đề chi tiết tại sao không có bất
cứ một triển vọng thực sự nào cho tiến trình hoạt động kéo dài ở miền Nam Việt
Nam, kể cả là dân sự hay quân sự mà lại không có sự thay đổi mạnh mẽ trong bản
chất của chính quyền từ cấp cao nhất. Kỳ tổng tuyển cử sắp tới sẽ là cơ hội tốt
nhất kể từ nhiều năm nay để thực hiện việc này một cách yên ổn, nếu như các tướng
lĩnh được Mỹ bật đèn xanh của sự cho phép một cuộc tổng tuyển cử diễn ra một
cách trung thực không cần bảo đảm cho chiến thắng của một ai trong số họ bằng
các hành động lôi kéo hay ép buộc.
Trong
số những người Việt Nam được tôi giấu tên, nêu ra trong bản báo cáo thì Trần Ngọc
Châu có tác động lớn đến những suy nghĩ của tôi, một phần vì ông ta giới thiệu
tôi với những người khác. Tôi đã đưa bản báo cáo của mình cho ông ta xem qua. Một
tuần sau ông ta nói đã đưa nó cho Thiệu, một người bạn lâu năm của ông ta. Tôi
đang nằm im trên giường, không định dậy làm gì. Nhưng điều đó đã dựng tôi bật dậy
khỏi giường. Tôi nói: "Cái gì? Làm sao ông có thể làm thế?"
Châu
nói: "Ông ta rất thích bản báo cáo của anh. Tôi chắc chắn như thế. Ông ta
đọc từng từ một. Ông ta nói ông ta chưa từng gặp một người Mỹ nào ở Việt Nam lại
có thể hiểu rõ tính cách của người Việt Nam như anh".
"Nhưng
Chúa ơi, Châu, còn những điều tôi đã viết về ông ta thì sao?"
Châu
nói: "Ồ, không vấn đề gì. Ông ta rất vui với những gì anh đã viết về Kỳ và
không buồn quan tâm tới những điều anh đã viết về ông ấy".
Buổi
sáng mà Kormer sẽ đến, tôi tới đại sứ quán để đón ông ta. Tôi vừa hồi phục được
mấy ngày sau 2 tháng dưỡng bệnh trên giường. Khi máy bay hạ cánh xuống sân bay
Tân Sơn Nhất, tôi đang ngồi trong phòng làm việc của ông ta, nói chuyện với các
nhân viên, chúng tôi đã nghe trên đài phát thanh cuộc họp báo của ông ta ngay
sau khi bước xuống máy bay.
Ông
ta tỏ ra rất quyết đoán về tình hình ở Việt Nam và về kế hoạch bình định đã
theo dõi ở Washington và tỏ rõ mong muốn được tiếp tục công việc đó cho tới thắng
lợi. Đó là cách mà McNamara, Lyndon Jhonson và Westmoreland vẫn thường nói,
nhưng kiểu nói hoa mỹ này không phải là phong cách của Korner. Tôi đã biết được
những điều này từ các bài trên báo rằng Korner là một người rất năng nổ và luôn
đối chọi với đám phóng viên, biết cách đập tan mọi sự nghi ngờ, nhưng tôi chưa
từng nghe nói về thái độ ứng xử của ông ta trước công chúng bao giờ. Điều đó
làm tôi lo lắng. Korner hình như rất tin rằng ông ta đang nói lên sự thật. Rất
dễ để biết được rằng lúc nào ông ta đã về đến đại sứ quán; bạn có thể nghe thấy
tiếng chào sang sảng từ tầng dưới.
Ông
ta nổi tiếng vì tính hăng hái, hoàn thành tốt mọi công việc, và rất thích biệt
danh Blowtorch của mình. Tôi có thể nhận ra tiếng chân của ông ta khi ông đi
lên cầu thang, xông vào phòng làm việc phía bên ngoài của mình. Ông bắt tay và
phát vào lưng mọi người trong phòng. Ông ta giống y như khi trên đài phát
thanh, sôi động và lạc quan. Ông ta như một cơn lốc, làm căn phòng tràn ngập
sinh khí và sự hăng hái. Tôi nói với ông rằng tôi tới chào và cũng để tạm biệt
ông, ông ta gật đầu và nói: "Vào đi, Dan, rồi bước vào căn phòng bên cạnh
và đóng cánh cửa phía sau chúng tôi lại. Ông ta ngồi xuống bàn và ngả người xuống
ghế và cười rất thoải mái.
Tôi
nói: "Bob, ông có tin vào những điều ông vừa nói ở sân bay không?"
Ông
chống khuỷu tay xuống bàn và rướn người về phía trước, hai tay ôm đầu. Ông cúi
mặt xuống bàn và nhắm mắt lại.
Trông
ông có vẻ mệt mỏi. Ông nói nhẹ nhàng: "Dan, anh có nghĩ rằng tôi bị điên
không?"
Im
lặng một lúc, tôi hỏi: "Bch, sao ông lại nhận công việc này?"
Ông
ta nhổm dậy và nói: "Đó cũng là điều mà vợ tôi hỏi tôi. Cô ấy cứ hỏi đi hỏi
lại rằng: "Sao anh cứ phải tới đó? Sao anh không từ chối đi? Rời khỏi
chính phủ nếu anh bắt buộc phải thế". Tôi phải nói đi nói lại với cô ấy rằng:
"Khi Tổng thống Mỹ nói với anh rằng ông ấy muốn anh phải làm một điều gì
đó, anh không thể nói không với ông ta. Khi ông ấy nói rằng anh là người mà ông
ta muốn phải thực hiện việc đó, anh phải làm, dù điều đó vô vọng đến đâu đi
chăng nữa".
Một
vài ngày sau, tôi rời khỏi Việt Nam.
Chương
13. Cái
nhìn lệch lạc
Sau
chuyến đi đến Việt Nam, tôi đã quyết định trở về Rand chứ không về Lầu Năm Góc.
Một lý do chính là tôi muốn lại được tự do để nói về những gì tôi biết và những
gì tôi tin về chính sách về Việt Nam của chúng ta với những quan chức của các
cơ quan chính phủ đang công tác ở nước ngoài mà không phải lo lắng rằng mình đã
làm trái với cương vị của một cấp trên hay một tổ chức nào đó. Tôi đã muốn làm
điều đó ở Việt Nam, dưới sự giám sát lỏng lẻo của Lansdale và Porter, hơn là dưới
sự giám sát của McNaughton ở Bộ Quốc phòng, nơi mà tôi phải thận trọng giấu những
suy nghĩ của mình, cũng như John, khi chúng khác biệt với ý kiến của McNamara.
Sau 3 năm quan sát và học hỏi nhiều điều, tôi tin rằng những điều tôi biết về
tình hình ở Việt Nam chỉ có giá trị qua lời nói của tôi, vì tôi đã từng làm các
công việc kiểm soát, chỉ huy và xây dựng kế hoạch hạt nhân ở Rand. Rand thực sự
là một cơ quan hoàn hảo để làm điều đó Đó chưa phải là tất cả số người tôi muốn
nói cho họ hiểu.
Vẫn
còn những người đang gánh trách nhiệm trong việc hoạch định hoặc cố vấn về
chính sách an ninh quốc gia nữa. Với tư cách là một chuyên gia phân tích của
Rand tôi có thể vào rất nhiều phòng ban như một cố vấn và nói những gì mà tôi
nghĩ theo cái cách mà có thể tôi chưa từng làm với tư cách là một đại diện
chính thức của chính phủ hoặc của một cơ quan đặc biệt với quan điểm chính thức;
với cấp trên tôi có thể bị mất mặt vì cách ăn nói bừa bãi này.
Trong
một tuần tôi dành thời gian để chuyển công việc của mình khỏi Bộ Ngoại giao, ở
Washington, tôi gặp gỡ rất nhiều người để nhấn mạnh quan điểm của mình về vai
trò của chúng ta tại Việt Nam và những gì mà chúng ta nên làm. Tôi đã nói chuyện
với McNamara một tiếng đồng hồ tại văn phòng của ông ta tại Lầu Năm Góc. Trước
khi kết thúc tôi đưa ông ta một bản báo cáo ngắn gọn chỉ trích việc Mỹ đang ủng
hộ Thiệu và Kỳ trong cuộc bầu cử tại Việt Nam và cần phải tạo cơ hội cho một ứng
cử viên dân sự, người có mong muốn tìm kiếm hoà bình bằng cách thoả thuận với Mặt
trận dân tộc giải phóng, ông ta đọc nó ngay trước mặt tôi.
McNamara
nói rằng về cơ bản ông ta đồng ý với tôi nhưng chính sách chính trị như thế này
thuộc về thẩm quyền của Rusk và ông ta không đảm nhận việc này. Ông ta nói ông
ta đang tập trung vào một vấn đề khác. Qua các báo tôi biết được rằng Thượng
nghị sỹ John Stennis đang dự định có một bài phát biểu trước công chúng để tạo
cho Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân một tiền đề có thể mở rộng quy mô chiến
tranh và loại bỏ những cản trở các mục tiêu và quy mô của việc ném bom miền Bắc.
Tôi hỏi: "Đánh bom ở mức tối đa ư?", ông ta gật đầu. Tôi nói không gì
có thể quan trọng hơn điều đó và tôi chúc ông ta thành công trước khi ra về.
Vào
thời điểm đó, tôi không biết rằng 2 tháng trước đó Robert McNamara đã xúc tiến
việc đàm phán về kế hoạch rút quân chiến lược. Bản thảo báo cáo trình Tổng thống
của ông ta được đánh dấu "Tối mật", và mặc dù vậy, vẫn đến tai của Hội
đồng Tham mưu trưởng liên quân; nó tạo nên một cơn bão chống đối kịch liệt cho
rằng điều đó đánh dấu thời điểm bắt đầu của sự mất uy tín của ông ta đối với Tổng
thống cũng như chức vụ của ông ta. Tôi không quan tâm đến việc liệu quan điểm của
chúng tôi đồng nhất đến mức nào trong suốt cuộc gặp gỡ của chúng tôi, nhưng tôi
cũng không lấy gì làm ngạc nhiên về điều đó.
