Lời
dẫn: Trong dịp Đại lễ 30/4 vừa qua, Google.tienlang đã đăng một số bài
lên án hiện tượng "viết lại lịch sử", "vinh danh chế độ ngụy quyền VNCH"
và "chạy tội cho đế quốc Mỹ. Tiếp nối chủ đề này, chúng ta cùng tìm hiểu việc "chạy tội cho Mỹ" của ông Nguyên Ngọc qua việc ông thay mặt Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh (một dang NGO trá hình) để trao giải thưởng của Quỹ cho một người Mỹ đang muốn tấn công vào lịch sử dân tộc Việt Nam qua những "công trình" xuyên tạc lịch sử....
Xin cảm ơn tác giả Nguyễn Đình qua bài phân tích dưới đây trên tạp chí Hồn Việt.
*************************************
Xin cảm ơn tác giả Nguyễn Đình qua bài phân tích dưới đây trên tạp chí Hồn Việt.
*************************************
KEITH WELLER TAYLOR là ai? |
|
NGUYỄN ĐÌNH |
|
Tối 24-3-2015, tại khách sạn
Caravelle ở TP.Hồ Chí Minh, Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh tổ chức trao
giải thưởng năm 2015 cho một số người, trong đó có Keith Weller Taylor
(KWT) (ảnh). Trong diễn văn đọc tại buổi lễ, nhà văn Nguyên Ngọc thay
mặt Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh ca tụng KWT hết lời: “Keith Taylor là
một trong những nhà Việt Nam học nổi tiếng nhất, cả ở Việt Nam, cả ở
nước ngoài”(1). Nguyên Ngọc nói tâng bốc thế thôi, chứ ở Việt Nam có
bao lăm người biết KWT là ai. Hãy nghe ông ta tự bạch(2)…
|
Tháng 5-1968, KWT tốt nghiệp đại học. Lúc
đó, do tác động của cuộc tổng tiến công của quân dân miền Nam Việt Nam,
chính phủ Mỹ không cho sinh viên tiếp tục hoãn dịch rộng rãi như trước.
KWT phải vào lính, hoặc “bị bắt quân dịch và bị gửi đi bất cứ nơi nào
để làm bất cứ một phận sự gì”, hoặc “chọn cho mình một nhiệm vụ trong
quân đội”. KWT chọn hướng thứ hai: ông ta xin gia nhập ngành quân báo
để được huấn luyện về tình báo và tiếng Việt trong hai năm với hy vọng
“may ra chiến tranh sẽ kết thúc trước khi năm học được hoàn tất”. Hy
vọng đó không thành sự thật, KWT bị gửi sang chiến trường Việt Nam năm
1970 với cấp bậc trung sĩ.
KWT kể: “Tôi nhận thấy một vấn đề ở Việt Nam: quân
đội Mỹ đang trong chiều hướng bị mất tinh thần. Sau khi công luận [ở
Mỹ] quay lưng lại với cuộc chiến vào năm 1968, phong trào phản chiến
thâm nhập vào quân đội Mỹ ở Việt Nam. Tất cả các vấn nạn thường thấy
trong cuộc chiến như xì ke, xung đột sắc tộc, bạo hành, giết hại nhau
và bất phục tùng đều là bằng chứng đã ảnh hưởng đến tinh thần tác chiến
của quân đội [Mỹ ở Việt Nam] và, ít ra theo hiểu biết của tôi, chúng
có liên quan đến sự kiện: do hệ quả của sự lãnh đạo tồi, [nhân dân]
nước Mỹ không còn ủng hộ chiến tranh, nhưng chúng tôi vẫn đang được kỳ
vọng phải tiếp tục chiến đấu. Các nhà lãnh đạo trong quân đội, cả quân
nhân lẫn dân sự, nhận ra sự cần thiết phải “tái phối trí” quân đội ra
khỏi Việt Nam [rút dần quân Mỹ về nước theo chiến lược Việt Nam hóa
chiến tranh] càng nhanh càng tốt để ngăn chặn tinh thần bất mãn lan
rộng sang các chiến tuyến khác trên thế giới. Trong khi đó, chúng tôi
đã được yêu cầu thử thời vận của mình như là “người tử trận cuối cùng ở
Việt Nam” (…). Rõ ràng tôi đã bị ảnh hưởng bởi não trạng bất mãn này.
Đối với tôi, dường như cuộc chiến đang bị thua (the war was being lost)
và chúng tôi, chỉ đơn giản là một hậu vệ có thể bị hy sinh. Tôi không
thích điều đó. Tôi trở nên nghi ngờ cấp trên của tôi, cảm nhận rằng sự
thất trận (the debacle) mà chúng tôi đang tham gia ít nhất đã
giúp cho sự nghiệp của họ cơ hội để thăng tiến, trong khi đối với những
phần tử còn lại trong chúng tôi chỉ còn một băn khoăn giữa sự sống hay
cái chết”.
May cho KWT, ông ta không chết ở Việt Nam mà chỉ bị
thương, được giải ngũ và trở về Mỹ giữa năm 1971 với tâm trạng “choáng
váng và mất phương hướng” (dazed and disoriented). Ông viết:
“Tôi đã giận dữ vì đã phải hy sinh tuổi trẻ của mình cho sự vô dụng của
người già”. Vì vậy, “trong hơn hai thập kỷ, tôi cưỡng lại tư tưởng của
bản thân rằng mình là một cựu chiến binh của cuộc chiến tranh Việt Nam.