Một
ngày trước khi tôi có một cuộc nói chuyện với Chet Cooper, một sĩ quan tình báo
của CIA lại trụ sở Hội đồng An ninh quốc gia (NSC), người đang là phụ tá cho đại
sứ Averell Harriman về vấn đề nhân sự trong NSC. Cooper đã từng vài lần thử
thương lượng với miền Bắc Việt Nam, và sau này Harriman đã được chọn là người
đàm phán của Mỹ tại hội nghị Paris. Tôi đã thẳng thắn bày tỏ quan điểm của mình
và Cooper thúc giục tôi nói chuyện với Harriman vào ngày hôm sau. Điều đó dường
như càng khẳng định dự đoán của tôi rằng Harriman, cũng giống như Cooper, chỉ
là bước trung gian để tôi bày tỏ quan điểm của mình. Cuối cùng tôi đề xuất một
cuộc đàm phán và nó giống như dàn xếp tạm thời ở Lào vào năm 1962, và Harriman
chính là người đã chỉ cho Kennedy thấy sự dàn xếp đó và cũng là người tán thành
việc liên kết chống lại Bộ Quốc phòng và những kẻ hoài nghi trong CIA. Vì vậy,
tôi đã thẳng thắn nói với Harriman giống như nói với Cooper.
Có
thể là đã quá thẳng thắn. Kai Bird, người viết tiểu sử của anh em nhà Bundy,
tình cờ bắt gặp phản ứng của Harriman đối với cuộc gặp gỡ của chúng tôi trong
những tài liệu riêng của ông, trong một trích đoạn thuật lại cuộc đối thoại qua
điện thoại giữa Harriman và Cooper vào ngày 27 tháng bảy: "Harriman: Tôi
đã gặp người mà anh muốn tôi gặp. Tôi chẳng có ấn tượng gì với anh ta. Anh ta
đã có một cái nhìn hằn học. Với anh ta mọi chuyện đều đen tối, chẳng có chuyện
gì là sáng sủa cả. Tôi nghĩ là tôi đã đoán ra những suy nghĩ trong thâm tâm anh
ta và nó đã đưa anh ta đi quá xa, loanh quanh sang một hướng khác. Tôi không
nghĩ là anh ta cũng nói với nhiều người tất cả sự thật. Anh ta đã đi quá xa đến
nỗi đã lạc hướng cũng giống như một vài người bạn của chúng ta đã chệch ra khỏi
những định hướng khác. Anh phải biết cân bằng một số mặt. Anh ta bị viêm gan
nên tôi nghĩ nó đã ảnh hưởng tới thái độ của anh ta".
Harriman
nhầm khi nghĩ là tôi không nói thật với những người muốn nghe tôi như tôi nói với
ông ta. Nhưng ông ta không phải là người duy nhất coi những đánh giá của tôi là
lệch lạc, liệu có phải chính họ đã khiến tôi khăng khăng với quan điểm của
mình. Một hay hai ngày sau đó, tôi trao đổi mối quan tâm của tôi với Murray
Gell-Mann, người mà sau này giành giải Nobel vật lý và một vài người bạn đồng
nghiệp của ông ta đang là cố vấn cho Bộ Quốc phòng. Tôi đã bị George Carver
theo dõi, người đứng đầu của Lực lượng Đặc nhiệm Việt Nam trong CIA, người mà
năm ngoái đã tán đồng ý kiến của Walt Rostow. Ngồi cùng tôi trong phòng nhỏ của
E-ring tại Lầu Năm Góc, sau khi nghe nhận xét của tôi, ông ta bắt đầu nói một cách
thận trọng: "Tôi không biết người của chúng ta (CIA) trên chiến trường có
hút thuốc hay không, nhưng họ đang gặp phải một vấn đề khác từ những lời kể của
Dan?". Ông ta xem xét tỉ mỉ những dấu hiệu đáng khích lệ của MACV trong những
bước phát triển mới nhất. "Việt Cộng đang rất khó khăn thiếu thốn, họ đang
cạn kiệt nhân lực, chúng tuyển cả những người 14 tuổi…"
Tôi
thực sự khó chịu khi nghe thấy ông ta nói vậy. Gell-Mann quay lại và hỏi tôi có
ý kiến gì không sau khi Carver nói xong. Tôi lướt qua bản báo cáo và chỉ ra rằng
mỗi tin tức tốt lành đó trước đây cũng đã làm người Pháp lạc quan. Họ đã đánh lại
người Mỹ và những đồng minh của chúng ta với những người 14 tuổi từ khi chúng
ta đặt chân đến đó". Tôi đã phát điên lên. Có thể đó là cách sống của tôi.
Tôi nói: "Tôi không biết người của các anh có hút thuốc trên chiến trường
hay không, nhưng tôi biết những chuyện nhảm nhí như thế này đã làm Washington
trì trệ trong suốt 20 năm qua".
Dường
như xấu hổ, các nhà khoa học đứng dậy để đi dự một cuộc họp khác.
Tại
Bộ Ngoại giao, Bill Bundy, người phụ trách vùng Viễn Đông, có vẻ đồng ý với
quan điểm của tôi về triển vọng của chúng ta tại Việt Nam. Lúc đó đã là cuối
ngày, và ông ta đã rất thiện chí nhưng vẫn tỏ ra mệt mỏi. Về lời đề xuất của
tôi sử dụng cuộc bầu cử ở Việt Nam lúc đó đang diễn ra như là một cách để rút
lui an toàn ông nói rằng đã quá muộn để thay đổi chính sách của chúng ta về Việt
Nam. Để rút ra khỏi cuộc chiến nói chung, ông nói: "Tôi không nghĩ là
chúng ta có thể có một động thái nào cho tới khi cuộc bỏ phiếu kết thúc".
Ông không nói về cuộc bần cử ở Việt Nam mà ở Mỹ, vào năm 1968.
"Nhưng
còn những một năm nữa", tôi nói.
Ông
thở dài và lắc đầu buồn bã. "Tôi biết, nhưng tôi không nghĩ là Hà Nội sẽ
có phản ứng gì nghiêm trọng về cuộc đàm phán cho tới khi họ biết họ đang đàm
phán với ai sau tháng mười một tới đây. Chúng tôi đều biết, mà tôi không phải
nói ra, rằng Hà Nội sẽ nhanh chóng phản ứng nếu chúng ta bắt đầu tuyên bố về sự
rút khỏi Nam Việt Nam chứ không phải họ từ bỏ nó hay về chuyện chia sẻ quyền lực
ở Sài Gòn.
Tôi
đảm bảo (có thể là sai lầm) rằng những gì ông ta nói về sự cân nhắc về Việt Nam
như việc làm chậm lại những tiến trình ở Việt Nam chỉ là một cách nói hàm ý rằng
Johnson không định để mất Việt Nam trước khi ông ta được bầu lại làm Tổng thống.
Một trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao không thể nói ra trực tiếp, công khai như thế,
kể cả lúc riêng tư. Trong âm điệu của giọng nói, tôi còn nghe được ông ta nói rằng
sẽ không cố gắng ngăn cản điều đó, nó không đáng để ông ta phải như vậy. Tôi có
thể hiểu được điều đó, kể từ khi ông ta đã đứng về phía Lyndon Johnson. Điều
làm tôi khó chịu, dúng ra là bị sốc, là làm sao ông ta có vẻ bình thản như vậy
trước dự báo đó, làm sao ông ta có thể dễ dàng cam chịu viễn cảnh một năm chiến
tranh nữa, kèm theo nó là hiểm hoạ, chắc chắn là như vậy, và nếu chiến tranh tiếp
tục kéo dài, có thể nó sẽ còn lan rộng hơn.
Tôi
nghĩ tôi có thể đã mong chờ một phản ứng rất khác từ Walt Rostow. Trước đây, là
người đứng đầu bộ phận hoạch định chính sách của Bộ Ngoại giao, giờ đây ông ta
làm việc trong Nhà Trắng, là người kế nhiệm của McGeorge Bundy làm Cố vấn An
ninh quốc gia cho Tổng thống. Tôi gặp Rostow lần cuối cùng ngay trước khi tôi rời
khỏi Việt Nam vào tháng tám năm 1965.
Kế
hoạch đánh bom miền Bắc mà ông ta đã đề nghị từ 4 năm trước, giờ đã được thi
hành từ tháng ba, và thêm 100.000 quân Mỹ nữa được đưa sang Việt Nam, lần bổ
sung đầu tiên của lời cam kết đưa quân sang không giới hạn, ngay khi ông ta vừa
mới rời miền Nam Việt Nam. Rostow đã sẵn sàng để đón mừng sự đầu hàng của Mặt
trận Dân tộc Giải phóng. Sau đó ông ta đã nói với tôi: "Dan, mọi chuyện đều
có vẻ tốt đẹp. Cái mà chúng ta nghe được là Việt Cộng đã tan tác dưới các trận
đánh bom. Chúng sẽ suy sụp trong hàng tuần liền. Không phải hàng tháng, chỉ
hàng tuần thôi".
Hai
năm sau tôi không có ý định nhắc lại cho ông ta việc này, nhưng những người
khác nói với tôi rằng suy nghĩ của ông ta vẫn không thay đổi. Tôi đã quyết định
không tranh luận về hoà hoãn hay về những tiến bộ trên chiến trường với ông ta
nữa.
Từ
những gì mà tôi đã nghe được, ông ta đã chai sạn với tin xấu, hay đúng hơn, là
cố giữ vững tinh thần trước bất kỳ một tin tức nào. Tôi cũng không lo ngại khi
mang theo người những bản báo cáo tình hình các địa phương gần đây nhất của
mình.
Tôi
rất ít khi bước vào trong văn phòng của Rostow ở Cánh Tây trước khi ông ta muốn
chia sẻ với tôi niềm tin về sự tiến triển của tình hình mà ông đã báo cáo với Tổng
thống về đàm phán và tình hình chiến sự trên chiến trường. Ông ta nói rõ ràng
là cuối cùng chúng ta đã vượt qua được giai đoạn khó khăn.