Tôi muốn được trở về với cuộc sống và không được mô tả bởi câu chuyện
đau buồn đó. Tôi không thích Đài tưởng niệm ở Washington, D.C. với tên
của tất cả những người tử vong được khắc trên một bức tường đá. Đó là
đài tưởng niệm cho người chết, nhưng tôi là một người sống sót và bức
tường này không có liên hệ gì với tôi”.
Để “trở về với cuộc sống”, tháng 1-1972, KWT đã ghi
danh làm nghiên cứu sinh tại Đại học Michigan. Vì đã được học tiếng
Việt trước đó, KWT chọn lịch sử Việt Nam cổ đại (từ khi lập quốc đến
giữa thế kỷ 10) làm đề tài luận án, xem đó là “một lối thoát an lành
cho kinh nghiệm rối ren của cá nhân tôi đối với cuộc chiến Việt Nam”.
Luận án được bảo vệ năm 1976, được sửa sang lại thành sách, xuất bản
năm 1983 dưới nhan đề The Birth of Vietnam (Sự ra đời của Việt
Nam). KWT tránh chọn đề tài liên quan đến lịch sử Việt Nam hiện đại vì
không muốn đụng tới cuộc chiến tranh mà ông ta đã tham dự ở Việt Nam.
Lâu nay, hầu hết người Mỹ tự hào đất nước họ là siêu
cường số 1 thế giới, đánh đâu thắng đó, nên họ không thể nuốt trôi
thất bại thảm hại trước quân và dân một nước nhỏ bé chưa phát triển như
Việt Nam. Bên cạnh nỗi buồn chiến bại đó là mặc cảm tội lỗi vì nước Mỹ
đã ném bom, rải hóa chất độc, thảm sát, tra tấn… gây bao tang thương
chết chóc cho nhân dân Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu Mỹ chỉ ra những
sai lầm trong chính sách đối với Việt Nam của nhiều đời tổng thống Mỹ
suốt 30 năm sau thế chiến thứ hai (1945-1975). Sau một thời gian im
lặng, Robert McNamara, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, người được xem là
“kiến trúc sư của chiến tranh Việt Nam” đã lên tiếng thừa nhận: “Chúng
tôi đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp” (We were wrong, terribly wrong)(3).
Tuy chiến tranh Việt Nam đã kết thúc, nhưng vẫn tiếp tục phủ bóng đen
lên lương tâm người Mỹ. Tâm trạng đó được gọi là “hội chứng Việt Nam” (Vietnam Syndrome).
Từng tham chiến ở Việt Nam, KWT bị “hội chứng” ấy
dày vò. Ông ta tâm sự: “Rất nhiều năm, kinh nghiệm chiến trường của tôi
giống như một cục bướu lớn không tiêu hóa nổi vẫn nằm sâu trong tâm
thức”. Nếu thỉnh thoảng bị yêu cầu nói về chiến tranh Việt Nam, ông ta
thừa nhận: ”Tôi luôn ngán ngẩm khi phải làm điều đó, bởi vì nói chuyện
trước công chúng về cuộc chiến thường mang lại cho tôi cảm giác buồn
nôn”.
Một số người Mỹ hiếu chiến không muốn nước Mỹ đắm
chìm lâu dài trong “hội chứng Việt Nam”, sợ nó ảnh hưởng đến vai trò
của Mỹ trên trường quốc tế. Ronald Reagan lên tiếng kêu gọi: “Chúng ta
đã sống với “hội chứng Việt Nam” trong thời gian quá lâu… Năm tháng trôi
qua, người ta nói với chúng ta rằng hòa bình sẽ đến nếu chúng ta ngưng
can thiệp [vào các nước khác] và trở về nước [Mỹ]. Đã đến lúc chúng ta
thừa nhận rằng sự nghiệp của chúng ta [ở Việt Nam] là cao quý… Chúng
ta sẽ làm ô danh việc tưởng nhớ 50.000 thanh niên Mỹ đã chết trong sự
nghiệp ấy nếu chúng ta cứ cảm thấy phạm tội như thể chúng ta làm một
điều gì đó xấu hổ và chúng ta bủn xỉn trong việc đối xử với người [lính
từ Việt Nam] trở về”(4).
Sau lời hô hào của R. Reagan, khuynh hướng “xét lại chiến tranh Việt Nam” (Vietnam War Revisionism)
xuất hiện trong giới nghiên cứu lịch sử ở Mỹ nhằm biện hộ cho sự can
thiệp của Mỹ ở Việt Nam. KWT đã tìm đến khuynh hướng này để mong “vứt
bỏ cảm giác tội lỗi sai lầm về cuộc chiến tranh mà [ông ta] đã cưu mang
khoảng một phần tư thế kỷ”.