"Phía
bên kia đã gần như sụp đổ. Theo tôi, chiến thắng đã gần kề". Tôi nói rằng
tôi rất muốn nói chuyện với ông ta về tình hình chính trị. Ông ta trả lời:
"Nhưng, Dan này, anh phải xem những biểu đồ thống kê mới nhất. Tôi có
chúng ở ngay đây thôi. Biểu đồ đều thể hiện rất tốt, Dan. Chiến thắng đã gần kề
rồi".
Mặc
dù tỏ ra lịch sự, ngay cả để nghe những vấn đề khác, tôi cũng không thể ngồi đó
thêm được. Tôi nói: "Walt, tôi không muốn xem những biểu đồ đó của ông.
Tôi vừa trở về từ Việt Nam. Chiến thắng không hề gần kề. Chiến thắng sẽ không
diễn ra đâu".
Tôi
không nhớ cuộc nói chuyện sau đó diễn ra như thế nào. Tôi đã không kéo dài cuộc
tranh luận, ông ta cũng không đuổi tôi ra khỏi cửa, và tôi cũng không có ý định
xem biểu đồ, nhưng tình trạng đó không kéo dài lâu. Mặc dù thế, nó kết thúc
không đột ngột bằng cuộc gặp của John Vann với Wall một năm sau đó, sau cuộc tiến
công Tết Mậu Thân. Vann đã được sắp xếp một buổi gặp với Tổng thống, nhưng
Rostow được yêu cầu nói chuyện trước với ông ta. Lúc đầu John thể hiện cái nhìn
lạc quan của mình hơn tất thảy mọi người, trong đó có cả tôi, nhưng ông ta
không nói về chiến thắng, ông ta nói về khả năng để tránh khỏi thất bại của
chúng ta. Ông ta nói với tôi rằng Rostow ngay lập tức bắt đầu tỏ ra bồn chồn.
Cuối cùng Walt nói: "Nghe này, tôi nghĩ là cuộc chiến này sẽ kết thúc vào
cuối năm nay".
Cảm
thấy thật xấc xược, John nói với một gương mặt rất lạ: "À, không, tôi nghĩ
chúng ta có thể kéo dài lâu hơn thế nữa".
Rostow
nhìn ông ta và đi ra khỏi phòng. Vann đợi ông quay trở lại nhưng một lúc sau một
viên tuỳ tùng báo với John rằng Tổng thống không thể gặp ông ta.
Vào
giữa năm 1967, trong gần cả một thập niên tôi được chính thức tuyển dụng, trong
suy nghĩ của riêng tôi, là học cách hiểu biết về những quyết định của chính phủ
đưa ra với hy vọng giúp cho Tổng thống và phần còn lại của chính quyền để làm
cho mọi việc tốt đẹp hơn, không gây ra nguy hiểm hay sai lầm để có những quyết
định trong tình trạng xung đột và bấp bênh, Việt Nam là một ví dụ điển hình về
việc không có lý do gì thực sự là cấp bách - để sửa đổi. Sau hai năm ở đó tôi
nghĩ tôi đã nhận thức được một phần của vấn đề và một câu trả lời hợp lý cho nó
là: một nỗ lực có chủ ý của những quan chức cấp cao nhằm một cách thức để né
tránh và lừa gạt trong nội bộ. Tôi tìm ra hai cách để làm điều này là: phớt lờ
nó đi và trừng phạt nó.
Cái
mà tôi coi như một "bài học lớn về Việt Nam" là sự tác động của những
thất bại chính trị đối với các hoạt động đối nội mà thực chất sự lừa dối các
nhà lãnh đạo, nhưng lại được họ ngầm khuyến khích. Đó là kết quả của một quá
trình nhận thức sai lầm từ cấp Tổng thống cho tới những người thừa hành. Đây là
thất bại của bộ máy quan liêu mà tôi đã nghi ngờ. Có những tình huống - như ở
Việt Nam là một ví dụ - mà ở đó chính phủ Mỹ, bắt đầu trở nên kém cỏi, nhưng
không hề nhận ra và sẽ không thể học được bài học đó. Ở Việt Nam có cả một đống
những điều không thể học hỏi được một cách máy móc, lại bị giấu giếm và không
được cập nhật bởi những cách cư xử thụ động. Đã có một bước thay đổi nhanh
chóng về nhân sự và một sự thiếu hụt về tổ chức chính quyền ở tất cả các cấp. Rạch
Kiến là một ví dụ hoàn hảo: một viên chỉ huy tiểu đoàn sĩ quan không có kinh
nghiệm bộ binh nào, người vừa mới gặp viên chỉ huy đại đội của anh ta khi họ
cùng chiến đấu trong một cuộc hành quân 8 tháng trên cùng một hoàn cảnh tương tự,
đã thậm chí không hề ý thức được rằng đây chính là những quân Mỹ đã từng đến
thăm họ trước đó.
Như
Trần Ngọc Châu nói với tôi vào năm 1968: "Người Mỹ các ông có cảm giác như
đã đánh trận trong bảy năm. Các ông không hề như vậy. Các ông chỉ mới đánh
trong một năm, bảy lần". Đã có một thất bại chung nhất để học bài học lịch
sử hoặc để phân tích hoặc thậm chí để ghi lại những kinh nghiệm chiến đấu, đặc
biệt là những sai lầm. Hơn nữa, những ảnh hưởng gây hậu quả của những báo cáo một
cách lạc quan sai lệch ở mọi cấp độ, về việc miêu tả "sự tiến bộ" của
tình hình hơn là đề cập đến những vấn đề tồn tại hoặc sai lầm mắc phải, đã che
đậy đi sự cấp thiết cần phải thay đổi trong cách tiếp cận hay tiếp thu vấn đề đặt
ra.
Khi
trở lại Washington vào mùa hè năm 1967, tôi biết rằng McNamara đã thực hiện một
cuộc nghiên cứu có tính lịch sử của việc đề ra những quyết định về Việt Nam. Đề
cập đến cuộc điều tra bước đầu đối với Tổng thống Kennedy với thất bại nghiêm
trọng về hoạch định chính sách ở cấp cao, Bộ trưởng Quốc phòng đã phân công kế
hoạch cho John McNaughton trong cơ quan cũ của tôi, Cục An ninh quốc tế, nơi
Paul Warnke được bổ nhiệm thay thế vào tháng bảy.
McNaughton
đã giao nhiệm vụ cho cấp phó của ông ta, Mort Halperin, người đã giao cho cấp
phó của mình, Lesile Gelb, trọng trách đó. Gelb đã từng là sinh viên tốt nghiệp
khoá sau Henry Kissinger tại Harvard và giống như Halperin, đã cộng tác với
Kissinger trong các khoá học. Ông ta đã chuyển tới Lầu Năm Góc từ một vai trò của
trợ lý về pháp luật của Jacob Javits, Thượng nghị sỹ Cộng hoà của New York.
Nghiên
cứu của McNamara đã được thực hiện với hàng loạt các câu hỏi mà ông ta muốn có
câu trả lời. Trong việc chọn nhưng người nghiên cứu, Gelb đã đề nghị chọn những
nhà nghiên cứu lịch sử như là một sự đáp ứng toàn diện hơn. Ông ta và Halperin
muốn có những người có kĩ năng phân tích lành nghề, có khả năng phân chia các
nhóm vấn đề và đề xuất những vấn đề cần nghiên cứu. Nếu có thể, ông ta cũng muốn
có những người đã từng tham gia phục vụ ở Việt Nam (cả Halperin và Gelb đều chưa
từng đến đó) hoặc đã tham gia vào quá trình ra quyết định về vấn đề Việt Nam ở
Washington. Tôi phù hợp với cả 3 tiêu chuẩn đó, vì thế tôi là một trong số những
người đầu tiên họ đặt vấn đề mời tham gia. Tôi đồng ý giúp họ soạn thảo một tập
với hy vọng rằng điều đó sẽ cho tôi một dịp tiếp cận với toàn bộ công việc
nghiên cứu để có được một sự phân tích đối chiếu và tìm kiếm các kênh khác nữa,
mà tôi thực sự quan tâm.
Gelb
chỉ cho tôi chỗ làm việc mà ông ta đã sắp xếp. Một căn phòng lớn gần phòng Bộ
trưởng, với một dãy bàn ngăn nắp cho những nhà nghiên cứu, được ngăn cách bởi
những chiếc tủ bốn ngăn đựng những tài liệu mật. Chúng đều đã đầy hoặc đang đầy
lên, với những bức điện và những báo cáo về Việt Nam từ các quan chức trong tất
cả các ban ngành của chính phủ. Gelb bảo tôi có thể chọn bất cứ vấn đề hay giai
đoạn nào mà tôi muốn nghiên cứu. Nếu không phải mất quá nhiều công sức, dĩ
nhiên có thể chọn năm 1964 -1965, thời điểm mà tôi làm việc cho McNaughton ở
Washington, nơi tôi đã tận mắt chứng kiến những quyết định được đưa ra đầu
tiên. Thay vào đó, tôi chọn nghiên cứu những quyết định của Kennedy vào năm
1961, khoảng thời gian mà tôi nắm được rất ít và muốn được tìm hiểu thêm. Như
tôi đã miêu tả trước đây, chuyến đi đầu tiên của tôi tới Sài Gòn là vào mùa thu
năm 1961, hhông lâu trước chuyến đi của Taylor -Rostow. Điều mà chúng tôi nghe
được về chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm dường như không có triển vọng sáng
sủa để có thể dựa vào đó để tăng cường sự can thiệp của Mỹ. Lúc đó tôi đã vui mừng
khi thấy rằng Tổng thống Kennedy nhanh chóng bác bỏ những ý kiến, mà tôi được
biết đến ở Sài Gòn về việc gửi những đơn vị lính Mỹ sang Việt Nam, mặc dù ông
ta đã làm như vậy.
Có
thể hiểu, ông ta tiếp tục ủng hộ người cầm đầu nhóm theo Đạo Thiên chúa chống lại
các nhà lãnh đạo Cộng sản và lăng sự ủng hộ đó một cách có chừng mực.
Tôi
đã không thực sự ngạc nhiên bởi điều này vào thời điểm năm 1961, mặc dù tôi
nghĩ nó đã đưa chúng ta tới một hướng sai lầm. Điều làm tôi ngạc nhiên là những
lý do chính giải thích cho sự lựa chọn của ông ta. Kennedy nói rằng ông ta gần
như làm theo những chỉ dẫn của Walt Rostow và Maxwell, hai trong những cố vấn
hàng đầu của ông ta, những người mà cá nhân ông đã cử tới Sài Gòn để nắm bắt
tình hình và đặc biệt là tìm cơ sở pháp lý cần thiết để đưa bộ binh Mỹ sang.
Sau khi trở về từ chuyến đi, tướng Taylor và các thành viên trong đoàn đã kết
luận đúng như dự đoán rằng nguồn lực của quân đội miền Nam Việt Nam, với chi viện
không đáng kể của Mỹ đã có đủ khả năng để đương đầu với cuộc nổi dậy. "Tôi
tin tưởng chắc chắn rằng quân đội miền Nam Việt Nam có khả năng kiểm soát được
mọi việc trong phạm vi bên trong biên giới của họ"(76). Taylor nói, và
"để bảo vệ đất nước chống lại những cuộc tấn công thông thường". Khi
ông ta trở về, tờThời báo New Yorkđã viết: "Các quan chức đã đúng khi suy
luận rằng tướng Taylor không tán thành việc gửi quân Mỹ sang vào thời điểm này…
Trong khi phản đối việc gửi quân, tướng Taylor nghiêng về sự cần thiết của việc
gửi các nhân viên kỹ thuật quân sự… "(77).
Từ
tất cả những gì được nghe khi tôi đến Sài Gòn lần đầu, tôi nghĩ rằng đó là một
điều ngu xuẩn. Tôi có thể hiểu lý do cơ bản phản đối việc đưa quân sang. Nhưng
liệu Tổng thống có thể làm cho công chúng yên tâm như thế vào tình thế mà ông
ta đang dấn sâu vào nếu ông biết được những điều mà tôi đã biết hay không? Và
ông ta đã nghe hay chưa về chuyện đó? Taylor và Rostow hẳn đã nói chuyện với những
người mà tôi đã tiếp xúc một tuần trước đó. Những người trong đoàn của ông ta
phải nghe được những chỉ thị, giống nhau, đọc những bản báo cáo giống nhau. Làm
sao họ có thể kết luận như vậy, làm sao họ có thể nói với Tổng thống, rằng chỉ
cần những cố vấn, với máy bay trực thăng và những chuyên gia, là có thể xoay
chuyện được tình hình?
Tôi
không nghĩ điều đã xảy ra với tôi vào năm 1961 mà Nhà Trắng lại có thể nói sai
lệch đi về những gì Tổng thống được báo cáo. Theo kinh nghiệm riêng của bản
thân với tư cách là cố vấn làm việc ở Lầu Năm Góc, rất dễ để tôi giả định rằng
vì một số lý do quan liêu nào đó mà những người đại diện của Tổng thống đã bị
mê muội. Hoặc nếu không định lừa dối, thì họ ít nhất phải nghe từ nhiều người với
những ý kiến khác nhau, những người mà tôi từng tiếp xúc.
Tôi
cũng nghĩ rằng chúng ta không nên gửi quân, nhưng không phải là vì lạc quan, mà
ngược lại. Có những ý kiến khác nhau ở Sài Gòn là liệu lời cam kết đưa sang
không giới hạn quân chiến đấu Mỹ cuối cùng có thể thắng trong cuộc chiến này
hay không - nếu không tính đến những chi phí, hiểm hoạ và thương vong. Nhưng một
bài học hết sức rõ ràng mà tôi có được từ những gì mình nhìn, nghe thấy, là chỉ
những cố vấn quân sự với những đơn vị hỗ trợ, mà Kennedy đã gửi sang, chắc chắn
sẽ không đáp ứng được nhu cầu. Tại sao cũng những thiếu tá và đại tá vừa nói
chuyện rất thật thà với tôi lại kể một câu chuyện hoàn toàn khác cho Maxwell
Taylor? Họ có thể đánh lừa ông ta thậm tệ như thế ư ngay cả khi họ muốn đi
chăng nữa? Hay có lẽ ông ta muốn lừa gạt Tổng thống?
Giả
thuyết tôi đưa ra vào mùa thu năm 1967 đối với những sự kiện năm 1961 là những
gì chung nhất rút ra từ những báo cáo trong suốt khoảng thời gian đó, đến bây
giờ bao gồm các báo cáo của David Halberstam và M. Athur, Jr. Schlesinger. Đây
thực sự là một tình trạng mắc kẹt trong bãi lầy; rằng báo cáo chiến sự lạc quan
cộng với sự không vững chắc của những đánh giá tình hình của những cố vấn ở
Washington, đặc biệt là các chuyên gia về quân sự đã khẳng định với Tổng thống,
một cách sai lầm rằng kế hoạch ông ta chọn là đúng đắn. Đầu tiên phải đề cập đến
quyết định được gửi cho những cố vấn vào năm 1961, Schlesinger viết: "Đây
là chính sách "tiến từng một bước một" - mỗi bước đi mới luôn hứa hẹn
thành công mà bước ngay trước đó cũng đã hứa hẹn mà bước ngay trước đó cũng đã
hứa hẹn thành công nhưng không may khi đưa ra đã gánh chịu thất bại"(78).
Để mở rộng nó trong những năm tiếp theo, Schlesinger khẳng định: "Mỗi bước
tiến trong cam kết sâu hơn của Mỹ đã được xem xét một cách hợp lý như là bước
cuối cùng vào thời điểm đó là một điều tối cần thiết. Giờ đây, khi hồi tưởng lại,
mỗi bước đi chỉ dẫn đến bước tiếp theo, cho tới khi chúng ta nhận ra chúng ta
đang mắc kẹt trong cơn ác mộng của những nhà chiến lược Mỹ đề ra, một vừng đất
chiến tranh ở châu Á, một cuộc chiến mà không một Tổng thống nào mong muốn hay
dự kiến thực hiện, kể cả Tổng thống Johnson"(79)
Trước
khi tôi đọc được những tài liệu này, điều đó xem ra có vẻ hợp lý. Tôi đã làm việc
theo quan điểm đó ngay từ những ngày đầu làm việc cho dự án nghiên cứu của
McNamara - hoặc, vì nó cũng đã được biết đến, trong tài liệu mật của Lầu Năm
Góc. Từ kinh nghiệm của bản thân khi ở Lầu Năm Góc, tôi biết Schlesinger, cũng
như những người khác, đã sai lầm khi dựa vào những lý lẽ tương tự cho sự leo
thang của Tổng thống Johnson vào năm 1965. Nhưng tôi tưởng tượng ra rằng như
năm 1967, thời kỳ 1964-1965 là một sự khủng hoảng khác thường của chủ nghĩa bi
quan.
Xét
cho cùng, từ những kinh nghiệm trong lĩnh vực của mình trong những năm ngay sau
đó, thật khó để tôi không nghi ngờ rằng Tổng thống Johnson đã lạc lối bởi những
sai lầm không kiểm soát được, những báo cáo lạc quan mà tôi biết là đã được nộp
cho văn phòng ở Nhà Trắng của Walt Rostow và Bob Korner thật khó có thể cung cấp
một thông tin được chọn lọc cho Tổng thống. ảnh hưởng của những suy luận trên
phạm vi rộng này đã làm giảm một cách đáng kể gánh nặng trách nhiệm, hoặc buộc
tội, vì sự bất lực và chính sách sai lầm đối với mỗi vị Tổng thống và đặt trách
nhiệm đó lên vai những cố vấn của họ, nhất ỉà những chuyên gia về quân sự, và về
sự nhận thức hạn chế và những bản tường trình, đó là thất bại về nhận thức một
cách hệ thống. Giải pháp dường như là tìm ra cách để cung cấp những thông tin
chính xác hơn cho Tổng thống (Nếu Nga Hoàng chỉ biết…!"). Như tôi đã cố gắng
làm bằng những thông báo trực tiếp và lời khuyên của tôi là làm thế nào để hiểu
được McNamara, Korner và Đại sứ đặc nhiệm ở Sài Gòn.
Tôi
biết từ những điều mà báo chí đã khẳng định rằng những báo cáo và những đề nghị
quân sự lạc quan của đoàn đi tìm hiểu đưa ra mà tôi được chứng kiến vào năm
1966-1967 cũng tương tự như những đặc điểm của các năm 1962-1963, cũng như vào
cuối những năm 50 và giống báo cáo của viên chỉ huy Pháp thời kỳ ngay trước chiến
dịch Điện Biên Phủ. Không có điều gì trong số những điều đã xảy ra những năm vừa
qua, mà những quyết định chủ chốt để leo thang chiến tranh được thực hiện:
nhưng giống như những nhà phân tích khác, tôi cho rằng kiểu lạc quan giả dối và
tự lừa dối bản thân đồng hành cùng với sự thật, cũng như vậy, là của những năm
tháng cam kết bị phê phán (trừ năm 1965). Điều này còn bao gồm cả quyết định của
Truman viện trợ trực tiếp cho Pháp vào năm 1950, cam kết của Eisenhower với Diệm
vào năm 1954, và quyết định của Kennedy phá vỡ giới hạn của hiệp định Geneva về
cố vấn của Mỹ năm 1961.
Trong
vòng một tháng tìm hiểu hồ sơ trong văn phòng nghiên cứu của McNamara, tôi đã
phát hiện ra rằng giả thiết này là sai lầm. Mọi quyết định quan trọng này đều
liên quan mật thiết với chủ nghĩa bi quan trong thực tế, chủ tâm che giấu đối với
công luận, như trong thời kỳ năm 1964-1965.
Tôi
bắt đầu bằng việc chắt lọc những tài liệu ở Lầu Năm Góc và những đánh giá của Cục
Tình báo Trung ương liên quan tới Đông Dương trong những năm 1950 - 1960, mà
tôi đã yêu cầu và được CIA đáp ứng, trước khi chuyển sang năm 1961. Có điều là
bằng chứng trong từng năm của những năm tháng có quyết định quan trọng mà Tổng
thống lựa chọn lại không được tìm thấy dựa trên những báo cáo lạc quan hoặc dựa
trên những đảm bảo sự thành công trong quá trình lựa chọn của Tổng thống.