Năm 1998, ông ta viết bài Các xung đột vùng miền giữa các dân tộc Việt từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 19 (Regional
Conflicts among the Viêt Peoples between the 13th and 19th
Centuries)(5). Ngày 26-6-2003, trả lời phỏng vấn của đài BBC nước Anh,
ông ta muốn đưa ra “một cái nhìn mới về lịch sử Việt Nam”(6). Mùa thu
năm sau, trên tạp chí Michigan Quarterly Review, KWT giải thích “đã bắt đầu dạy về chiến tranh Việt Nam như thế nào”. Cách nay hai năm, KWT cho xuất bản cuốn Một lịch sử của người Việt Nam (A
History of the Vietnamese)(7). Trong cuốn sách này cũng như các bài
viết vừa kể, KWT tự phủ nhận những gì bản thân ông đã viết trong cuốn
sách đầu tiên The Birth of Vietnam.
Không khó để chỉ ra những sai lầm nghiêm trọng trong
kiến thức và nhận thức của KWT. Một số nhà nghiên cứu trong nước và
nước ngoài đã có bài phê bình. Chẳng hạn giáo sư Norman G. Owen đã đưa
ra một số nhận xét về cuốn A History of the Vietnamese như sau:
“Về việc Mỹ dính líu [ở Việt Nam], Taylor để lộ ra sự mâu thuẫn lớn trong suy nghĩ, và chương trọng yếu cuối cùng (“Từ hai nước trở thành một nước” từ
trang 561 đến 619) có lẽ là chương gây tranh cãi nhiều nhất. Ông ta
xuất hiện như người cuối cùng (…) bảo vệ chế độ Việt Nam Cộng hòa chống
lại cả những người Cộng sản (…) lẫn những người Mỹ (…). Ông ta không
biết hay tránh né việc những người tả khuynh phê phán Mỹ phá hoại Hội
nghị Genève năm 1954, khiêu khích hay ngụy tạo các sự kiện ở vịnh Bắc Bộ
năm 1964 (để có cớ mở rộng chiến tranh [ra miền Bắc]), phá hoại cuộc
đàm phán ở Paris năm 1968, “bí mật” ném bom Campuchia năm 1969 và tiến
hành vụ ném bom Hà Nội vào dịp lễ Chúa giáng sinh năm 1972 mà không có
lý do rõ ràng. Thay vào đó, ông ta lại phẫn nộ với Averell Harriman và
nhóm của ông này tại Bộ Ngoại giao [Mỹ] đã xúi giục việc lật đổ Ngô
Đình Diệm [mà Taylor gọi là] “thành tích gây tai họa nhất của Kennedy ở
Việt Nam” (tr.589) và với những người có trách nhiệm trong việc rút
lại sự ủng hộ của Mỹ [cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu] năm 1975 để cho
[Việt Nam] Cộng hòa phải “tử thương bởi một đồng minh lật lọng”
(tr.626) (…). Ông ta xem những cuộc đột nhập [của quân Mỹ và quân
Thiệu] vào Campuchia và Lào là tích cực trong việc tạo ra thời gian để
Việt Nam hóa chiến tranh và như vậy giúp chế độ Sài Gòn “thành công
trong việc ổn định miền Nam Việt Nam” (tr.606-607) ít ra là cho tới khi
Mỹ bán đứng chế độ Sài Gòn bằng Hiệp định hòa bình Paris năm 1973,
“vứt bỏ chủ quyền của Đệ nhị Cộng hòa” (tr.612-613)”.
Vẫn theo giáo sư N.G. Owen, trong cuốn sách trên,
Taylor cũng “đánh giá lại một vài lãnh tụ bị nhiều tiếng xấu ở miền
Nam”. Mặc dù thừa nhận họ có nhiều thiếu sót sai lầm, ông ta miêu tả Ngô
Đình Nhu là người có nhiều ý định dân chủ (tr.581, Taylor khẳng định
Nhu bị ghét vì ông duy trì an ninh có hiệu quả và chống lại sự giám hộ
của Mỹ, tr.577), Nguyễn Cao Kỳ tỏ ra “không có tì vết tham nhũng nào”
(tr.593) và Nguyễn Văn Thiệu - được [Taylor] ca tụng một cách yếu ớt
hơn - được coi là không “tham nhũng thái quá hay lạm quyền quá đáng”
(tr.607) v.v và v.v…(8)
Trong bài viết này, chúng tôi không có ý định kể ra
tất cả những sai lầm trong cuốn sách và các bài viết của KWT, mà chỉ
muốn tìm hiểu cái mà ông ta gọi là “một cái nhìn mới về lịch sử Việt Nam” gồm hai điểm sau đây:
1. Việt Nam không phải là một dân tộc thống nhất sống trên một lãnh thổ thống nhất
Đất nước Việt Nam trải dài trên 15 vĩ độ, từ đỉnh
Lũng Cú (23°22’59 Bắc đến mũi Cà Mau (8°30’ Bắc). Mặt khác, lãnh thổ
Việt Nam được mở rộng dần về phía Nam. Do đó, việc hình thành những vùng
miền là điều tự nhiên. Nhưng dù ở đâu và được ghi vào bản đồ Việt Nam
lúc nào, các vùng miền đó đều là những bộ phận hợp thành của một Tổ
quốc Việt Nam duy nhất và thống nhất.