Trái
ngược gần như hoàn toàn so với các báo cáo công khai, không một yếu tố nào
trong số các yếu tố đã nêu trên được đưa ra cho Truman vào năm 1950 hay
Eisenhower vào thời kỳ 1954-1955. Chúng cũng không thích hợp với Kennedy vào
năm 1961 và kể cả cho Johnson vào năm 1965. Thực chất là đã có những thời kỳ lạc
quan hão huyền trước hoặc ngay trong những năm đưa ra quyết định. Nhưng chúng
không bao giờ có thể giải thích được cho sự leo thang tiếp ngay sau đó, mà thường
ngay lập tức được dự báo trước và luôn đi kèm với sự tăng lên của chủ nghĩa hiện
thực u ám, bao gồm một sự hiểu ngầm trong nội bộ rằng cam kết mới của Tổng thống
đã chọn có thể sẽ không đưa đến thành công. Về phương diện này, cách lựa chọn một
cuộc leo thang dường như có một cái gì đó rất khó hiểu.
Tôi
chọn nghiên cứu năm 1961 vì tôi luôn băn khoăn về những lựa chọn của Kennedy ở
Việt Nam vào mùa thu năm đó.
Ông
ta đã bị thuyết phục tin vào cái gì vậy? Liệu ông ta có hiểu điều ông ta đang bắt
đầu thực hiện không? Tôi đã đi tìm một lời: giải đáp cho những mâu thuẫn hiển
nhiên giữa những gì tôi được nghe và được chứng kiến vào tháng 9-1961 và những
gì mà Taylor và của ông ta, đã kết luận vào tháng mười, căn cứ vào những thông
cáo báo chí và những lời tuyên bố chính thức: với giả thiết là những biện pháp
mà Kennedy đã phê duyệt vào tháng mười một là thoả đáng. Những mâu thuẫn đó đã
nhanh chóng biến mất khi tôi nắm được thực chất về con người của Taylor, những
khuyến cáo mang tính cá nhân của ông ta đối với Tổng thống và những cơ sở pháp
lý mà ông ta dựa vào. Những thông cáo báo chí ở thời điểm đó là sai lầm. Những
lời tuyên bố chính thức đều là những lời dối trá.
Maxwell
Taylor đã không khuyên Tổng thống rằng chương trình mà ông ta cuối cùng đã chấp
nhận là thoả đáng, thậm chí trong thời gian ngắn, thậm chí để ngăn ngừa thất bại,
mà chỉ là để giành chiến thắng. Taylor cũng tỏ ý chống lại việc gửi quân chiến
đấu sang. Mà ngược lại (ông ta đã trình), trong tập hồ sơ tối mật "Những
đánh giá chỉ dành cho Tổng thống" ("Eyes only for the
president") Taylor không chỉ gợi ý đến việc đưa quân Mỹ vào miền Nam Việt
Nam "một cách không chậm trễ"(80), mà còn nói ông ta đã đi đến một kết
luận rằng đây là một hành động duy nhất đúng nếu chúng ta muốn đảo ngược lại xu
hướng thất bại hiện tại… Trong thực tế, tôi không tin rằng kế hoạch của chúng
ta để cứu miền Nam Việt Nam sẽ thành công nếu thiếu nó (quân Mỹ - ND).
Ông
ta đã đề xuất gửi một lực lượng ban đầu gồm 6 đến 8 ngàn lính, nhưng với một sự
thừa nhận rõ ràng rằng có thể sẽ có nhiều người hơn nữa được gửi sang: Mặc dù
thanh thế của Mỹ đã được xây dựng ở Nam Việt Nam nhưng nó sẽ còn được tăng lên
nếu gửi thêm quân. Nếu lực lượng ban đầu đó vẫn chưa đủ để đạt được kết quả cần
thiết, thì sẽ khó để có thể chống lại được áp lực phải tăng viện. Nếu kết quả
trông đợi cuối cùng là đóng cửa biên giới và quét sạch các cuộc nổi loạn ở bên
trong miền Nam Việt Nam, thì sẽ không có giới hạn nào cho sự cam kết có thể thực
hiện được của chúng ta (trừ phi chúng ta tấn công vào nguồn lực ở Hà Nội).
Ông
ta cũng không đơn độc trong đề xuất về gửi lực lượng trên bộ của mình hay những
suy luận khác: rằng đội quân này dĩ nhiên là sẽ đẩy lùi chiến thắng của Cộng sản,
rằng gửi những lực lượng vừa phải ban đầu nhưng cuối cùng có thể dẫn đến sự
tham chiến của một đội quân Mỹ đông đảo và có thể có chiến tranh với cả Trung
Quốc, rằng nếu không có bất cứ đơn vị chiến đấu nào được gửi sang thì, tất cả
những biện pháp đã đề xuất (mà Kennedy chấp nhận và công bô) sẽ không phù hợp để
ngăn chặn sự thất bại. Như Bộ trưởng Quốc phòng McNamara viết trong một bản ghi
nhớ báo cáo trình Tổng thống vài ngày sau đó, nói về chính ông ta, cấp phó của
ông ta, Roswell Gilpatric, và Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân thì:
"Thời cơ đang chống lại chúng ta, thực sự là rất bất lợi, để ngăn chặn (sự
sụp đổ của Nam Việt Nam trước chủ nghĩa Cộng sản bằng bất kỳ biện pháp cấp bách
nào của việc gửi quân Mỹ sang với số lượng lớn).
Chúng
tôi chấp nhận những suy luận của tướng Taylor rằng những giải pháp khác nhau mà
ông ta đề nghị là có thể thực hiện được nhưng tự thân nó sẽ vô dụng khi lấy nó
để khôi phục lòng tin và đưa Diệm tới chiến thắng trong cuộc chiến của ông ta.
Theo
như McNamara và Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, 8.000 binh sĩ ban đầu sẽ
không đủ để làm "cán cân nghiêng hoàn toàn về một phía"(81). Họ đề
nghị - giống như Taylor và Rotstow đã làm - rằng nước Mỹ "tự mình cam kết
mục tiêu rõ ràng là ngăn chặn miền Nam Việt Nam rơi vào tay chủ nghĩa Cộng sản"(82),
và đi cùng với cam kết này là những đơn vị đầu tiên làm theo "một lời cảnh
báo qua một số nguồn tới Hà Nội rằng việc tiếp tục ủng hộ Việt Cộng sẽ dẫn đến
sự trả đũa ác liệt chống lại miền Bắc Việt Nam. Nếu chúng ta hành động theo
cách này, thì cuối cùng có thể sẽ phải mở rộng cam kết quân sự của chúng ta để
đương đầu với tình hình. Cuộc chiến có thể kéo dài và Hà Nội, Bắc Kinh có thể
can thiệp công khai… Tôi tin rằng chúng ta có thể cho rằng lực lượng quân đội tối
đa trên bộ cần cho vùng Đông Nam Á sẽ không vượt quá 6 Sư đoàn hoặc khoảng
205.000 người"(83).
Nhìn
lại vấn đề, đó là một đánh giá không đúng mức - chúng ta đã từng đóng nhiều
quân như thế ở miền Nam Việt Nam vào đầu năm 1966, mặc dù Trung Quốc đã không
can thiệp và 2 năm sau chúng ta vẫn chưa giành chiến thắng được, khi chúng ta
đã gửi gần như gấp 3 lần số quân như thế mà nó không phải là một con số nhỏ.
Cùng
những kế sách giống nhau, cùng những cơ sở giống nhau, có sự hậu thuẫn của MC
George Bundy - trợ lý đặc biệt của Tổng thống về An ninh quốc gia - và người
anh của ông ta là William Bundy, sau đó đóng vai trò như trợ lý Bộ trưởng Quốc
phòng về các vấn đề an ninh quốc tế - người đã tham gia xử lý vấn đề về hội nghị
Geneva và hậu quả của nó khi ông ta đang ở CIA. Đó là một sự nhất trí ý kiến của
bất cứ một quan chức an ninh quốc gia cấp cao nào trừ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
là Rusk.
Sự
e dè của Rusk về việc gửi quân không phải vì chúng không cần thiết hay quyết định
đó có thể bị trì hoãn một cách an toàn mà bởi vì ít nhất dưới chế độ Diệm, nó
không có sự rõ ràng, thậm chí quân Mỹ sẽ tạo ra một tình hình mới làm khác đi.
Trong một bức điện từ Nhật Bản, Rusk cảnh báo Kennedy: "Nếu Diệm không sẵn
sàng tin vào các chỉ huy quân đội để giải quyết mọi việc và từng bước tập hợp
những phần tử không Cộng sản vào những nỗ lực quan trọng của quốc gia thì thật
khó có thể chứng kiến được quân Mỹ sẽ có ảnh hưởng quyết định như thế nào.
Trong khi tham gia những kế hoạch khả thi có tầm quan trọng nhất ở Đông Nam Á,
tôi ngán ngẩm chứng kiến những cam kết quan trọng nhằm làm tăng vị thế của Mỹ
đang đi tới thất bại"(84).
Tuyên
bố đầu tiên của Rusk, thực ra mà nói, đã chỉ rõ (một cách thực tế, nhìn lại vấn
đề) cần thêm hai điều kiện cơ bản cho thành công. Rusk cũng chỉ cho thấy việc không
có những thay đổi dưới chế độ Diệm (vốn được coi là không thích hợp và chưa
chín muồi) làm cho Diệm giống như một "con ngựa thua cuộc" mặc dù Mỹ
có làm gì đi chăng nữa; người cấp phó của Rusk, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao George
Ball, thậm chí còn tranh luận về vấn đề này mạnh mẽ hơn.
Tóm
lại, điều mà tôi nhận thấy qua việc đọc các tài liệu về năm 1961 cho dự án
nghiên cứu của McNamara là không phải chỉ riêng một cá nhân cố vấn dân sự và
quân sự nào của Kennedy đã nói với ông ta rằng kế hoạch tăng cường cố vấn và những
đơn vị hỗ trợ mà ông đã tuyên bố vào giữa tháng mười một có lẽ là phù hợp để
ngăn chặn chiều hướng tình hình đang xấu đi ở miền Nam Việt Nam chỉ trong một
thời gian ngắn, hãy tự mình giành lấy thành công cuối cùng.