Cường điệu một số điểm dị biệt giữa các vùng miền,
KWT chia nước Việt Nam thành ít nhất 5 vùng miền: Đông Kinh (tức vùng
đồng bằng sông Hồng, lấy Hà Nội làm trung tâm), Thanh Nghệ Tĩnh (gồm ba
tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh), Thuận Quảng (gồm bốn tỉnh Quảng
Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng), Bình
Định và Nam Bộ. Điều đáng nói là KWT buộc các vùng miền này phải thường
xuyên mâu thuẫn, đối kháng với nhau, thường xuyên xung đột với nhau:
“Trong những năm mà tôi đề cập, không có giai đoạn nào mà những người
nói tiếng Việt không đánh lẫn nhau hoặc giao chiến với các nước láng
giềng”.
Ứng dụng thuyết “xung đột vùng miền”, KWT xem cuộc
tranh chấp giữa nhà Mạc và nhà Lê trung hưng trong thế kỷ 16 như cuộc
xung đột giữa Đông Kinh với Thanh Nghệ: “Đông Kinh đã trung thành sâu
sắc với gia đình họ Mạc trong thế kỷ 16 và Đông Kinh đã cứng rắn chống
lại cuộc chinh phục của đoàn quân Thanh Nghệ vào cuối thế kỷ này”. KWT
nhận định: “Cuộc xung đột vùng giữa Đông Kinh và Thanh Nghệ là đặc điểm
nổi bật trong hình dung của chúng ta về một kinh nghiệm lịch sử Việt
Nam… Bắt đầu với Hồ Quý Ly và sau đó với Lê Lợi, Thanh Nghệ trở thành
khu vực của các vị vua và lãnh chúa có khao khát thống trị Đông Kinh”.
Tương tự như vậy, KWT giải thích sự phân tranh giữa
họ Trịnh và họ Nguyễn là cuộc xung đột giữa Đông Kinh và Thuận Quảng,
cuộc khởi nghĩa Tây Sơn là “sự phản ứng của vùng Bình Định trước những
yêu sách của các nhà cai trị Thuận Quảng áp đặt lên vùng này”. Vùng Bình
Định “sản sinh ra một nhân vật, Nguyễn Huệ, người dẫn quân từ lãnh thổ
này sang lãnh thổ khác và đã cố tìm cách thống nhất mọi khu vực của
người Việt dưới uy quyền của ông”. Sau khi Nguyễn Huệ qua đời, “Nguyễn
Ánh cuối cùng đã xây dựng nền tảng quyền lực tại Sài Gòn ở Nam Bộ và từ
đây đã đi chinh phục toàn bộ các vùng ở miền Bắc nơi người Việt sinh
sống, lập nên một vương quốc vào đầu thế kỷ 19 mà trước đó chưa bao giờ
tồn tại”.
Không chỉ người đọc Việt Nam cảm thấy chối tai trước những từ “xung đột”, “chinh phục” cứ
bị lặp đi lặp lại… mà người đọc nước ngoài cũng thấy không chịu được.
Chẳng hạn giáo sư N.G. Owen (đã nói ở trên) nhận xét: trong cuốn A History of the Vietnamese,
“các tiêu đề lớn nhỏ - về “Chiến tranh 70 năm”, “Chiến tranh 50 năm”,
“Chiến tranh 30 năm” - gợi lên ý nghĩ về các cuộc xung đột nồi da xáo
thịt đẫm máu và liên miên, nhưng không nói đến nhiều cuộc chiến tranh
với nước ngoài và vô số những cuộc nổi dậy. Kết quả là một bức tranh
chắp vá về mặt chính trị và văn hóa”(9).
Thuyết “xung đột vùng miền” của KWT xây dựng trên
những kiến thức và quan điểm sai lầm, nên không khó để bác bỏ. Thật ra,
những cuộc nội chiến nói trên xảy ra giữa hai thế lực chính trị - quân
sự có quyền lợi mâu thuẫn nhau. Chẳng hạn, chiến tranh Nam triều - Bắc
triều nổ ra giữa nhà Mạc (lật đổ nhà Lê) và nhà Lê trung hưng (tìm cách
lập lại ngai vàng của dòng họ mình); Trịnh - Nguyễn phân tranh xảy ra
giữa con cháu của Nguyễn Kim (người đầu tiên khởi xướng việc trung hưng
nhà Lê) và con cháu của Trịnh Kiểm (người bị xem là đã giết con trai
của Nguyễn Kim) v.v… Những thế lực này hoàn toàn không đại diện cho
quyền lợi của một vùng miền nào và chưa hẳn đã nhận được sự ủng hộ của
người dân trong vùng miền đó. Thái độ chính trị của một người không phụ
thuộc vào việc người đó ở một vùng miền nào. Không hiếm những người
thay đổi thái độ chính trị như cha con Nguyễn Thiến. Thiến làm thượng
thư nhà Mạc, hai con là Quyện và Miễn làm tướng của nhà Mạc, nhiều lần
cầm quân đánh nhau với nhà Lê. Do mâu thuẫn trong nội bộ nhà Mạc, ba
cha con dẫn quân bản bộ về hàng nhà Lê (1550). Năm sau, Quyện theo quân
nhà Lê ra đánh nhà Mạc. Năm 1557, sau khi cha qua đời, Quyện và Miễn
bỏ nhà Lê, trở về với nhà Mạc, lập nhiều chiến công. Năm 1592, Quyện và
Miễn bị nhà Lê bắt, sau bị giết. Thử hỏi KWT xếp ba cha con của Thiến
vào vùng miền nào?
Thuyết “xung đột vùng miền” trở nên nguy hiểm khi
KWT biến những cuộc chiến tranh xâm lược của nước ngoài thành nội
chiến, phủ nhận các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Chẳng hạn, nhà Minh xâm lược Việt Nam đầu thế kỷ 15.
KWT quả quyết: “Có nhiều bằng chứng cho thấy đa số sĩ phu ở Đông Kinh
sẵn sàng chấp nhận sự cai trị của quân Minh và rằng nhiều thế gia vọng
tộc ở khu vực này (…) đã trung thành phục vụ quân Minh (…). Hiệu lực sự
cai trị của nhà Minh đã không thể xảy ra nếu không có sự chấp nhận và
tham gia với mức độ lớn của người địa phương”. Theo KWT, “người Đông
Kinh nhìn Lê Lợi như một kẻ nổi loạn nhà quê”. “Không khó để đọc cái
gọi là phong trào giải phóng dân tộc của Lê Lợi như là cuộc chinh phục
của Thanh Nghệ đối với Đông Kinh, với việc nhiều nhân vật Đông Kinh xem
người Minh như thế lực bảo vệ [Đông Kinh] chống sự quê kệch của các
tỉnh phía Nam”.
Tương tự như thế, vào giữa thế kỷ 19, “khi vấn đề
bảo hộ của Pháp xuất hiện, giới tinh hoa Thuận Quảng ủng hộ việc hòa
hoãn và hợp tác [với thực dân Pháp] để cứu chế độ quân chủ, trong khi
các lãnh đạo Thanh Nghệ ủng hộ cuộc kháng chiến [chống Pháp]… Chính sự
chủ động của người Thanh Nghệ đã dẫn đến việc đưa hoàng gia thoát khỏi
Huế và kêu gọi “Cần vương” năm 1885… trong lúc các lãnh đạo Thuận Quảng
nhanh chóng hòa hoãn với Pháp chống lại các đối thủ Thanh Nghệ của
họ”.
Trong khi cường điệu sự xung đột vùng miền (không có
thật) giữa Đông Kinh - Thanh Nghệ hay giữa Thanh Nghệ - Thuận Quảng,
KWT cố tình che giấu tội ác xâm lược của nhà Minh hay của thực dân
Pháp.
Thuyết “xung đột vùng miền” không dừng lại ở đó. Trong bài điểm sách A History of the Vietnamese,
Liam C. Kelley (Đại học Hawaii, Mỹ) viết: “Qua cuốn sách dài hơi này,
Taylor nhiều lần lôi kéo sự chú ý của người đọc vào những kích thước
vùng miền của lịch sử Việt Nam. Đó là những căng thẳng giữa Thanh Hóa và
Thăng Long trong những thế kỷ trước hay giữa Sài Gòn và Hà Nội trong
thời gian gần đây hơn, chủ nghĩa địa phương đã là một nét đặc trưng lâu
dài trong trải nghiệm lịch sử của những người nói tiếng Việt…”(10).
Lời bình luận của L.C. Kelley để lộ thâm ý của KWT:
ông ta muốn dẫn dắt người đọc đi đến kết luận: chiến tranh trong hai
thập kỷ qua tại Việt Nam chỉ là “xung đột vùng miền” giữa miền Bắc và
miền Nam; miền Bắc kháng chiến chống Mỹ, còn miền Nam là đồng minh của
Mỹ; chứ không phải là chiến tranh của Mỹ xâm lược Việt Nam!
2. Việt Nam không có lịch sử và văn hóa thống nhất, phát triển liên tục
Theo KWT, “những người quyết tâm cai trị toàn bộ các
dân tộc Việt sẽ nhấn mạnh về một lịch sử và văn hóa Việt Nam đơn nhất,
với một cội nguồn duy nhất và một xung lực duy nhất xuyên suốt thời
gian và không gian. Nhưng những giấc mơ về tính độc nhất này là sự thể
hiện niềm tin chính trị, chứ không phải là điều nghiễm nhiên”.
Ngược lại, KWT chủ trương “chia lịch sử và văn hóa
Việt Nam thành từng khu vực” và cho rằng “lịch sử của mỗi vùng cũng đứt
đoạn”, cũng “mang tính chất giai đoạn, chứ không tiến triển liên tục”.
KWT không thừa nhận có một dân tộc Việt Nam thống
nhất và tồn tại liên tục hằng ngàn năm nay. Do đó, KWT dùng khái niệm
“những người nói tiếng Việt” (people who speak Vietnamese)
cùng sống trên mảnh đất hình chữ S. Những người nói tiếng Việt không
nhất thiết hợp thành một dân tộc Việt duy nhất, cũng như những người nói
tiếng Anh ở Mỹ, Anh, Canada, Australia, New Zealand… thuộc nhiều dân
tộc khác nhau.