Tốt
thôi, điều đó đã trả lời cho một vấn đề. Taylor và cấp dưới của ông ta khi còn ở
Sài Gòn đã không nghe và cũng không nói với Tổng thống được tin gì khác với những
gì tôi đã nghe một vài tuần trước đó về tình trạng phổ biến và những triển vọng
ở Việt Nam. Những tuyên bố chính thức và những tin tức, câu chuyện về nhận xét,
đề xuất của họ, và về quan điểm của họ rằng các cố vấn sẽ được chấp nhận, đơn
giản là một sự sai lầm. Tại sao chính phủ lại nói dối về những vấn đề vốn không
quá khó giải thích. Nếu Tổng thống, bác bỏ những lời khuyên gần như bất đồng của
những cộng sự thân cận - là sẽ gửi cố vấn và các đơn vị hỗ trợ nhưng không nhiều
hơn mức dự kiến - thì điều đó sẽ là vô ích khi nói sự thật về những lời nhận
xét thực tế mà ông ta đã nghe được về sự vô hiệu quả của chương trình này hay
những đề xuất khẩn cấp mà ông đã nhận được để gửi nhiều cố vấn và binh lính
sang Việt Nam hơn.
Tất
cả điều này làm dấy lên một nỗi băn khoăn mới. Phải đối mặt với những đề xuất
này và những sự chỉ trích, làm cách nào để Kennedy có thể thực hiện được điều
đó, không nhiều hơn cũng không ít đi? Không một tài liệu nào mà tôi đọc được có
thể trả lời được thách thức này; thay vào đó chúng được đặt ra một cách nghiêm
trọng. Vào cùng thời điểm đó, chúng bác bỏ những diễn giải rối rắm của
Schlesinger trước đây. Cái mà những tài liệu mật này chỉ ra là những lời giải
thích của ông ta không phù hợp với quyết định vào năm 1961 của Kennedy cũng như
của Johnson vào năm 1965 hay của Truman và Eisenhower trước đó.
Bất
cứ điều gì mà mỗi Tổng thống thầm nghĩ đến thì ông ta có thể đạt được nếu quyết
định tiến hành, nó có thể không chỉ đơn giản là sản phẩm của sự quan liêu hay sự
lừa dối. Thực tế trong mỗi năm khủng hoảng đó - trái ngược với những năm mà lúc
đó - có đầy đủ những nhà phân tích tình báo thực thụ và có cả những báo cáo về
các cuộc hành quân cho Tổng thống rằng thật khó để có thể tưởng tượng là có nhiều
lời nói thật hơn hay thậm chí là bi quan có thể thay đổi những sự lựa chọn của
Tổng thống Liệu có thể. về sau này, rằng không có lời nói dối đối với Tổng thống
nào đã ảnh hưởng đến quyết định của họ hay không?
Vì
vậy vấn đề còn lại là giải thích làm thế nào và tại sao Tổng thống đi tới lựa
chọn mà ông ta đưa ra. Nếu mỗi Tổng thống được báo cáo về kế hoạch leo thang rằng
điều mà ông ta đang chọn lựa để thực hiện có thể không giải quyết được vấn đề,
thì sau đó ông ta sẽ dựa vào cái gì? Tại sao ông ta không thực hiện nhiều hơn
hay ít hơn? Hơn nữa, tại sao mỗi Tổng thống đều lừa dối công chúng và Quốc hội
về cái mà ông ta đang làm ở Đông Dương và về những gì ông ta đã được báo cáo?
Quyết
định cử các cố vấn mà không cử một đơn vị quân đội nào của Kennedy thực tế có
thể coi như một bước đi nhỏ nếu so sánh với kế hoạch leo thang sau này của
Johnson, nhưng vì tôi đã biết được nội tình từ các tài liệu đã đọc nên không một
hành động nào như vậy hứa hẹn sẽ thành công. Nó cũng "không được quan tâm
đúng lúc" hay thậm chí không được quan tâm - bởi bất cứ ai trong chính phủ
như "là một bước tiến cần thiết cuối cùng".
Điều
tương tự cũng xảy ra dưới thời Johnson. Thực tế là, với Kennedy, cũng như
Johnson, chính Tổng thống là người đang lừa gạt công chúng, chứ không phải là
những cấp dưới đang lừa gạt ông ta.
Kennedy
đã lựa chọn việc tăng cường sự dính líu của Mỹ và đầu tư cho uy tín của người Mỹ
ở Việt Nam và tái xác nhận những cam kết hoa mĩ của chúng ta - không nhiều như
những gì cấp dưới của ông ta dề nghị, nhưng cũng ở một mức độ đáng kể - trong
khi loại bỏ một yếu tố là lực lượng lục quân, điều mà tất cả nhân viên của ông
ta miêu tả là rất cần thiết để giành thắng lợi.
Trong
thực tế, cùng thời điểm đó ông ta đã loại bỏ một yếu tố khác nữa mà tất cả các
cố vấn của ông ta, kể cả Rusk, cũng miêu tả như một sự sống còn là một bản cam
kết đầy đủ để Cộng sản ở miền Nam Việt Nam. Tại sao lại như vậy?
Tôi
nhanh chóng nhận được một sự bình xét quan trọng về sự ngược đời này của
Kennedy, cũng giống như tôi đã nghĩ về nó, từ người anh của ông ta. Vào mùa thu
năm 1967 tôi được mời tới đọc diễn văn tại một buổi họp mặt của các uỷ viên quản
trị của các chi nhánh hãng truyền hình CBS trên cả nước. Tôi đã có một bài phát
biểu dài cũng theo những chủ đề mà tôi đã đưa ra cho những nhóm cấp cao khác kể
từ khi tôi trở về từ Việt Nam mùa hè năm đó: những điều không thể chối cãi về
thực trạng không lối thoát ở Việt Nam, những trò lừa bịp và sự nuôi dưỡng ảo tưởng
của chính phủ về sự "tiến bộ", và sự cần thiết về việc chấm dứt những
dính líu của chúng ta. Vào thời điểm đó, điều đó là rõ ràng đối với tôi - cũng
như hầu hết những viên chức đã phục vụ tại Việt Nam, mặc dù chưa phải là đã rõ
ràng đối với toàn bộ công chúng - rằng những dự báo bi quan mà tôi đã nghe vào
năm 1961 đã trở thành sự thật. Không chỉ những viên cố vấn và các đơn vị yểm trợ
mà Kennedy đã gửi sang là hoàn toàn không thoả đáng, mà cả cam kết không giới hạn
gửi quân đội mà ông ta đã bác bỏ và Johnson đã chấp thuận đã được chứng minh là
không còn thành công nữa.
Boby
Kennedy cũng lên tiếng. Dường như ông ta hết sức lo lắng về tình thế khó khăn của
chúng ta mà tôi chưa được nghe từ bất cứ một quan chức nào tôi đã tiếp xúc vào
mùa hè đó. Vào cuối bữa trưa, Frank Mankiewicz, thư ký báo chí của Kennedy, nói
với tôi rằng Kennedy muốn nói chuyện thêm với tôi và gợi ý tôi trở về văn phòng
Thượng nghị sỹ cùng ông. Trong xe Kennedy nói với tôi rằng ông ta rất thích những
điều tôi nói, nó khẳng định điều ông ta nghĩ là đúng và ông ta muốn được nghe
thêm.
Tôi
mới chỉ gặp Bobby có một lần cách đây 3 năm, khi ông ta đang trong những ngày
cuối cùng giữ chức Tổng chưởng lý lúc đó ông ta đã không gây cho tôi một ấn tượng
nào, đặc biệt với tư cách là một ứng cử viên tiềm tàng cho chức vụ Bộ trưởng
Ngoại giao, một chức vụ mà ông ta mong muốn sau này. Ông ta trông có vẻ rất trẻ,
không tự tin lắm về bản thân mình, và có một trí nhớ tồi một cách đáng ngạc
nhiên về các sự kiện quốc tế. Tôi đã phỏng vấn ông ta trong văn phòng tại Bộ Tư
pháp về một nghiên cứu chính thức đã được phân loại ở mức độ mật cao mà tôi đã
thực hiện về khủng hoảng về lên lửa Cuba tháng mười năm 1962. Ông ta nói một ý:
"Có một điều gì đó cũng đang xảy ra trong cùng thời điểm này, rất quan trọng,
nó thu hút sự chú ý của chúng ta… nó là cái gì?" ông ta nhìn lên trần, ngẫm
nghĩ một lúc, sau đó nhìn thẳng vào tôi và hỏi: "Sự kiện Vienna diễn ra
khi nào?"
Ông
ta đã đề cập tới cuộc gặp thượng đỉnh ở Vienna với Khruschev gần một năm rưỡi
trước cuộc khủng hoảng tên lửa.
Tôi
nói: "Đó là vào tháng sáu năm 1961"
Ông
ta nói: "Thế à!" và tiếp tục nhìn lên trần nhà nghĩ ngợi, sau đó thì
dừng lại. Ông ta không có vẻ gì là xấu hổ. Tôi thầm nghĩ "Đây là một Bộ
trưởng Ngoại giao ư?"
Nhưng
giờ đây ông ta đã gây ấn tượng hơn nhiều, trưởng thành hơn, độc lập và tự tin
vào bản thân hơn. Là chính mình trong Thượng nghị viện sau khi mất đi người anh
(Kennedy bị ám sát tháng 11-1963 - ND) của mình và hiện người cha đang bị liệt,
chắc hẳn ông có rất nhiều điều phải làm. Ông ta hỏi tôi về kinh nghiệm ở Việt
Nam và điều gì đã dẫn tôi đi đến kết luận như tôi vừa mô tả. Tôi rất mừng vì có
cơ hội nói với ông ta những gì tôi đã chứng kiến và những gì tôi nghĩ là nên
làm, nhưng tôi cũng muốn hỏi ông ta về thời kỳ mà tôi phụ trách trong dự án
nghiên cứu của McNamara, về việc Kennedy đưa ra quyết định năm 1961.