Khái niệm “những người nói tiếng Việt” gợi cho chúng
ta nhớ lại mồ ma Thierry d’Argenlieu. Trong thông tư số 215/CP.Cab
ngày 15-1-1947, viên cao ủy Pháp tại Đông Dương này cấm dùng từ “Việt
Nam” trong các tài liệu chính thức, trên báo chí cũng như khi trò
chuyện; thay vào đó, ông ta bắt dùng cụm từ “ba xứ nói tiếng An Nam” (trois pays de langue annamite - ba xứ là Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ)(11).
KWT không thể chối bỏ một thực tế hiển nhiên là
người Việt từ đỉnh Lũng Cú đến mũi Cà Mau “đều nói một ngôn ngữ mà tất
cả đều hiểu”, nhưng vẫn gượng gạo đưa ra nhận xét: “Cái “ngôn ngữ
chung” đó là một lớp âm thanh, từ vựng và cú pháp tương đối hời hợt
[?!] mà ẩn bên dưới đó là những lớp sâu sắc hơn của những mô hình ngôn
ngữ vùng”, “bên dưới lớp âm thanh, ngữ âm, lời nói chung, hay bất kỳ
cách tưởng tượng nào của chúng ta về hiện tượng ngôn ngữ con người, là
những con người khác biệt mà cái nhìn của họ về bản thân và người khác
dựa vào địa hình vùng họ sống và dựa vào những trao đổi văn hóa có được
tại vùng đó”. Không chỉ khác biệt trong không gian, người Việt còn
khác biệt trong thời gian: “Người Việt thế kỷ 13, 15, 17 không giống
người Việt thế kỷ 20”! Như thế, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm khác với Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp!
Vì Việt Nam, theo KWT, không phải là một dân tộc
thống nhất và phát triển liên tục nên ông ta phủ nhận việc Việt Nam có
một lịch sử chung: “Ý tưởng về một “lịch sử chung” là một điều được
tưởng tượng và tranh luận, chứ không phải là một vấn đề hiển nhiên; nó
không phải là một di sản rõ rệt, mà đúng hơn, nó được nghĩ ra, dạy dỗ
và học từ thế hệ này sang thế hệ khác: nó là vấn đề truyền thụ. Một
“lịch sử chung của người Việt” là chuyện ý thức hệ và chính trị, không
phải là học thuật (…). Việc xây dựng một “lịch sử chung” nằm trong địa
hạt thần thoại”.
KWT cũng phủ nhận việc Việt Nam có một bản sắc văn
hóa dân tộc. Trước đây, các nhà viết sử thường nhận định “người Việt
Nam trở thành một loại người riêng biệt là nhờ một phản ứng chung hay
thống nhất trước mối đe dọa can thiệp của nước ngoài”. KWT bác bỏ điều
đó, cho đó “đơn giản là sự kiêu ngạo của cách viết sử [theo khuynh
hướng] dân tộc chủ nghĩa đã biến “tinh thần chống ngoại xâm” thành tố
chất vĩnh cửu trong “bản sắc Việt Nam””.
Song song với việc phủ nhận truyền thống “đánh giặc,
giữ nước” của dân tộc Việt Nam, KWT công khai bảo vệ chiến tranh xâm
lược mà Mỹ đã tiến hành nhiều nơi trên thế giới (trong đó có Việt Nam).
Trong khi “đối với một số học giả đồng nghiệp, lên
án Hoa Kỳ là một đế quốc, bạo quyền phát xít rất hợp thời trang”, thì
KWT “không còn cảm thấy bị đe dọa bởi những khẳng định vô căn cứ như
vậy”. KWT “chấp nhận tiền đề rằng Hoa Kỳ có một vai trò chính đáng,
thậm chí không thể tránh được, trong thế giới ngày nay”, “tin rằng
quyền lực toàn cầu trong tay của Hoa Kỳ nên được coi như là một trách
nhiệm, chứ không phải là một điều mà chúng ta cần phải xin lỗi”. Áp
dụng tiền đề đó vào trường hợp Việt Nam, KWT tuyên bố: “Tôi không thể
chấp nhận định lý rằng Hoa Kỳ không có lý do chính đáng để được can
thiệp vào Việt Nam”. Theo KWT, “yếu tố dẫn đến thất bại của Hoa Kỳ và
Nam Việt Nam [tức chế độ Diệm, Thiệu] không phải là thiếu ý chí và
quyết tâm, mà là một loạt các quyết định sai lầm trong chính quyền
Kennedy và Johnson đã kéo dài cuộc chiến đưa đến bế tắc, làm cạn kiệt sự
kiên nhẫn của người dân Mỹ”. Tóm lại, “bi kịch của Việt Nam không phải
là nước Mỹ đã can thiệp [vào Việt Nam] khi họ không nên can thiệp, mà
đúng hơn là sự can thiệp đã quá vụng về”.
KWT thường bác bỏ quan điểm sử học của Việt Nam
(trước kia cũng như hiện nay), cho đó là sử học dân tộc chủ nghĩa, sử
học chính trị hóa. Thực ra, KWT dưới lớp áo “sử gia” đã sử dụng sử học
để phục vụ những quan điểm chính trị sai trái, xuyên tạc lịch sử Việt
Nam, biện minh cho chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.
Thế nhưng, trong diễn văn ngày 24-3-2015 nói trên,
Nguyên Ngọc thay mặt cho Quỹ văn hóa Phan Chu Trinh, ca ngợi KWT là
“một người thật sự yêu đất nước này, muốn hiểu nó tận cùng như hiểu
chính mình, để cho đất nước anh hùng mà khổ đau này sống thật đàng
hoàng trong thế giới xiết bao khó nhọc ngày nay” và “cảm ơn KWT vì tình
yêu chân chính và nỗ lực trằn trọc của ông cho khoa học lịch sử Việt
Nam, cho Việt Nam”(12).
Nguyên Ngọc có biết ai là những người đã gây ra khổ đau cho đất nước này không?
Thật là mỉa mai khi Nguyên Ngọc tâng bốc KWT là
“người thật sự yêu đất nước này”. Phải chăng KWT yêu theo kiểu Nguyên
Ngọc đang yêu?
Cụ Phan Châu Trinh là chí sĩ hy sinh trọn đời mình
cho dân cho nước. Không ai có thể lợi dụng tên tuổi cụ để làm chuyện
phản quốc!
_____
(1) (12) www.quyphanchautrinh.org.
(2) Đoạn tự bạch này nằm trong bài How I Began to Teach about the Vietnam War (Tôi bắt đầu dạy về chiến tranh Việt Nam như thế nào) đăng trên Michigan Quarterly Review số mùa thu 2004. Chúng tôi sử dụng bản dịch của Thái Anh trên www.diendannguoidanvietnam.com nhưng xin phép sửa đôi chữ dịch chưa sát với nguyên văn (lost, legitimate…).
(3) Robert S. McNamara, In Retrospect - The Tragedy and Lessons of Vietnam (Hồi tưởng quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học ở Việt Nam), NXB Times Books, New York, 1995, tr.xvi.
(4) www.reagan.utexas.edu.
(5) Bài in trong sách Guerre et Paix en Asie du Sud-Est (Chiến
tranh và hòa bình ở Đông Nam Á) do NXB L’Harmattan ấn hành, Paris,
1998. Chúng tôi sử dụng bản dịch của Lê Quỳnh đăng trên tạp chí Xưa và Nay, số 269 và 270, tháng 10-2006.
(6) www.bbc.co.uk/vietnamese.
(7) Cambridge University Press ấn hành, New York, 2013.
(8) (9) http://asiapacific.anu.edu.au.
(10) Journal of Vietnamese Studies, vol. 9 (1), 1-1-2014.
(11) Philippe Devillers, Paris - Saigon - Hanoi, les archives de la guerre 1944-1947 (Paris - Sài Gòn - Hà Nội, hồ sơ lưu trữ chiến tranh 1944-1947), NXB Gallimard/Julliard, Paris, 1988, tr.336.
Hắn là một tên CIA chính hiệu. "Quỹ văn hóa Phan Chu Trinh" và "Quỹ nghiên cứu Biển Đông" cũng vậy thôi cô chủ à.
Trả lờiXóaCIA nào mà tuyển chọn một ông già sớm nắng chiều mưa, nửa quên nửa nhớ, hành xử thua một đứa con nít, tư thù chế độ, thỏa cái hận cuối đời, làm tất, kể cả xéo dày, bôi đen sử thiêng dân tộc. Nguyên Ngọc ơi, có thể ông cảm nhận rằng'trâu già không nệ dao phay', nhưng ông quên rằng cái ngày phải đối mặt với tiền nhân ở cõi xa sắp cận kề ông rồi đấy. Đừng sụp lạy, van xin dưới chân Cụ tiên sinh họ Phan đất Quang nhé, ông nhé!
XóaGõ sót dấu: đất Quảng. Xin lỗi!
XóaCông dân Mỹ và CIA ở VN đầy. Mồm thì tuyên truyền lên án Mỹ trong cả hiện tại nhưng con cháu vẫn cứ ùn ùn qua định cư du học Mỹ, mua nhà Mỹ. Chả hiểu nổi. Đấy cán bộ cấp cao Bộ Ngoại Giao-Đặng Xương Hùng trở cờ khi vợ con gia đình định cư bên xứ TB. Bao nhiêu VNĐ thì mua được nhà bên đó ? Còn bao nhiêu ông giống như ông Hùng nhưng chưa trở có nên mọi người chưa biết ?
XóaTôi nói CIA là thằng Mỹ KWT kìa, chứ ông Nguyên Ngọc thì loại "trâu già không sợ dao phay" thì nói làm gì.
XóaCàng về già, càng tham, đó là bản chất của những tên cơ hội chính trị, những kẻ việt gian bán nước tay sai của ngoại bang, chia rẽ dân tộc, vùng miền chống phá đất nước tâng bốc với quan thày ngoại bang để kiếm xèng lẻ chúng quăng cho gặm. Nguyên Ngọc và những kẻ như Nguyên Ngọc bản chất của chúng là như thế đấy. Lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam tiếp nối qua từng giai đoạn lịch sử khác nhau giai đoạn nào cũng có những kẻ như: Kều Công Tiễn, Trần Ích tắc, Lê Chiêu Thống, Nguyễn Ánh, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiêu và ngày nay Nguyên Ngọc và những kẻ như hắn bắt chước chúng kiếm xèng ngoại bang bằng biến mình thành tên nô lệ cho giặc, gâu theo ý của chúng, mơ được chúng ban cho tước phẩm như Tiễn, Tắc, Thống, Ánh, Diệm, Thiệu....Mà lờ đi Lịch sự Việt nam còn có Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Hồ Chí Minh....với những Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điên Biên Phủ, Xuân 1968, xuân 1975 thì những tên giặc ngoại bang và nũ việt gian hãy cứ mãi mơ chia rẽ vùng, miền, dân tộc này để ước ao cai trị và tâng bốc kiếm xèng đi nhé.!
Trả lờiXóanhảm,thiếu hiểu biết.
XóaMình chưa đọc sách của Keith nên không dám nói nhiều, nhưng nếu ổng lý luận như trong bài đã phân tích thì hễ trong nước có 2 phe đánh nhau thì nước đó có 2 dân tộc, chứ không còn là một???? Cái này mà áp dụng cho toàn thế giới thì không biết phải tưởng tượng thế nào nữa.
Trả lờiXóa4rum Diễn đàn lịch sử Việt Nam, loại lớn về lịch sử bây giờ cũng có mấy thằng Mod mất dạy công khai bảo kê cho đám cờ vàng, nặc nô dặt dẹo chống cộng.
Trả lờiXóaPhản động bây giờ ngo ngoe bò ra khắp nơi, lúc nhúc như giòi bọ, đập chết con này con khác ngóc đầu dậy.
http://lichsuvn.net/forum/forum.php
Lãnh đạo kiểu gì mà để phản động bò lúc nhúc như giòi vậy. Vậy thì trảm lãnh đạo đi. Làm ko xong việc thì nhấn nút biến đi
Xóa4rum Diễn đàn lịch sử Việt Nam đang cầm..c...cho chóa đái.
XóaNhững lời tự thú của ông ta trong quá trình ông ta là quân nhân đã thể hiện rõ rằng cuộc chiến tranh xâm lược của họ ở Việt Nam bị chính nhân dân Mỹ quay lưng lại với chính phủ Mỹ, họ đã tạo ra cuộc chiến tranh phi nghĩa mà không phải chỉ mỗi người dân Việt Nam hứng chịu mà toàn thể nhân dân Mỹ cũng phải chịu đựng.
Trả lờiXóaTên nhà văn này mình chưa nghe thấy bao giờ. Gì mà là nhà Tiếng Việt học nổi tiếng không chỉ cả ở Mỹ mà còn cả ở Việt Nam chứ. May ra nổi tiếng trong giới phản động lưu vong chứ hay ho gì. Mà hắn đến với Tiếng Việt nào có phải từ sự yêu thích đâu, chẳng qua là trốn tránh việc cực khổ trên chiến trường nên mới đi theo hướng đó thôi. Mà đã là sự đối phó thì lấy đâu ra sự yêu thích, am hiểu ngôn ngữ Việt Nam chứ
Trả lờiXóaÔng ta là một người viết nhiều về lịch sử Việt Nam nhưng với một quan điểm trái chiều. Có thể hiểu thôi vì ông ta không phải người Việt, sao hiểu được Việt Nam và những gì ông ta được biết chỉ là quan điểm cá nhân của những ngươi cung cấp cho ông ta.
Trả lờiXóaChia rẽ để cai trị đó là bản chất của kẻ xâm lươc, tâng bốc chúng là lẽ tự nhiên của những kẻ việt gian, cơ hội chính trị bán nước cầu vinh kiếm xèng chủ ngoại bang quăng cho gặm cùng, con, cháu sống kiếp nặc nô thấy thế là sung sướng, dân chủ, tự do!
Trả lờiXóaVới quan điểm sai trái bẩn thỉu của Tâylor thì bức tranh lịch sử VN rất u tối cả chặn đường mấy ngàn năm lịch sử đều toàn là chiến tranh vùng miền, cuộc chiến đánh ngoại xâm nào cũng là nội chiền vùng miền, như kháng chiến chống giặc Thanh thì là chiến tranh giữa phe Tây Sơn Nam Hà và phe hoàng Lê Bắc Hà, viện binh nhà Mãn Thanh chỉ là đội quân giúp đỡ. Tất nhiên do thân phận là cựu binh Mỹ thì mục đích thâm ý, ý đồ của Tâylor là biện minh cho cuộc chiến xâm lược của Mỹ ở MNVN trước năm 75, biến nó thành nội chiến Nam Bắc như tâm lý chiến Mỹ ngụy vẫn lu loa xưa nay, xuyên tạc bóp méo cuộc kháng chiến chống giặc Mỹ của nhân dân ta.
Trả lờiXóaNhư bao ngàn năm, mục tiêu và bản chất của bọn xâm lược thực dân tư bản luôn luôn là 'chia để trị'. Chúng xâm lược một nước và bảo đó là cuộc nội chiến chia rẽ 'nồi da xáo thịt', 'nội chiến tương tàn' giữa quân kháng chiến và phe phản bội, còn chúng nó thì không xâm lược mà chỉ là 'giúp đỡ' phe phản bội. Và từng bước nặn ra sự 'chính danh' cho phe phản bội của nước đó, 'hợp thức hóa' phe phản bội đó (!).
Trả lờiXóa