Tôi
kể ngắn gọn với ông lý do tại sao lại chọn năm đó để nghiên cứu và giờ đây tôi
lại càng băn khoăn hơn bao giờ hết bởi sự phối hợp của những quyết định mà Tổng
thống đã đưa ra.
Trong
khi bác bỏ việc gửi quân chiến đấu trên bộ và phải có một cam kết chính thức để
giành thắng lợi, Kennedy đã bỏ ngoài tai những lời khuyên khẩn thiết của các cố
vấn quân sự và quan chức dân sự cao cấp của ông. Với sự nhận thức về sau này,
điều đó không được xem là ngu ngốc; đó chính là những lời khuyên tồi. Nhưng Tổng
thống đã dự kiến một sự dính líu sâu của chúng ta trong khi phải đương đầu với
một sự đồng thuận lớn trong đội ngũ những cố vấn của ông ta mà không có lấy một
giải pháp nào khả dĩ nên ông đã bác bỏ, thực tế là không có sự chấp nhận (lời
khuyên - ND) ngay lập tức, các cố gắng của chúng ta đang thất bại. Tôi đã nói với
Bod là thật khó khăn để làm tiêu tan cảm giác của sự phối hợp các quyết định.
Liệu ông có nhớ làm thế nào để thoát khỏi cảm giác đó không? Tôi cảm thấy không
dễ dàng gì để diễn tả vấn đề bằng cách đó cho người anh của Tổng thống (tức Bod
- ND), nhưng tôi biết nó có thể là cơ hội duy nhất của tôi để tìm ra câu trả lời,
mà thái độ của ông ta đối với tôi đã động viên tôi nắm lấy cơ hội này.
Ông
ta nghĩ về những gì tôi đã đưa ra một lúc và sau đó nói:
"Chúng
ta không muốn mất Việt Nam cũng như rút ra khỏi đó. Chúng ta muốn giành chiến
thắng nếu chúng ta có thể làm được điều đó. Nhưng anh tôi lại kiên quyết sẽ
không gửi các đơn vị chiến đấu trên bộ nào tới Việt Nam. Ông ta nói rằng, anh
ông ta đã đoán chắc nếu chúng ta làm như thế thì chúng ta sẽ ở vào hoàn cảnh giống
người Pháp. Người Việt Nam bên phía chúng ta sẽ phó mặc cuộc chiến cho Mỹ, và nó
sẽ trở thành cuộc chiến của chúng ta chống lại chủ nghĩa dân tộc và quyền tự
quyết, cuộc chiến của người da trắng chống lại người châu Á. Đó là cuộc chiến
chúng ta không thể thắng, chẳng hơn gì người Pháp trước đây".
Tôi
nài ép ông ta nói thêm. Vào cuối năm 1964 và đầu năm 1965 điều đó cũng xảy ra đối
với những cố vấn như thể sự dính líu của lục quân Mỹ giờ đây đã trở thành thiết
yếu để tránh khỏi sự thất bại chỉ trong một thời gian ngắn. Nhưng tại thời điểm
đó thậm chí sẽ còn khó hơn để rút lui hay chấp nhận thua cuộc một cách sáng suốt
hơn là năm 1961. Nếu Kennedy còn sống thì ông ta sẽ làm gì?
Bobby
trả lời một cách thận trọng theo cách làm cho những lời nói của ông ta trở nên
đáng tin hơn: "Không ai có thể nói chắc chắn về điều mà anh tôi có thể sẽ làm
trong những hoàn cảnh cụ thể năm 1964 hay 1965. Tôi không thể nói như vậy, và
ngay cả anh ấy cũng không thể nói như vậy vào năm 1961. Có thể mọi việc sẽ đi
theo những gì chúng đang diễn ra. Nhưng tôi biết chắc cái mà anh ấy mong đợi.
Tôi chỉ có thể nói rằng anh ấy hoàn toàn không có ý định cử các đơn vị trên bộ
sang".
Tôi
tiếp tục đề cập đến những vấn đề hóc búa. Liệu John F. Kennedy có thực sự sẵn
sàng chấp nhận thất bại, để nhìn Sài Gòn rơi vào tay Cộng sản, thay vì không gửi
quân sang?
Bobby
lại một lần nữa trả lời tôi với một giọng điềm tĩnh:
"Chúng
ta có lẽ đã làm tình hình rối tung lên. Chúng ta có lẽ đã dựng lên một chính phủ
giờ đây muốn chúng ta rút đi hoặc họ muốn có sự thoả thuận với phía bên kia.
Chúng ta sẽ phải nắm chắc lấy chính phủ này giống như ở Lào".
Tại
Lào, Kennedy đã bác bỏ những đòi hỏi tăng viện binh và thay vào đó là đàm phán
dẫn tới chính phủ liên hiệp, bao gồm cả những người Cộng sản. Hầu hết những cộng
sự của Tổng thống và chính bản thân ông ta trong những cuộc thảo luận công
khai, đã luôn loại trừ khả năng đối phó với Việt Nam cũng như đối với Lào.
Nhận
xét của Bobby mà tôi được nghe lần đầu tiên và đây cũng là lần duy nhất tôi được
biết rằng J.K. Kennedy ấp ủ khả năng áp dụng "giải pháp đối với người
Lào" cho Nam Việt Nam. Không có một bằng chứng nào về việc Lyndon Johnson
hay Richard Nixon đã từng định làm như vậy. Nhưng lời tuyên bố của Bobby là
hoàn toàn sự thật.
Một
điều rõ ràng với tôi vào năm 1967 là ông ta đang nói đến một con đường thực tế
duy nhất có thể đưa đến việc kết thúc chiến tranh. Vì thế, làm cho người ta có
ý nghĩ rằng một Tổng thống Mỹ, ít nhất đã không coi thường điều này.
Nhưng
điều không rõ ràng với tôi là làm thế nào Kennedy có thể thấy trước được mọi
chuyện vào năm 1961, hay từ đâu ông ta đã có một cam kết cá nhân mạnh mẽ như vậy,
để vạch ra đường lối chống lại việc gửi lục quân Mỹ đến Việt Nam. Bobby đã
không nói rằng người anh của ông ta đã quyết định rút khỏi Việt Nam; năm 1961
ông ta chỉ đơn giản nói với tôi J.K. Kennedy muốn thế và có ý định làm điều đó
hơn là gửi quân đi nếu điều đó dẫn tới chỗ dường như chỉ có hai khả năng lựa chọn
trước sự thất bại có thể nhìn thấy trước của quân đội. Tôi chưa nghe thấy có
người Mỹ nào - trong số những người miễn cưỡng phải rời khỏi Việt Nam, vì lý do
chiến tranh lạnh - đưa ra một quan điểm đáng giá như vậy trước 1964 (mặc dù một
số người, đáng kể nhất là George Ball, không hề muốn cử tới đó, thậm chí chỉ
các cố vấn quân sự). Rõ ràng là không một cố vấn thân cận nào của Kennedy đồng
ý với quan điểm này. Tôi còn không nghĩ đến J.K. Kennedy như là một người có những
quan điểm mang đậm phong cách riêng, huống hồ lại bị người ta kết lội như thế,
về vấn đề Đông Dương. Tôi hỏi, với đôi chút sỗ sàng: "Điều gì khiến ông ta
trở nên thông minh như vậy?"
"Chết
tiệt!", ông ta đập tay xuống mặt bàn. Tôi giật mình nhảy dựng lên trong ghế
bành. "Vì chúng ta đã và đang ở đó!", ông ta lại đập bàn lần nữa.
Gương mặt ông ta co rúm lại vì tức giận và đau đớn: "Chúng ta đã ở đây từ
năm 1951. Chúng ta đã chứng kiến những gì xảy đến với quân Pháp… Chúng ta đã chứng
kiến… Anh trai tôi đã nhấn mạnh, nhấn mạnh rằng, đừng bao giờ để những chuyện
đó xảy ra với chúng ta".
Tôi
đã gặp Bobby Kennedy đôi lần trong vài tháng sau đó, có lúc chúng tôi có những
cuộc thảo luận khá lâu, nhưng đây là lần duy nhất tôi chứng kiến một sự bùng nổ
cảm xúc ở ông ta như thế. Nó gây một ấn tượng mạnh đối với tôi. Tôi đã và vẫn sẽ
tin tưởng vào ông ta, rằng anh trai ông ta đã khẳng định sẽ không bao giờ gửi
quân sang Đông Dương, và rằng ông ta đã sẵn sàng chấp nhận cái gọi là "giải
pháp Lào" nếu như cần thiết để tránh phải đưa quân sang. Nếu đúng như thế
thì, những lời buộc tội mang tính chủ quan và thái độ sẵn sàng đã chứng tỏ John
F. Kennedy là một người có quan điểm khác biệt rất có ý nghĩa đối với sự đánh
cược của chúng ta và tôn trọng chiến lược đã được vạch ra ở Việt Nam từ thời
các Tổng thống Lyndon Johnson và Richard Nixon, mà không một ai trong số họ
chia sẻ cái cảm giác bị ép buộc cũng như sự sẵn sàng thừa nhận thất bại trong một
số trường hợp nào đó. Nhưng liệu Tổng thống Kennedy, nếu không bị ám sát, có những
cư xử phù hợp trước sự lên án này trong việc phải đương đầu với các cuộc khủng
hoảng trong năm 1965 hay không (như em trai ông ta đã thừa nhận) lại là một vấn
đề khác, và chưa thể có câu trả lời.
Sau
khi nghe Bobby nói chuyện, tôi băn khoăn tự hỏi rằng điều mà họ đã mắt thấy tai
nghe ở Việt Nam đã tác động đến suy nghĩ của ông ta mạnh mẽ đến như vậy. (Và đến
giờ phút này nó cũng tác động đến tôi như thê). Họ đã ở đó bao lâu? Phải mất
hàng năm trời trước khi tôi biết được câu trả lời.
Một
hôm, tôi đã tìm ra được câu trả lời. Theo Richard Reeves, Kennedy đã ra lệnh
triệu hồi Taylor và Rostow ngay trước khi họ rời Việt Nam vào tháng 10- 1961.
Kennedy
đã nói với Taylor về những kinh nghiệm của ông ta, sau chuyến thăm Việt Nam vào
một ngày năm 1951 trong chuyến đi vòng quanh thế giới khi ông còn là một hạ nghị
sỹ trẻ tuổi. Ông ta bắt đầu chuyến thăm ngày hôm đó ở Sài Gòn bằng việc tiếp
xúc với vị tổng chỉ huy của 250.000 người thuộc đội quân viễn chinh Pháp đang
chiến đấu với những chiến sĩ du kích Việt Minh.
Tướng
Jean de Lattre de Tassigny đã cam đoan với ông ta rằng những binh sĩ của ông ta
không thể thua những người bản xứ. Và ông ta đã kết thúc ngày làm việc của mình
vào buổi tối ở trên tầng cao nhất của khách sạn Caravelle với một nhân viên
lãnh sự quán người Mỹ tên Edmund Gullion. Bầu trời xung quanh thành phố sáng
lên bởi những trận pháo cầm canh và những cuộc oanh tạc bằng súng cối đều đặn
hàng đêm của Việt Minh.
"Anh
học được điều gì khi ở đây?" Kennedy hỏi nhà ngoại giao.
"Trong
vòng 20 năm nữa, nơi này sẽ không còn chỗ cho những nhà thực dân", Gullion
trả lời.
"Chúng
ta không thể làm gì được ở đây. Người Pháp đã thua. Nếu chúng ta tới đây và làm
điều tương tự như thế, chúng ta cũng sẽ thua, cũng vì một lý do tương tự. Không
có sự quyết tâm cũng như sự ủng hộ cho cuộc chiến kiểu này từ phía Paris. Họ đã
mất đi chỗ dựa. Điều tương tự cũng sẽ xảy đến với chúng ta".
Hỏi
đúng người, đúng việc, và bạn sẽ nhanh chóng có được câu trả lời rõ ràng.
Vào
mùa thu năm 1967, tôi biết được rằng Westmoreland và Hội đồng Tham mưu trưởng
liên quan đã đẩy mạnh việc mở rộng cuộc chiến, điều mà McNamara đã phản đối kịch
liệt. Điều chúng tôi không thể biết được là Tổng thống đứng về phe nào.
Ông
thỉnh cầu công chúng tin rằng chúng ta đang tiến bộ một cách đáng hài lòng ở Việt
Nam, nhưng điều đó chẳng thuyết phục được tôi, kể từ khi McNamara đã từng làm một
việc tương tự như vậy. Vào giữa tháng mười, tôi đọc được một tài liệu từ một
nguồn đáng tin cậy của chính quyền, đó là từ viên thư ký báo chí của Johnson,
Bill Moyers. Tuyệt nhiên không có ai khác ngoài Lady Bird biết rõ về những ý định
của Lyndon Johnson hơn ông ta. Những ghi chép của tôi về cuộc gặp với ông ta
ngày 17-10 ở Cambridge cho thấy ông ta nhận định "rằng Tổng thống có vẻ
như không chỉ tiếp tục một cách thô bạo kế hoạch cho cuộc chiến hiện nay - về
những mục tiêu và chiến lược trong tương lai - cho tới kỳ bầu cử, mà còn cả sau
khi bầu cử, khi biết chắc rằng mình sẽ thắng (điều mà Moyers nghĩ là sẽ chắc chắn
xảy ra), ông ta có vẻ muốn chuyện hướng leo thang chiến lược của chúng ta hơn
là giảm thiểu các mục tiêu của Mỹ và sử dụng những chiến thuật ít tham vọng. Ví
dụ, ông ta có thể thể hiện thái độ sau đó tạo áp lực, và tìm ra cách thúc ép bản
thân một cách logic để xâm chiếm miền Bắc Việt Nam. Việc đó hầu như có thể chắc
chắn thực hiện theo từng giai đoạn: tiến quân thăm dò qua khu phi quân sự
(DMZ), xâm chiếm một cách có giới hạn qua những con đường xâm nhập ở phía bắc
DMZ, cuối cùng là đổ bộ theo kiểu Inchon".
Ai
đó đã hỏi một cách hoài nghi rằng liệu có thể hiểu được một chính trị gia cỡ
như Lyndon Johnson lại có thể đi lệch hướng quá xa so với mong đợi của công
chúng để phục vụ cho những mục tiêu chính trị trong nước của mình không. Moyers
nói rằng điều đó tuỳ thuộc vào liệu Tổng thống có tiếp tục tin tưởng nữa hay
không, như ông ta đã từng khát khao thực hiện trong một năm qua hoặc nhiều năm
trước đây, rằng vị trí của ông ta trong lịch sử có thể sẽ được xác định rõ bằng
sự kiên định đối với cuộc xung đột ở Việt Nam. Như Moyers đã nhìn nhận, Johnson
có khuynh hướng mạnh mẽ là muốn được chứng kiến vai trò của ông ta và những vấn
đề sẽ được giải quyết như trong nhiệm kỳ của Truman, và tin rằng trách nhiệm của
mình là thực hiện những quyết định khó khăn vì lợi ích của đất nước, và bằng mọi
giá phải giành được sự ủng hộ của công chúng trong một thời gian ngắn nếu điều
đó là cần thiết. Lịch sử sau này sẽ phán xét là ông ta đúng hay sai.
Quan
điểm cá nhân của Moyers là thậm chí có kéo dài thêm 1, 2 năm xung đột trong bối
cảnh hiện nay - với những sự mơ hồ về mặt đạo đức và hậu quả của những cuộc
tranh cãi và với sự không tiến bộ hiển nhiên của bất kỳ một mục tiêu nào của Mỹ
- sẽ gây ra những tổn thất không thể bù đắp được đối với sư đoàn kết, tinh thần,
thể chế, sự cân bằng chính trị nội bộ của quốc gia.
Việc
mở rộng chiến tranh sẽ làm cho tình hình trở nên xấu hơn, và ông ta nhận thấy
điều đó đang trở thành vấn đề quan trọng nhất của Mỹ, cũng như sự thay đổi quan
điểm của Tổng thống, điều mà ông ta rất không muốn hoặc là ông ta sẽ bị thay thế.
Tôi hỏi ông: "Những gì ông đã nói liệu có đúng với những gì ông nghĩ
không?". Ông ta trả lời một cách nhã nhặn: "Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng
tình hình sẽ có thể tiến triển trong khi tôi mong đợi sự thất bại của Lyndon
Johnson, và điều đó khiến những trăn trở trong đầu tôi càng trở nên đau đớn.
Bây giờ tôi chỉ có thể nói rằng: "Điều đó phụ thuộc vào đối thủ hiện giờ của
ông ta là ai?"
Moyers
xác nhận với tôi rằng có một thực tế trong cơn ác mộng lớn nhất của tôi. Kể từ
khi chúng ta tạo được uy thế bằng những cố gắng quân sự vào mùa xuân năm 1965,
tôi đã lo lắng rằng nếu có bế tắc ở đó (Việt Nam) thì nó sẽ đẩy bất kỳ tổng thống
nào rơi vào tình thế phải phá bỏ nó để thoát ra, để theo đuổi chiến thắng mà Hội
đồng Tham mưu trưởng liên quân đang hối thúc ông ta. Giờ đây, cũng như trước
kia, con đường đó dẫn đến miền Bắc Việt Nam, ngay gần biên giới của Trung Quốc,
và chính xác là xa hơn nữa. Đó là hy vọng ngăn chặn sự bế tắc và kết cục này đã
thôi thúc tôi cố gắng tìm hiểu, có lẽ từ tướng Lansdale hoặc John Vann, cái
cách để đạt được thành công mà không cần phải mở rộng chiến tranh. Cố gắng đó
là một sự thất bại. Nếu như có một cách như vậy, chính phủ Mỹ cũng sẽ không cố
gắng lìm ra nó kịp thời và triển khai nó.
Tôi
vẫn là một chiến binh của chiến tranh lạnh đang đi tìm những bài học từ kinh
nghiệm cuộc chiến tranh Việt Nam của chúng ta để có thể giúp cho Mỹ đánh bại sự
nổi dậy của Cộng sản ở bất cứ đâu trên thế giới, nơi có những hoàn cảnh khác biệt
và cơ hội chiến thắng của chúng ta cũng lớn hơn. Nhưng tôi cũng đã nhận thấy sự
khẩn cấp trong việc tránh một sự leo thang chiến tranh cao hơn, và lời nhận xét
của Moyers đối với những hành động của Tổng thống có vẻ như thích hợp hơn so với
những điều tôi nghĩ. Để ngăn chặn chuyện này, tôi còn không buồn nghĩ đến việc
thay một Tổng thống mới, thời gian không đủ để làm việc đó. Điều cần thiết lúc
này là cảnh báo cho người dân về khả năng leo thang chiến tranh, để tạo nên một
lực lượng đối lập với nó, và làm cho chiến tranh kết thúc bằng cách nào đó trước
khi hoàn cảnh buộc phải dẫn đến điều đó. Tôi cần hàng năm trời để làm điều đó,
tôi đã bị chi phối bởi nhận thức "Cuộc chiến này chưa kết thúc, và có vẻ
như nó sẽ mở rộng hơn bây giờ rất nhiều nếu như chính sách của Tổng thống không
thay đổi".
Chú
thích:
(76)
"Tôi tin tưởng chắcchắn rằng" - Tờ Thờibáo New York, 26-10-1961.
(77)
"Các quan chức nói"- Sđd, 4-11-1961.
(78)
"Đây là chính sách"- Schlesinger, 39.
(79)
"Mỗi bước tiến sâuhơn của Mỹ" - Sđd,47.
(80)
"Không hề chậm trễ","đã đi đến kết luận"- Tài liệu Lầu
NămGóc, Gravel xuất bản, tập2, tr. 90-92.
(81)
"làm cán cân nghiêng"- Sđd
(82)
"tự mình cam kết"- Sđd, 109.
(83)
"lời cảnh báo quamột số nguồn" - Sđd,108.
(84)
"Nếu Diệm không sẵnsàng" - Sđd, 105.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét