(Ký kết ngày 10 tháng 12 năm 1982)
CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN CỦA CÔNG ƯỚC
Với lòng mong muốn giải quyết, trên tinh thần hiểu biết và
hợp tác với nhau, mọi vấn đề liên quan đến luật biển, và ý thức được tầm vóc
lịch sử của Công ước là một cống hiến quan trọng vào việc giữ gìn hòa bình,
công lý và tiến bộ cho tất cả các dân tộc trên thế giới;
Nhận thấy rằng, những sự kiện mới nảy sinh kể từ các Hội
nghị của Liên hợp quốc về luật biển được nhóm họp tại Giơnevơ năm 1958 và năm
1960, đã làm tăng thêm sự cần thiết phải có một Công ước mới về luật biển có
thể được mọi người chấp nhận;
Ý thức rằng, những vấn đề về các vùng biển có liên quan chặt
chẽ với nhau và cần được xem xét một cách đồng bộ;
Thừa nhận rằng, điều đáng mong muốn là, bằng Công ước với sự
quan tâm đúng mức đến chủ quyền của tất cả các quốc gia, thiết lập được một
trật tự pháp lý cho các biển và đại dương làm dễ dàng cho việc sử dụng công
bằng và hiệu quả những tài nguyên, việc bảo tồn những nguồn lợi sinh vật của
các biển và các đại dương, việc nghiên cứu, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;
Cho rằng, việc thực hiện các mục tiêu này sẽ góp phần thiết
lập nên một trật tự kinh tế quốc tế đúng đắn và công bằng, trong đó có tính đến
các lợi ích và nhu cầu của toàn thể loài người và đặc biệt là các lợi ích và
nhu cầu riêng của các nước đang phát triển, dù có biển hay không có biển;
Mong muốn phát triển bằng Công ước, các nguyên tắc trong
Nghị quyết 2749 (XXV) ngày 17 tháng 12 năm 1970, trong đó Đại hội đồng Liên hợp
quốc đã đặc biệt trịnh trọng tuyên bố rằng khu vực đáy biển và đại dương, cũng
như lòng đất dưới đáy các khu vực nằm ngoài giới hạn chung của loài người và
việc thăm dò, khai thác khu vực này sẽ được tiến hành vì lợi ích của toàn thể loài
người, không phụ thuộc vào vị trí địa lý của các quốc gia;
Tin tưởng rằng, việc pháp điển hóa và sự phát triển theo
chiều hướng tiến hóa của Luật biển được thực hiện trong Công ước sẽ góp phần
tăng cường hòa bình, an ninh, hợp tác và quan hệ hữu nghị giữa tất cả các dân
tộc phù hợp với các nguyên tắc công bằng và bình đẳng về quyền, và sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho tiến bộ về kinh tế và xã hội của tất cả các dân tộc trên thế
giới, phù hợp với các mục tiêu và các nguyên tắc của Liên hợp quốc như đã được nêu
trong Hiến chương;
Khẳng định rằng, các vấn đề không quy định trong Công ước sẽ
tiếp tục được xử lý bằng các quy tắc và nguyên tắc của pháp luật quốc tế chung;
Đã thỏa thuận như sau:
1. Những thuật ngữ được sử dụng trong Công ước cần được hiểu
như sau:
1. “Vùng” (Zone): là đáy biển và lòng đất dưới đáy
biển nằm bên ngoài giới hạn quyền tài phán quốc gia;
2. “Cơ quan quyền lực” (Autorité): là cơ quan quyền lực
quốc tế về đáy biển;
3. “Các hoạt động được tiến hành trong Vùng” (activités
menées dans la Zone): là mọi hoạt động thăm dò và khai thác các tài nguyên của
Vùng;
4. “Ô nhiễm môi trường biển” (Pullution du milieu
marin): là việc con người trực tiếp hoặc gián tiếp đưa các chất liệu hoặc năng
lượng vào môi trường biển, bao gồm cả các cửa sông, khi việc đó gây ra hoặc có thể
gây ra những tác hại như gây tổn hại đến nguồn lợi sinh vật, và đến hệ động vật
và hệ thực vật biển, gây nguy hiểm cho sức khỏe con người, gây trở ngại cho các
hoạt động ở biển, kể cả việc đánh bắt hải sản và các việc sử dụng biển một cách
hợp pháp khác, làm biến đổi chất lượng nước biển về phương diện sử dụng nó và
làm giảm sút các giá trị mỹ cảm của biển;
5. a) “Sự nhận chìm” (immersion) là:
i. mọi sự trút bỏ có ý thức xuống biển các chất thải hoặc
các chất khác từ các tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hoặc công trình khác
được bố trí ở biển.
ii. mọi sự đánh chìm tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi
hoặc các công trình khác được bố trí ở biển.
b) Thuật ngữ “nhận chìm” không nhằm vào:
i. việc vứt bỏ các chất thải hoặc các chất khác được sản
sinh trực tiếp hoặc gián tiếp trong việc khai thác bình thường của tàu thuyền, phương
tiện bay, giàn nổi hoặc các công trình khác được bố trí trên biển, cũng như các
thiết bị của chúng, ngoại trừ các chất thải hoặc các chất khác được chuyên chở
hoặc chuyển tài trên các tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hoặc các công
trình khác bố trí ở biển được dùng để thải bỏ các chất đó, trên các tàu thuyền,
phương tiện bay, giàn nổi hay các công trình đó tạo ra;
ii. việc tàng chứa các chất với mục đích không phải chỉ là để
thải bỏ chúng với điều kiện là việc tàng chứa này không đi ngược lại những mục
đich của Công ước.
2.1 “Các quốc gia thành viên” (Etats Parties) là
những quốc gia đã chấp nhận sự ràng buộc của Công ước và Công ước có hiệu lực
đối với các quốc gia đó.
2. Công ước được áp dụng mulatis mutandis (với những thay
đổi cần thiết về chi tiết) cho những thực thể nói trong Điều 305 khoản 1, điểm
b, c, d, e và f đã trở thành thành viên của Công ước, theo đúng với các điều
kiện liên quan đến từng thực thể; trong giới hạn đó, thuật ngữ “quốc gia thành
viên” cũng dùng để chỉ những thực thể này.
Chủ quyền của quốc gia ven biển được mở rộng ra ngoài lãnh
thổ và nội thủy của mình, và trong trường hợp một quốc gia quần đảo, ra ngoài vùng
nước quần đảo, đến một vùng biển tiếp liền, gọi là lãnh hải (merterritoriale)
Chủ quyền này được mở rộng đến vùng trời trên lãnh hải, cũng
như đến đáy và lòng đất của biển này.
Chủ quyền của Công ước và các quy tắc khác của pháp luật
quốc tế trù định.
Mọi quốc gia đều có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải của
mình; chiều rộng này không vượt quá 12 hải lý kể từ đường cơ sở được vạch ra theo
đúng Công ước.
Ranh giới phía ngoài của lãnh hải là một đường mà mỗi điểm ở
trên đường đó cách điểm gần nhất của đường cơ sở một khoảng cách bằng chiều
rộng của lãnh hải.
Trừ khi có quy định trái ngược của Công ước, đường cơ sở thông
thường dùng để tính chiều rộng lãnh hải là ngấn nước triều thấp nhất dọc theo
bờ biển, như được thể hiện trên các hải đồ tỷ lệ lớn đã được quốc gia ven biển
chính thức công nhận.
Trong trường hợp những bộ phận đảo cấu tạo bằng san hô hoặc
các đảo có đá ngầm ven bờ bao quanh, thì đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
lãnh hải là ngấn nước triều thấp nhất ở bờ phía ngoài cũng của các mỏm đá, như đã
được thể hiện trên các hải đồ được quốc gia ven biển chính thức công nhận.
1. Ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một
chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển, phương pháp đường cơ sở thẳng
nối liền các điểm thích hợp có thể được sử dụng để kẻ đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải.
2. Ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn định do có một châu thổ
và những đặc điểm tự nhiên khác, các điểm thích hợp có thể được lựa chọn dọc
theo ngấn nước triều thấp nhất có chuyển dịch vào phía trong bờ, các đường cơ sở
đã được vạch ra vẫn có hiệu lực cho tới khi các quốc gia ven biển sửa đổi đúng
theo Công ước.
3. Tuyến các đường cơ sở không được đi chệch quá xa hướng
chung của bờ biển, và các vùng biển ở bên trong các đường cơ sở này phải gắn
với đắt liền đủ đến mức đạt được chế độ nội thủy.
4. Các đường cơ sở thẳng không được kéo đến hoặc xuất phát
từ các bãi cạn lúc nổi lúc chìm, trừ trường hợp ở đó có những đèn biển hoặc các
thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc việc vạch các đường cơ sở
thẳng đó đã được sự thừa nhận chung của quốc tế.
5. Trong những trường hợp mà phương pháp kẻ đường cơ sở
thẳng được áp dụng theo khoản 1, khi ấn định một số đoạn đường cơ sở có thể
tính đến những lợi ích kinh tế riêng biệt của khu vực đó mà thực tế và tầm quan
trọng của nó đã được một quá trình sử dụng lâu dài chứng minh rõ ràng.
6. Phương pháp đường cơ sở thẳng do một quốc gia áp dụng không
được làm cho lãnh hải của một quốc gia khác bị tách khỏi biển cả hoặc một vùng
đặc quyền kinh tế.
1. Trừ trường hợp đã được quy định ở Phần IV, các vùng nước
ở phía bên trong đường cơ sở của lãnh hải thuộc nội thủy của quốc gia.
2. Khi một đường cơ sở thẳng được vạch ra theo đúng phương
pháp được nói ở Điều 7 gộp vào nội thủy các vùng nước trước đó chưa được coi là
nội thủy, thì quyền đi qua không gây hại nói trong Công ước vẫn được áp dụng ở
các vùng nước đó.
Nếu một con sông đổ ra biển mà không tạo thành vụng thì
đường cơ sở là một đường thẳng được kẻ ngay qua cửa sông nối liền các điểm
ngoài cùng của ngấn nước triều thấp nhất ở hai bên bờ sông.
1. Điều này chỉ liên quan đến những vịnh mà bờ vịnh thuộc
một quốc gia duy nhất.
2. Trong Công ước, “Vịnh” (baie) cần được hiểu là một vùng
lõm sâu rõ rệt
vào đất liền mà chiều sâu của vùng lõm đó so sánh với chiều
rộng ở ngoài cửa của nó đến mức là nước của vùng lõm đó được bờ biển bao quanh
và vùng đó lõm sâu hơn là một sự uốn cong của bờ biển. Tuy nhiên, một vũng lõm
chỉ được coi là một vịnh nếu như diện tích của nó ít nhất cũng bằng diện tích
một nửa hình tròn có đường kính là đường thẳng kẻ ngang qua cửa vào của vùng
lõm.
3. Diện tích của một vùng lõm được tính giữa ngấn nước triều
thấp nhất dọc theo bờ biển của vùng lõm và đường thẳng nối liền các ngấn nước
triều thấp nhất ở các điểm của cửa vào tự nhiên. Nếu do có các đảo mà một vùng
lõm có nhiều cửa vào, thì nửa hình tròn nói trên có đường kính bằng tổng số
chiều dài các đoạn thẳng cắt ngang các cửa vào đó. Diện tích của các đảo nằm
trong một vùng lõm được tính vào diện tích chung của vùng lõm.
4. Nếu khoảng cách giữa các ngấn nước triều thấp nhất ở các
điểm của cửa vào tự nhiên một vịnh không vượt quá 24 hải lý, thì đường phân
giới có thể được vạch giữa hai ngấn nước triều thấp nhất này và vùng nước ở
phía bên trong đường đó được coi là nội thủy.
5. Khi khoảng cách giữa các ngấn nước triều thấp nhất ở các
điểm của cửa vào tự nhiên của một vịnh vượt quá 24 hải lý, thì được kẻ một đoạn
đường cơ sở thẳng dài 24 hải lý ở phía trong vịnh, sao cho phía trong của nó có
một diện tích nước tối đa.
6. Các quy định trên đây không áp dụng đối với các vịnh gọi
là “vịnh lịch sử” và cũng không áp dụng đối với các trường hợp làm theo phương
pháp đường cơ sở thẳng được trù định trong Điều 7.
Để ấn định ranh giới lãnh hải, các công trình thiết bị thường
xuyên là bộ phận hữu cơ của một hệ thống cảng, nhô ra ngoài khơi xa nhất, được
coi là thành phần của bờ biển. Các công trình thiết bị ở ngoài khơi xa bờ biển
và các đảo nhân tạo không được coi là những công trình thiết bị cảng thường
xuyên.
Các vũng tàu được dùng thường xuyên vào việc xếp dỡ hàng hóa
và làm khu neo tàu, bình thường nằm hoàn toàn hoặc một phần ở ngoài đường ranh
giới bên ngoài của lãnh hải cũng được coi như là bộ phận của lãnh hải.
1. “Bãi cạn lúc chìm lúc nổi” (haut-fonds découvrants) là những
vùng đất nhô cao tự nhiên có biển bao quanh, khi thủy triều xuống thấp thì lộ
ra, khi thủy triều lên cao thì bị ngập nước. Khi toàn bộ hay một phần bãi cạn đó
ở cách lục địa hoặc một đảo một khoảng cách không vượt quá chiều rộng của lãnh
hải, thì ngấn nước triều thấp nhất ở trên các bãi cạn này có thể được dùng làm
đường cơ sở để tính chiều rộng của lãnh hải.
2. Khi các bãi cạn lúc chìm lúc nổi hoàn toàn ở cách lục địa
hoặc một đảo một khoảng cách vượt quá chiều rộng của lãnh hải, thì chung không
có lãnh hải riêng.
Quốc gia ven biển, tùy theo hoàn cảnh khác nhau, có thể vạch
ra các đường cơ sở theo một hay nhiều phương pháp được trù định ở các điều nói
trên.
Khi hai quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau,
không quốc gia nào được quyền mở rộng lãnh hải ra quá đường trung tuyến mà mọi
điểm nằm trên đó cách đều các điểm gần nhất của các đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có sự thỏa thuận ngược lại. Tuy
nhiên, quy định này không áp dụng trong trường hợp do có những danh nghĩa lịch
sử hoặc có các hoàn cảnh đặc biệt khác cần phải hoạch định ranh giới lãnh hải
của hai quốc gia một cách khác.
1. Các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải được
vạch ra theo đúng các Điều 7, 9 và 10 hoặc các ranh giới hình thành từ các điều
đó và các đường hoạch định ranh giới được vạch ra đúng theo các Điều 12 và 15,
được thể hiện trên các hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định được vị trí của
nó. Nếu không, thì có thể thay thế bằng một bản kê các tọa độ địa lý các điểm,
có ghi rõ hệ thống trắc địa đã được sử dụng.
2. Quốc gia ven biển công bố theo đúng thủ tục các hải đồ
hay các bản kê các tọa độ địa lý và gửi đến Tổng thư ký Liên hợp quốc một bản
để lưu chiếu.
Với điều kiện phải chấp hành Công ước, tàu thuyền của tất cả
các quốc gia, có biển hay không có biển, đều được hưởng quyền đi qua không gây hại
trong lãnh hải.
1. “Đi qua” là đi ở trong lãnh hải, nhằm mục đích
a) Đi ngang qua nhưng không đi vào nội thủy, không đậu lại
trong một vũng tàu hoặc một công trình cảng ở bên ngoài nội thủy; hoặc
b) Đi vào hoặc rời khỏi nội thủy, hoặc đậu lại hay rời khỏi
một vũng tàu hay một công trình cảng trong nội thủy.
2. Việc đi qua phải liên tục và nhanh chóng. Tuy nhiên, việc
đi qua bao gồm cả việc dừng lại và thả neo, nhưng chỉ trong trường hợp gặp phải
những sự cố thông thường về hàng hải hoặc vì một trường hợp bất khả kháng hay
mắc nạn hoặc vì mục đích cứu giúp người, tàu thuyền hay phương tiện bay đang
lâm nguy hoặc mắc nạn.
1. Việc đi qua là không gây hại, chừng nào nó không làm
phương hại đến hòa bình, trật tự hay an ninh của quốc gia ven biển. Việc đi qua
không gây hại cần phải được thực hiện theo đúng với các quy định của Công ước
và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế.
2. Việc đi qua của một tàu thuyền nước ngoài bị coi như
phương hại đến hòa bình, trật tự hay an ninh của quốc gia ven biển, nếu như ở
trong lãnh hải, tàu thuyền này tiến hành một trong bất kỳ hoạt động nào sau
đây:
a) Đe dọa hoặc dùng vũ lục chống lại chính quyền, toàn vẹn
lãnh thổ hoặc độc lập chính trị của quốc gia ven biển hay dùng mọi cách khác
trái với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế đã được nêu trong Hiến chương
Liên hợp quốc;
b) Luyện tập hoặc diễn tập với bất kỳ kiểu loại vũ khí nào;
c) Thu nhập tình báo gây thiệt hại cho quốc phòng hay an
ninh của quốc gia ven biển;
d) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện bay;
e) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện quân
sự;
f) Tuyên truyền nhằm làm hại đến quốc phòng hay an ninh của
quốc gia ven biển;
g) Xếp hoặc dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống
tàu trái với các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, y tế hoặc nhập cư của
quốc gia ven biển;
h) Gây ô nhiễm cố ý và nghiêm trọng, vi phạm Công ước;
i) Đánh bắt hải sản;
j) Nghiên cứu hay đo đạc;
k) Làm rối loạn hoạt động của mọi hệ thống giao thông liên
lạc hoặc mọi trang thiết bị hay công trình khác của quốc gia ven biển;
l) Mọi hoạt động khác không trực tiếp quan hệ đến việc đi
qua.
Ở trong lãnh hải, tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác
buộc phải đi nổi và phải treo cờ quốc tịch.
1. Quốc gia ven biển có thể định ra, phù hợp với các quy
định của Công ước và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế, các luật và quy
định liên quan đến việc đi qua không gây hại ở trong lãnh hải của mình về các
vấn đề sau đây:
a) An toàn hàng hải và điều phối giao thông đường biển;
b) Bảo vệ các thiết bị và các hệ thống bảo đảm hàng hải và
các thiết bị hay công trình khác;
c) Bảo vệ các đường giây cáp và ống dẫn;
d) Bảo tồn tài nguyên sinh vật biển;
e) Ngăn ngừa những sự vi phạm các luật và quy định của quốc
gia ven biển liên quan đến việc đánh bắt;
f) Gìn giữ môi trường của quốc gia ven biển và ngăn ngừa,
hạn chế, chế ngự ô nhiễm môi trường;
g) Nghiên cứu khoa học biển và đo đạc thủy văn;
h) Ngăn ngừa những sự vi phạm các luật và quy định về hải
quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư của quốc gia ven biển;
2. Các luật và quy định này không áp dụng đối với cách thiết
kế, việc đóng hoặc đối với trang bị của tàu thuyền nước ngoài, nếu chúng không
có ảnh hưởng gì đến các quy tắc hay quy phạm quốc tế được chấp nhận chung.
3. Quốc gia ven biển công bố theo đúng thủ tục các luật và
quy định này.
4. Khi thực hiện quyền đi qua không gây hại ở trong lãnh hải
tàu thuyền nước ngoài phải tuân thủ các luật và quy định này, cũng như tất cả
các quy định quốc tế được chấp nhận chung có liên quan đến việc phòng ngừa đâm
va trên biển.
1. Quốc gia ven biển khi cần bảo đảm an toàn hàng hải có thể
đòi hỏi tàu thuyền nước ngoài đi qua không gây hại trong lãnh hải của mình phải
đi theo các tuyến đường do mình ấn định và phải tôn trọng các cách bố trí phân chia
các luồng giao thông do mình quy định nhằm điều phối việc qua lại các tàu
thuyền.
2. Đặc biệt, đối với các tàu xi-teec (navires-citernes), các
tàu có động cơ chạy bằng năng lượng hại nhân và các tàu chở các chất hay các
nguyên liệu phóng xạ hoặc các chất khác vốn nguy hiểm hay độc hại, có thể bị
bắt buộc chỉ được đi theo các tuyến đường này.
3. Khi ấn định các tuyến đường và quy định cách bố trí phân
chia luồng giao thông theo điều này, quốc gia ven biển lưu ý đến:
a) Các kiến nghị của tổ chức quốc tế có thẩm quyền;
b) Tất cả các luồng lạch thường được sử dụng cho hàng hải
quốc tế;
c) Các đặc điểm riêng của một số loại tàu thuyền và luồng
lạch;
d) Mật độ giao thông.
4. Quốc gia ven biển ghi rõ các tuyến đường và các cách phân
chia luồng giao thông nói trên lên hải đồ và công bố theo đúng thủ tục.
Các tàu thuyền nước ngoài có động cơ chạy bằng năng lượng
hạt nhân cũng như các tàu thuyền chuyên chở các chất phóng xạ hay các chất khác
vốn nguy hiểm hay độc hại, khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh
hải, buộc phải mang đầy đủ các tài liệu và áp dụng những biện pháp phòng ngừa
đặc biệt theo quy định của các điều ước quốc tế đối với loại tàu thuyền đó.
1. Quốc gia ven biển không được cản trở quyền đi qua không
gây hại của các tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải, ngoài những trường hợp mà
Công ước đã trù định. Đặc biệt khi áp dụng Công ước, quốc gia ben biển không
được:
a) Áp đặt cho các tàu thuyền nước ngoài những nghĩa vụ dẫn
đến việc cản trở hay hạn chế việc thực hiện quyền đi qua không gây hại của các
tàu thuyền này;
b) Phân biệt đối xử về mặt pháp lý hay về mặt thực tế đối
với các tàu thuyền chở hàng từ một quốc gia nhất định hay đến quốc gia đó hoặc
nhân danh một quốc gia nhất định.
2. Quốc gia ven biển thông báo thích đáng mọi nguy hiểm về
hàng hải của mình biết trong lãnh hải của mình.
1. Quốc gia ven biển có thể thi hành các biện pháp cần thiết
trong lãnh hải của mình để ngăn cản mọi việc đi qua có gây hại.
2. Đối với tàu thuyền đi vào vùng nội thủy hay vào một công
trình cảng ở bên ngoài vùng nội thủy đó, quốc gia ven biển cũng có quyền thi
hành những biện pháp cần thiết để ngăn ngừa mọi sự vi phạm đối với các điều
kiện mà tàu thuyền này buộc phải tuân theo để được phép vào vùng nội thủy hay
công trình cảng nói trên.
3. Quốc gia ven biển có thể tạm thời đình chỉ việc thực hiện
quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài tại các khu vực nhất định
trong lãnh hải của mình, nếu biện pháp này là cần thiết để bảo đảm an ninh của
mình, kể cả để thử vũ khí, nhưng không được phân biệt đối xử về mặt pháp lý hay
về mặt thực tế giữa các tàu thuyền nước ngoài. Việc đình chỉ này chỉ có hiệu
lực sau khi đã được công bố theo đúng thủ tục.
1. Không được thu lệ phí đối với tàu thuyền nước ngoài đi
qua lãnh hải, nếu không phải vì lý do trả công cho những dịch vụ riêng đối với
những tàu thuyền này. Khi thu lệ phí đó không được phân biệt đối xử.
1. Quốc gia ven biển không được thực hiện quyền tài phán
hình sự của mình ở trên một tàu nước ngoài đi qua lãnh hải để tiến hành việc
bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm sau một vụ vi phạm hình sự xảy ra trên con
tàu trong khi nó đi qua lãnh hải, trừ các trường hợp sau đây:
a) Nếu hậu quả của vụ vi phạm đó mở rộng đến quốc gia ven
biển;
b) Nếu vị vi phạm có tính chất phá hoại hòa bình của đất
nước hay trật tự trong lãnh hải;
c) Nếu thuyền trưởng hay một viên chức ngoại giao hoặc một viên
chức lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ yêu cầu sự giúp đỡ của các nhà đương
cục địa phương hoặc
d) Nếu các biện pháp này là cần thiết để trấn áp việc buôn
lậu chất ma túy hay các chất kích thích.
2. Khoản 1 không đụng chạm gì đến quyền của quốc gia ven
biển áp dụng mọi luật pháp mà luật trong nước mình qui định nhằm tiến hành các
việc bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm ở trên con tàu nước ngoài đi qua lãnh
hải, sau khi rời khỏi nội thủy.
3. Trong những trường hợp nêu ở các khoản 1 và 2, nếu thuyền
trưởng yêu cầu, quốc gia ven biển phải thông báo trước về mọi biện pháp cho một
viên chức ngoại giao hay cho một viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ
và phải tạo điều kiện dễ dàng cho viên chức ngoại giao hay viên chức lãnh sự đó
tiếp xúc với đoàn thủy thủ của con tàu. Tuy nhiên trong trường hợp khẩn cấp,
việc thông báo này có thể tiến hành trong khi các biện pháp đang được thi hành.
4. Khi xem xét có nên bắt giữ và các thể thức của việc bắt
giữ, nhà đương cục địa phương cần phải chú ý thích đáng đến các lợi ích về hàng
hải.
5. Trừ trường hợp áp dụng phần XII hay trong trường hợp có
sự vi phạm các luật và quy định được định ra theo đúng phần V, quốc gia ven
biển không được thực hiện một biện pháp nào ở trên một con tàu nước ngoài khi
nó đi qua lãnh hải nhằm tiến hành bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm sau một vụ
vị phạm hình sự xảy ra trước khi con tàu đi vào lãnh hải mà không đi vào nội
thủy.
1. Quốc gia ven biển không được bắt một tàu nước ngoài đang
đi qua lãnh hải phải dừng lại hay thay đổi hành trình của nó để thực hiện quyền
tài phán dân sự của mình đối với một người ở trên con tàu đó.
2. Quốc gia ven biển không thể áp dụng các biện pháp trừng
phạt hay biện pháp bảo đảm (mesures conservatoires) về mặt dân sự đối với con
tàu này, nếu không phải vì những nghĩa vụ đã cam kết hay các trách nhiệm mà con
tàu phải đảm nhận trong khi đi qua hoặc để được đi qua vùng biển của quốc gia
ven biển.
3. Khoản 2 không đụng chạm đến quyền của quốc gia ven biển
áp dụng các biện pháp trừng phạt hay bảo đảm về mặt dân sự do luật trong nước
của quốc gia này quy định đối với tàu thuyền nước ngoài đang đậu trong lãnh hải
hay đang đi qua lãnh hải, sau khi đã rời nội thủy.
Trong Công ước, « tàu chiến » là mọi tàu thuyền thuộc lực
lượng vũ trang của một quốc gia và mang dấu hiệu bên ngoài đặc trưng của các
tàu thuyền quân sự thuộc quốc tịch nước đó; do một sĩ quan hải quân phục vụ
quốc gia đó chỉ huy, người chỉ huy này có tên trong danh sách các sĩ quan hay
trong một tài liệu tương đương; và đoàn thủy thủ phải tuân theo các điều lệnh
kỷ luật quân sự.
Nếu một tàu chiến không tôn trọng các luật và quy định của
quốc gia ven biển có liên quan đến việc đi qua trong lãnh hải và bất chấp yêu
cầu phải tuân thủ các luật và quy định đó đã được thông báo cho họ, thì quốc
gia ven biển có thể đòi chiếc tàu đó rời khỏi lãnh hải ngay lập tức.
Quốc gia mà tàu mang cờ chịu trách nhiệm quốc tế về mọi tổn
thất hoặc về mọi thiệt hại gây ra cho quốc gia ven biển do một tàu chiến hay bất
kỳ tàu thuyền nào khác của Nhà nước dùng vào những mục đích không thương mại vi
phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển có liên quan đến việc đi qua
lãnh hải hay vi phạm các quy định của Công ước hoặc các quy tắc khác của pháp
luật quốc tế.
Ngoài những ngoại lệ đã nêu ở Tiểu mục A và ở các Điều 30 và
31, không một quy định nào của Công ước đụng chạm đến các quyền miễn trừ mà các
tàu chiến và các tàu khác của Nhà nước dùng vào những mục đích không thương mại
được hưởng.
1. Trong một vùng tiếp giáp với lãnh hải của mình, gọi là
vùng tiếp giáp, quốc gia ven biển có thể thi hành sự kiểm soát cần thiết, nhằm:
a) Ngăn ngừa những phạm vi đối với các luật và quy định hải quan,
thuế khóa, y tế hay nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình;
b) Trừng trị những vi phạm đối với các luật và quy định nói
trên xảy ra trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.
2. Vùng tiếp giáp không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ
đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải.
1. Chế độ đi qua các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế mà
phần này quy định không ảnh hưởng gì về bất cứ phương diện nào khác đến chế độ
pháp lý của vùng nước các eo biển này, cũng như đến việc quốc gia ven eo biển
thực hiện chủ quyền hay quyền tài phán của mình ở các vùng nước ấy, ở đáy biển
tương ứng và lòng đất dưới đáy biển, cũng như vùng trời ở trên các vùng nước
đó.
2. Các quốc gia ven eo biển thực hiện chủ quyền hay quyền
tài phán của mình trong những điều kiện do các quy định của phần này và các quy
tắc khác của pháp luật quốc tế trù định.
Không một quy định nào của phần này được đụng chạm đến:
a) Nội thủy thuộc một eo biển, trừ khi việc vạch ra một
tuyến đường cơ sở thẳng theo đúng với phương pháp nói ở Điều 7 đã gộp vào trong
nội thủy những vùng nước trước đây không được coi là nội thủy;
b) Chế độ pháp lý của các vùng nước nằm ngoài lãnh hải của
các quốc gia ven eo biển, dù chúng thuộc vùng quốc tế hay thuộc biển cả;
c) Chế độ pháp lý của các eo biển mà việc đi qua đã được quy
định toàn bộ hay từng phần trong các công ước quốc tế đặc biệt nhằm vào các eo
biển này đã có từ lâu đời và vẫn đang có hiệu lực.
Phần này không áp dụng đối với các eo biển dùng cho hàng hải
quốc tế, nếu như có thể vượt qua eo biển đó bằng một con đường ở biển cả hay
một con đường qua một vùng đặc quyền kinh tế cũng thuận tiện như thế về phương
diện hàng hải và về các đặc điểm thủy văn; về các con đường này, những phần
khác tương ứng của công ước có thể được áp dụng, kể cả các quy định liên quan
đến tự do hàng hải và tự do hàng không.
Mục này được áp dụng đối với các eo biển dùng cho hàng hải
quốc tế giữa một bộ phận của biển cả hoặc một vùng đặc quyền về kinh tế và giữa
một bộ phận khác của biển cả hoặc một vùng đặc quyền về kinh tế.
1. Trong các eo biển nói ở Điều 37, tất cả các tàu thuyền và
phương tiện bay đều được hưởng quyền quá cảnh mà không bị cản trở, trừ trường
hợp hạn chế là quyền đó không được áp dụng cho các eo biển do lãnh thổ đất liền
của một quốc gia và một hòn đảo thuộc quốc gia này tạo thành, khi ở ngoài khơi
hòn đảo đó có một con đường đi trên biển cả, hay có một con đường đi qua một
vùng đặc quyền về kinh tế cũng thuận tiện như thế về phương diện hàng hải và về
các đặc điểm thủy văn.
2. Thuật ngữ “quá cảnh” có nghĩa là việc thực hiện, theo
đúng phần này, quyền tự do hàng hải và hàng không với mục đích duy nhất là đi
qua liên tục và nhanh chóng qua eo biển giữa một bộ phận của biển cả hoặc một
vùng đặc quyền về kinh tế và một bộ phận khác của biển cả hoặc một vùng đặc
quyền về kinh tế. Tuy nhiên, đòi hỏi quá cảnh liên tục và nhanh chóng không
ngăn cấm việc đi qua eo biển để đến lãnh thổ của một quốc gia ven eo biển, đề
rời khỏi hoặc lại đến lãnh thổ đó, theo các điều kiện cho phép đến lãnh thổ của
quốc gia đó.
3. Bất kỳ hoạt động nào không thuộc phạm vi thực hiện quyền
quá cảnh qua các eo biển đều tùy thuộc vào các quy định khác có thể áp dụng của
Công ước.
1. Trong khi thực hiện quyền quá cảnh, các tàu thuyền và
phương tiện bay:
a) Đi qua hay bay qua eo biển không chậm trễ;
b) Không được đe dọa hay dùng vũ lực để chống lại chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ hay độc lập chính trị của các quốc gia ven eo biển hay dùng
mọi cách khác trái với các nguyên tắc pháp luật quốc tế được nêu trong Hiến
chương Liên hợp quốc;
c) Không được có hoạt động nào khác ngoài những hoạt động cần
cho sự quá cảnh liên tục và nhanh chóng, theo phương thức đi bình thường, trừ
trường hợp bất khả kháng hoặc trừ trường hợp nguy cấp;
d) Tuân thủ các quy định thích hợp khác của phần này.
2. Trong khi quá cảnh các tàu thuyền tuân thủ:
a) Các quy định, thủ tục và tập quán quốc tế đã được chấp
nhận chung về mặt an toàn hàng hải, nhất là các quy tắc quốc tế để phòng ngừa
đâm va trên biển;
b) Các quy định, thủ tục và tập quán quốc tế đã được chấp
nhận chung nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do các tàu thuyền gây ra.
3. Trong khi quá cảnh, các phương tiện bay:
a) Tôn trọng các quy định về hàng không do Tổ chức hàng
không dân dụng quốc tế đề ra để áp dụng cho các phương tiện bay dân dụng; bình
thường các phương tiện bay của Nhà nước phải tuân thủ các biện pháp an toàn do
các quy định này đề ra và khi hoạt động vào bất kỳ lúc nào, các phương tiện bay
cũng phải chú ý đến an toàn hàng không.
b) Thường xuyên theo dõi tần số điện đài mà cơ quan có thẩm
quyền được quốc tế chỉ định làm nhiệm vụ kiểm soát giao thông hàng không đã
phân bổ cho, hoặc tần số quốc tế về nguy cấp.
Trong khi quá cảnh, các tàu thuyền nước ngoài, kể cả các tàu
thuyền chuyên dùng cho nghiên cứu khoa học biển hay cho đo đạc thủy văn, không
được dùng để nghiên cứu hoặc đo đạc nếu không được phép trước của các quốc gia
ven eo biển.
1. Theo đúng phần này, các quốc gia ven eo biển khi có nhu
cầu bảo đảm an toàn cho tàu thuyền đi qua các eo biển, có thể ấn định các tuyến
đường và quy định các cách phân chia luồng giao thông.
2. Các quốc gia nói trên, khi hoàn cảnh đòi hỏi và sau khi
đã công bố theo đúng thủ tục biện pháp này, có thể ấn định các tuyến đường mới hay
quy định các cách mới phân chia luồng giao thông thay thế mọi tuyến đường hay
mọi cách phân chia luồng giao thông đã được ấn định hay quy định trước đó.
3. Các tuyến đường và cách bố trí phân chia luồng giao thông
cần phải phù hợp với quy định quốc tế đã được chấp nhận chung.
4. Trước khi ấn định hay thay thế các tuyến đường hoặc trước
khi quy định hay thay thế các cách phân chia luồng giao thông, các quốc gia ven
eo biển gửi các đề nghị của mình cho tổ chức quốc tế có thẩm quyền thông qua.
Tổ chức này chỉ có thể chấp nhận các tuyến đường và cách phân chia luồng giao
thông nào đã có thể thỏa thuận với các quốc gia ven eo biển; khi đó, các quốc
gia này có thể ấn định, quy định hoặc thay thế các tuyến đường và các cách phân
chia luồng giao thông này.
5. Khi đề nghị thiết lập trong một eo biển các tuyến đường
hay cách phân chia luồng giao thông có liên quan đến vùng nước của nhiều quốc
gia ven eo biển, các quốc gia hữu quan hợp tác với nhau để soạn thảo các đề
nghị, có sự tham khảo ý kiến của tổ chức quốc tế có thẩm quyền.
6. Các quốc gia ven eo biển ghi rõ ràng lên các hải đồ tất
cả các tuyến đường hay tất cả các cách phân chia luồng giao thông mà mình đã
thiết lập và công bố các hải đồ này theo đúng thủ tục.
7. Trong khi quá cảnh, tàu thuyền tôn trọng các tuyến đường và
các cách phân chia luồng giao thông đã được thiết lập theo đúng điều này.
1. Với điều kiện chấp hành mục này, các quốc gia ven eo biển
có thể ra các luật và quy định liên quan đến việc đi qua eo biển về các vấn đề
sau:
a) An toàn hàng hải và điều phối giao thông trên biển như đã
được nêu ở Điều 41;
b) Ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường, bằng cách
thi hành quy định quốc tế có thể áp dụng được về việc trút bỏ dầu, cặn dầu và
các chất độc hại trong eo biển;
c) Việc cấm đánh bắt hải sản đối với các tàu đánh bắt hải
sản; kể cả quy định việc xếp đặt các phương tiện đánh bắt;
d) Xếp, dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu
trái với các luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư của quốc
gia ven eo biển.
2. Các luật và quy định này không được dẫn đến bất kỳ một sự
phân biệt đối xử nào về mặt pháp lý hay về mặt thực tế giữa các tàu thuyền nước
ngoài, việc áp dụng các luật và quy định này không được có tác dụng ngăn cản,
hạn chế hay gây trở ngại cho việc thực hiện quyền quá cảnh như đã được xác định
trong mục này.
3. Các quốc gia ven eo biển công bổ những luật và quy định
này theo đúng thủ tục.
4. Các tàu thuyền nước ngoài khi thực hiện quyền quá cảnh
qua eo biển phải tuân thủ các luật và quy định này.
5. Trong trường hợp một tàu hay một phương tiện bay được hưởng
quyền miễn trừ về chủ quyền vi phạm các luật và quy định này, quốc gia mà con
tàu mang cờ hay quốc gia đăng ký phương tiện bay phải chịu trách nhiệm quốc tế
về mọi tổn thất hay thiệt hại có thể gây ra cho eo biển.
Các quốc gia sử dụng một eo biển và các quốc gia ven eo biển
cần thỏa thuận hợp tác với nhau để:
a) Thiết lập và bảo dường các thiết bị an toàn và bảo đảm
hàng hải cần thiết cũng như các thiết bị khác đặt trong eo biển dùng để làm dễ
dàng cho hàng hải quốc tế, và
b) Ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm do tàu thuyền
gây ra.
Các quốc gia ven eo biển không được gây trở ngại cho việc
quá cảnh và phải thông báo đầy đủ và mọi nguy hiểm đối với hàng hải trong eo
biển hoặc đối với việc bay trên eo biển mà các quốc gia này nắm được. Việc thực
hiện quyền quá cảnh không thể bị đình chỉ.
1. Chế độ đi qua không gây hại được nêu ở Mục 3 của phần II
được áp dụng trong các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế:
a) Nằm ngoài phạm vi áp dụng của chế độ quá cảnh theo Điều
38, khoản 1; hoặc
b) Nối liền lãnh hải của một quốc gia với một bộ phận của
biển cả hay với một vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia khác.
2. Việc thực hiện quyền đi qua không gây hại trong các eo
biển không thể bị đình chỉ.
Trong công ước:
a) “Quốc gia quần đảo” (Etat Archipel) là một quốc
gia hoàn toàn được cấu thành bởi một hay nhiều quần đảo và có khi bởi một số
hòn đảo khác nữa.
b) “Quần đảo” (Archipel) là một tổng thể các đảo, kể
cả các bộ phận của các đảo, các vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác
có liên quan với nhau đến mức tạo thành về thực chất một thể thống nhất về địa
lý, kinh tế và chính trị, hay được coi như thế về mặt lịch sử.
1. Một quốc gia quần đảo có thể vạch các đường cơ sở thẳng
của quần đảo nối liền các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá lúc
chìm lúc nổi của quần đảo, với điều kiện là tuyến các đường cơ sở này bao lấy
các đảo chủ yếu và xác lập một khu vực mà tỷ lệ diện tích nước đó với đất, kể
cả vành đai san hô, phải ở giữa tỷ lệ số 1/1 và 9/1.
2. Chiều dài của các đường cơ sở này không vượt quá 100 hải
lý; tuy nhiên có thể tối đa 3% của tổng số các đường cơ sở bao quanh một quần
đảo nào đó có một chiều dài lớn hơn nhưng không quá 125 hải lý.
3. Tuyến các đường cơ sở này không được tách xa rõ rệt đường
bao quanh chung của quần đảo.
4. Các đường cơ sở không thể kéo dến hay xuất phát từ các
bãi cạn lúc chìm lúc nổi, trừ trường hợp tại đó có xây đặt các đèn biển hay các
thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt biển hoặc trừ trường hợp toàn bộ
hay một phần bãi cạn ở cách hòn đảo gần nhất một khoảng cách không vượt quá
chiều rộng lãnh hải.
5. Một quốc gia quần đảo không được áp dụng phương pháp kẻ
các đường cơ sở khiến cho các lãnh hải của một quốc gia khác bị tách rời với
biển cả hay với một vùng đặc quyền kinh tế.
6. Nếu một phần của vùng nước quần đảo của một quốc gia quần
đảo nằm giữa hai mảnh lãnh thổ của một quốc gia kế cận, thì các thuyền và mọi
lợi ích chính đáng mà quốc gia kế cận này vẫn được hưởng theo truyền thống ở
trong các vùng nước nói trên, cũng như tất cả các quyền nảy sinh từ các điều
ước được ký kết giữa hai quốc gia, vẫn tồn tại và vẫn được tôn trọng.
7. Để tính toán tỷ lệ diện tích các vùng nước so với diện
tích phần đất đã nêu ở khoản 1, các vùng nước trên trong các bãi đá ngầm bao
quanh các đảo và vành đai san hô, cũng như mọi phần của một nền đại dương có
sườn dốc đất đứng, hoàn toàn hay gần như hoàn toàn do một chuỗi đảo đá vôi hay một
chuỗi các mỏm đá lúc chìm lúc nổi bao quanh, có thể được coi như là một bộ phận
của đất.
8. Các đường cơ sở được vạch ra theo đúng điều này phải được
ghi trên hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định được vị trí. Bản kê tọa độ địa
lý của các điểm, có ghi rõ hệ thống trắc địa được sử dụng có thể thay thế cho
các bản đồ này.
9. Quốc gia quần đảo công bố theo đúng thủ tục các bản đồ
hoặc bảng liệt kê tọa độ địa lý và gửi đến Tổng thư ký Liên hợp quốc một bản để
lưu chiểu.
Chiều rộng của lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về
kinh tế và thềm lục địa được tính từ cách đường cơ sở quần đảo theo đúng Điều
47.
1. Chủ quyền của quốc gia quần đảo mở rộng ra vùng nước ở phía
trong đường cơ sở quần đảo được vạch ra theo đúng Điều 47, được gọi là vùng
nước quần đảo (eaux archipélagiques), bất kể chiều sâu và khoảng cách xa bờ của
chúng thế nào.
2. Chủ quyền này được mở rộng đến vùng trời trên vùng nước quần
đảo, cũng như đến đáy vùng nước đó và lòng đất tương ứng và đến các tài nguyên ở
đó.
3. Chủ quyền này được thực hiện theo các điều kiện nêu trong
phần này.
4. Chế độ đi qua vùng nước quần đảo do phần này quy định không
đụng chạm về bất kỳ một phương diện nào khác đến chế độ pháp lý của vùng nước
quần đảo, kể cả các đường hàng hải, đến việc quốc gia quần đảo thực hiện chủ
quyền của mình ở vùng nước đó, ở vùng trời phía trên, đáy nước vùng đó và lòng
đất tương ứng cũng như đối với các tài nguyên ở đó.
Ở phía trong vùng nước quần đảo, quốc gia quần đảo có thể vạch
những đường khép kín để hoạch định ranh giới nội thủy của mình theo đúng các
Điều 9, 10, và 11.
1. Không phương hại đến Điều 49, các quốc gia quần đảo tôn
trọng các điều ước hiện hành đã được ký kết với các quốc gia khác và thừa nhận
các quyền đánh bắt hải sản truyền thống và những hoạt động chính đáng của những
quốc gia kế cận trong một số khu vực thuộc vùng nước quần đảo và quốc gia quần
đảo. Các điều kiện và thể thức thực hiện các quyền và các hoạt động này, kể cả
tính chất, phạm vi của chúng và cả khu vực thực hiện các quyền và các hoạt động
nói trên, được xác định theo yêu cầu của bất cứ quốc gia nào trong các quốc gia
hữu quan qua các điều ước tay đôi được ký kết giữa các quốc gia đó. Các quyền này
không được chuyển nhượng hay chia sẻ cho quốc gia thứ ba hay cho các công dân
của các quốc gia ấy.
2. Các quốc gia quần đảo tôn trọng các dây cáp ngầm hiện có
của những quốc gia khác đặt và đi quan vùng nước của quốc gia quần đảo mà không
đụng đến bờ biển của mình. Các quốc gia quần đảo cho phép bảo dưỡng và thay thế
các đường dây cáp này sau khi họ đã được thông báo trước về vị trí của chúng và
về những công việc bảo dưỡng hay thay thế dự định tiến hành.
1. Với điều kiện tuân thủ Điều 53 và không phương hại đến
Điều 50, tàu thuyền của tất cả các quốc gia đều được hưởng quyền đi qua không
gây hại trong vùng nước quần đảo đã được quy định ở Mục 3 phần II.
2. Quốc gia quần đảo có thể tạm thời đình chỉ việc đi qua
không gây hại của tàu thuyền nước ngoài trong các khu vực nhất định thuộc vùng
nước quần đảo của mình, nếu biện pháp này là cần thiết để đảm bảo an ninh của
nước mình, nhưng không có sự phân biệt đối xử nào về mặt pháp lý hay về mặt
thực tế giữa các tàu thuyền nước ngoài. Việc đình chỉ này chỉ có hiệu lực sau
khi đã được công bố theo đúng thủ tục.
1. Trong các vùng nước quần đảo và lãnh hải tiếp liền, quốc
gia quần đảo có thể ấn định các đường hàng hải và các đường hàng không ở vùng
trời phía trên các đường này để các tàu thuyền và phương tiện bay nước ngoài
được đi qua nhanh chóng và liên tục.
2. Tất cả các tàu thuyền và phương tiện bay được hưởng quyền
đi qua quần đảo theo các tuyến đường hàng hải và các đường hàng không đó.
3. “Đi qua vùng nước quần đảo” là việc các tàu thuyền và
phương tiện bay thực hiện không bị cản trở, theo phương thức hàng hải, hàng không
bình thường và theo đúng Công ước, các quyền hàng hải và hàng không của mình,
với mục đích duy nhất là quá cảnh liên tục và nhanh chóng giữa một điểm của
biển cả hay một vùng đặc quyền kinh tế.
4. Các đường hàng hải và các đường hàng không đi qua các vùng
nước quần đảo và lãnh hải tiếp liền hoặc vùng trời phía trên phải bao gồm tất
cả các con đường thường dùng cho hàng hải quốc tế trong vùng nước quần đảo và
vùng trời phía trên; các đường hàng hải cần theo đúng tất cả các luồng lạch
thường dùng cho hàng hải, tất nhiên, không cần phải thiết lập nhiều con đường
thuận tiện như nhau giữa một điểm vào và một điểm ra nào đó.
5. Các đường hàng hải và hàng không này được xác định qua
hàng loạt các đường trục liên tục nối liền các điểm vào với các điểm ra của chúng.
Trong quá trình đi qua các tàu thuyền và phương tiện bay không được đi chệch
các đường trục này quá 25 hải lý, tất nhiên, các tàu thuyền và phương tiện bay
này không được đi cách bờ một khoảng cách dưới 1/10 khoảng cách giữa những điểm
gần nhất của các đảo nằm dọc theo một con đường.
6. Quốc gia quần đảo khi ấn định các đường hàng hải theo đúng
điều này cũng có thể quy định các cách phân chia luồng giao thông nhằm bảo đảm
an toàn cho các tàu thuyền sử dụng các luồng lạch hẹp ở bên trong các con đường
này.
7. Khi hoàn cảnh đòi hỏi, quốc gia quần đảo, sau khi đã công
bố theo đúng thủ tục, có thể ấn định những đường hàng hải mới hay quy định cách
bố trí phân chia luồng giao thông mới để thay thế cho mọi con đường hay mọi
cách phân chia luồng giao thông do quốc gia đó đã thiết lập từ trước.
8. Các đường hàng hải và cách phân chia luồng giao thông đó
phải phù hợp với quy định quốc tế được chấp nhận chung.
9. Khi ấn định hay thay thế các đường hàng hải hoặc khi quy
định hay khi thay thế các cách bố trí phân luồng giao thông, quốc gia quần đảo
gửi các đề nghị của mình cho tổ chức quốc tế có thẩm quyền để được chấp nhận.
Tổ chức quốc tế này chỉ có thể được chấp thuận các đường hàng hải và các cách bố
trí phân chia luồng giao thông mà họ đã có thể thỏa thuận với quốc gia quần
đảo; khi đó, quốc gia quần đảo có thể ấn định, quy định hay thay thế các đường
hàng hải và các cách phân chia luồng giao thông đó.
10. Quốc gia quần đảo ghi rõ ràng lên các hải đồ được công
bố theo đúng thủ tục các đường trục của các đường hàng hải mà quốc gia đó ấn
định và các cách phân chia luồng giao thông mà quốc gia đó quy định.
11. Khi đi qua vùng quần đảo, các tàu thuyền tôn trọng các
đường hàng hải và các cách chia phân luồng giao thông được thiết lập theo đúng
điều này.
12. Nếu quốc gia quần đảo không ấn định các đường hàng hải
hay các đường hàng không thì quyền đi qua vùng nước quần đảo có thể thực hiện
bằng cách sử dụng các con đường thường dùng cho hàng hải và hàng không quốc tế.
Các Điều 39, 40, 42, 44 được áp dụng Mutatis mutandis (với
những thay đổi cần thiết về chi tiết) cho việc đi qua vùng quần đảo.
Vùng đặc quyền về kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh
hải và tiếp liền với lãnh hải, đặt dưới chế độ pháp lý riêng quy định trong
phần này, theo đó các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển và các
quyền tự do của các quốc gia khác đều do các quy định thích hợp của Công ước
điều chỉnh.
1. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có:
a) Các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò khai thác, bảo
tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của
vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về
những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế,
như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió.
b) Quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của
Công ước về việc:
i. Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công
trình;
ii. Nghiên cứu khoa học về biển;
iii. Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;
c) Các quyền và các nghĩa vụ khác do Công ước quy định.
2. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, khi thực hiện các quyền và
làm các nghĩa vụ của mình theo Công ước, quốc gia ven biển phải tính đến các
quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác và hành động phù hợp với Công ước.
3. Các quyền có liên quan đến đáy biển và lòng đất dưới đáy
biển nêu trong điều này được thực hiện theo đúng phần VI.
Vùng đặc quyền về kinh tế không được mở rộng ra quá 200 hải lý
kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
1. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, tất cả các quốc gia, dù có
biển hay không có biển, trong những điều kiện trong những quy định thích hợp
của Công ước trù định, được hưởng các quyền tự do hàng hải và hàng không, quyền
tự do đặt dây cáp ngầm nêu ở Điều 87, cũng như quyền tự do sử dụng biển vào
những mục đích khác hợp pháp về mặt quốc tế và gắn liền với việc thực hiện các
quyền tự do này và phù hợp với các quy định khác của Công ước, nhất là những
khuôn khổ việc khai thác các tàu thuyền, phương tiện bay và dây cáp, ống dẫn
ngầm.
2. Các Điều từ 88 đến 115, cũng như các quy tắc thích hợp
khác của pháp luật quốc tế, được áp dụng ở vùng đặc quyền kinh tế trong chừng
mực mà chúng không mâu thuẫn với phần này.
3. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, khi thực hiện các quyền và
làm các nghĩa vụ của mình theo Công ước, các quốc gia phải tính đến các quyền
và các nghĩa vụ của quốc gia ven biển và tôn trọng các luật và quy định mà quốc
gia ven biển đã ban hành theo đúng các quy định của Công ước và trong chừng mực
mà các luật và quy định đó không mâu thuẫn với phần này và với các quy tắc khác
của pháp luật quốc tế.
Trong những trường hợp Công ước không quy định rõ các quyền
hay quyền tài phán trong các vùng đặc quyền về kinh tế cho quốc gia ven biển
hay cho các quốc gia khác và ở đó có xung đột giữa lợi ích của quốc gia ven
biển với lợi ích của một hay nhiều quốc khác thì sự xung đột này phải được giải
quyết trên cơ sở công bằng và có chú ý đến tất cả mọi hoàn cảnh thích đáng, có
tính đến tầm quan trọng của các lợi ích có liên quan đó đối với các bên tranh
chấp và đối với toàn bộ cộng đồng quốc tế.
1. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có đặc
quyền tiến hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử
dụng:
a) Các đảo nhân tạo;
b) Các thiết bị và công trình dùng vào các mục đích được trù
định ở Điều 56 hoặc các mục đích kinh tế khác;
c) Các thiết bị và công trình có thể gây trở ngại cho việc
thực hiện các quyền của quốc gia ven biển trong vùng.
2. Quốc gia ven biển có quyền tài phán đặc biệt đối với các
đảo nhân tạo, các thiết bị và các công trình đó, kể cả về mặt các luật và quy
định hải quan, thuế khóa, y tế, an ninh và nhập cư.
3. Việc xây dựng các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình đó
phải được thông báo theo đúng thủ tục, và việc duy trì các phương tiện thường
trực để báo hiệu sự có mặt của các đảo, thiết bị và công trình nói trên cần
được bảo đảm. Các thiết bị hay công trình đã bỏ hoặc không dùng đến nữa cần
được tháo dỡ để đảm bảo an toàn hàng hải, có tính đến những quy phạm quốc tế đã
được chấp nhận chung do tổ chức quốc tế có thẩm quyền đặt ra về mặt đó. Khi tháo
dỡ phải tính đến việc đánh bắt hải sản, bảo vệ môi trường biển, các quyền và
các nghĩa vụ của quốc gia khác. Cần thông báo thích đáng về vị trí, kích thước
và độ sâu của những phần còn lại của một thiết bị hoặc công trình chưa được
tháo dỡ hoàn toàn.
4. Quốc gia ven biển, nếu cần, có thể lập ra xung quanh các
đảo nhân tạo, các thiết bị hoặc công trình đó những khu vực an toàn với kích thước
hợp lý; trong các khu vực đó, quốc gia ven biển có thể áp dụng các biện pháp
thích hợp để bảo đảm an toàn hàng hải, cũng như an toàn của các đảo nhân tạo,
các thiết bị và công trình đó.
5. Quốc gia ven biển ấn định chiều rộng của những khu vực an
toàn có tính đến các quy phạm quốc tế có thể áp dụng được. Các khu vực an toàn
này được xác định sao cho đáp ứng một cách hợp lý với tính chất và chức năng
của các đảo nhân tạo, các thiết bị và các công trinh, và không thể mở rộng ra
một khoảng cách quá 500m xung quanh các đảo nhân tạo, các thiết bị và các công
trình, tính từ mỗi điểm của mép ngoài cùng của các đảo nhân tạo, thiết bị và
các công trình dó, trừ ngoại lệ do các vi phạm của quốc tế đã được thừa nhận
chung cho phép hoặc tổ chức quốc tế có thẩm quyền kiến nghị. Phạm vi của khu
vực an toàn được thông báo theo đúng thủ tục.
6. Tất cả các tàu thuyền phải tôn trọng các khu vực an toàn
đó và tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế được chấp nhận chung liên quan đến hàng
hải trong khu vực của các đảo nhân tạo, các thiết bị, các công trình và các khu
vực an toàn.
7. Không được xây dựng những đảo nhân tạo, thiết bị hoặc
công trình, không được thiết lập các khu vực an toàn xung quanh các đảo, thiết
bị, công trình đó khi việc đó có nguy cơ gây trở ngại cho việc sử dụng các
đường hàng hải đã được thừa nhận là thiết yếu cho hàng hải quốc tế.
8. Các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình không được
hưởng quy chế của các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng và sự có mặt của chúng
không có tác động gì đối với việc hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền
về kinh tế hoặc thềm lục địa.
1. Quốc gia ven biển ấn định khối lượng đánh bắt có thể chấp
nhận được đối với các tài nguyên sinh vật ở trong vùng đặc quyền về kinh tế của
mình.
2. Quốc gia ven biển dựa vào các số liệu khoa học đáng tin
cậy nhất mà mình có, thi hành các biện pháp thích hợp về bảo tồn và quản lý
nhằm làm cho việc duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế
của mình khỏi bị ảnh hưởng do khai thác quá mức. Quốc gia ven biển và các tổ
chức quốc tế có thẩm quyền, các tổ chức phân khu vực, khu vực hay thế giới, hợp
tác với nhau một cách thích hợp để thực hiện mục đích này.
3. Các biện pháp đó cũng nhằm để duy trì hay khôi phục các
đàn (stocks) hải sản được khai thác ở mức bảo đảm đạt năng suất ổn dịnh tối đa,
có tính đến các yếu tố sinh thái và kinh tế thích đáng, kể cả các nhu cầu kinh
tế của tập thể ven bờ sống về nghề đánh bắt hải sản và các nhu cầu riêng của
các quốc gia đang phát triển, và có tính dến các phương thức đánh bắt, đến quan
hệ hỗ tương giữa các đàn (stocks) và đến tất cả các quy phạm quốc tế tối thiểu
thường được kiến nghị ở cấp phân khu vực, khu vực hay thế giới.
4. Khi áp dụng các biện pháp đó, quốc gia ven biển chú ý đến
tác động của chúng đối với các loài quần hợp với các loài được khai thác hoặc
phụ thuộc vào các loài đó để duy trì hoặc khôi phục các đàn (stocks) của những
loài quần hợp hay phụ thuộc này ở một mức độ làm việc sinh sản của chúng khỏi
nguy cơ bị tổn hại nghiêm trọng.
5. Các thông tin khoa học có thể sử dụng, các số liệu thống
kê liên quan đến việc đánh bắt và đến sức đánh bắt và các số liệu khác liên
quan đến việc bảo tồn các đàn (stocks) cá được phổ biến và trao đổi đều đặn qua
trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các tổ chức phân khu vực hoặc
thế giới và khi có điều kiện thì tiến hành với sự tham gia của tất cả các quốc
gia hữu quan, nhất là các quốc gia có công dân được phép đánh bắt trong vùng
đặc quyền về kinh tế.
1. Quốc gia ven biển xác định mục tiêu là tạo điều kiện
thuận lợi cho việc khai thác tối ưu các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền
về kinh tế mà không phương hại đến Điều 61.
2. Quốc gia ven biển xác định khả năng của mình trong việc
khai thác các tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền về kinh tế. Nếu khả năng
khai thác đó thấp hơn tổng khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận thì quốc gia
ven biển cho phép các quốc gia khác, qua điều ước hoặc các thỏa thuận khác và
theo đúng các thể thức, điều kiên, các luật và quy định nói ở khoản 4, khai
thác số dư của khối lượng cho phép đánh bắt; khi làm như vậy, cần đặc biệt quan
tâm đến các Điều 69 và 70 nhất là quan tâm đến các quốc gia đang phát triển nói
trong các điều đó.
3. Khi đồng ý cho các quốc gia khác vào hoạt động trong vùng
đặc quyền về kinh tế của mình theo điều này, quốc gia ven biển tính đến tất cả
các yếu tố thích đáng, trong đó có: tấm quan trọng của các tài nguyên sinh vật
thuộc khu vực đối với nền kinh tế và đối với các lợi ích quốc gia khác của nước
mình; các Điều 69 và 70, các nhu cầu của các quốc gia đang phát triển trong khu
vực hay phân khu vực về vấn đề khai thác một phần của số dư, và sự cần thiết
phải giảm bớt đến mức tối thiểu những rối loạn kinh tế trong các quốc gia nào
có những công dân thường đánh bắt hải sản ở trong khu vực hoặc đã đóng góp
nhiều vào công tác tìm kiếm và thống kê các đàn (stocks) hải sản.
4. Công dân của các quốc gia khác khi tiến hành đánh bắt
trong vùng đặc quyền về kinh tế phải tuân thủ theo các biện pháp bảo tồn và các
thể thức, các điều kiện khác được đề ra trong các luật và quy định của quốc gia
ven biển. Các luật và quy định đó phải phù hợp với Công ước và đặc biệt có thể đề
cập các vấn đề sau đây:
a) Việc cấp giấy phép cho ngư dân hay tàu thuyền và phương
tiện đánh bắt, kể cả việc nộp thuế hay mọi khoản phải trả khác, trong trường
hợp đối với các quốc gia ven biển đang phát triển, có thể là một sự đóng góp
thích đáng vào ngân sách, vào việc trang bị và vào sự phát triển kỹ thuật của
công nghiệp đánh bắt hải sản;
b) Chỉ rõ các chủng loại cho phép đánh bắt và ấn định tỉ lệ
phần trăm, hoặc là đối với các đàn (stocks) hay các nhóm đàn hải sản riêng biệt
hoặc đối với số lượng đánh bắt của từng chiếc tàu trong một khoảng thời gian
nhất định, hoặc là đối với số lượng đánh bắt của các công dân của một quốc gia
trong một thời kỳ nhất định;
c) Quy định các mùa vụ và các khu vực đánh bắt, kiểu, cỡ và
số lượng các phương tiện đánh bắt, cũng như kiểu, cỡ và số lượng tàu thuyền
đánh bắt có thể được sử dụng;
d) Ấn định tuổi và cỡ cá và các sinh vật khác có thể được
đánh bắt;
e) Các thông tin mà tàu thuyền đánh bắt phải báo cáo, đặc
biệt là những số liệu thống kê liên quan đến việc đánh bắt và sức đánh bắt và
thông báo vị trí cho các tàu thuyền;
f) Nghĩa vụ tiến hành, với sự cho phép và dưới sự kiểm soát
của quốc gia ven biển, các chương trình nghiên cứu này, kể cả việc lấy mẫu các
thứ đánh bắt được, nơi nhận các mẫu và việc thông báo các số liệu khoa học có
liên quan;
g) Việc quốc gia ven biển đặt các quan sát viên hay thực tập
sinh trên các tàu thuyền đó;
h) Bốc dỡ toàn bộ hay một phần các sản phẩm đánh bắt được
của các tàu thuyền đó ở các cảng của quốc gia ven biển;
i) Các thể thức và điều kiện liên quan đến các xí nghiệp
liên doanh hoặc các hình thức hợp tác khác;
j) Các điều kiện cần thiết về mặt đào tạo nhân viên, về
chuyển giao kỹ thuật trong lĩnh vực đánh bắt hải sản, kể cả việc đẩy mạnh khả
năng nghiên cứu nghề cá của quốc gia ven biển;
k) Các biện pháp thi hành.
5. Quốc gia ven biển phải thông báo theo đúng thủ tục các
luật và quy định mà mình ban hành về mặt bảo tồn quản lý.
1. Khi cùng một đàn (stocks) cá hoặc những đàn (stocks) các
loài quần hợp ở trong vùng đặc quyền về kinh tế của nhiều quốc gia ven biển,
các quốc gia này cố gắng, trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức phân
khu vực hay khu vực thích hợp, thỏa thuận với nhau về các biện pháp cần thiết
nhằm phối hợp hoặc bảo đảm việc bảo tồn và phát triển các đàn cá đó mà không
phương hại đến các quy định khác của phần này.
2. Khi cùng một đàn cá hoặc những đàn các loài quần hợp đồng
thời ở trong vùng đặc quyền về kinh tế và ở trong một khu vực tiếp liền với vùng
đó, quốc gia ven biển và các quốc gia khác khai thác các đàn này ở trong khu
vực tiếp liền cố gắng trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức phân khu
vực hay khu vực thích hợp, thỏa thuận với nhau về các biện pháp cần thiết để
bảo tồn các đàn cá này trong khu vực tiếp liền.
1. Quốc gia ven biển và các quốc gia khác có công dân chuyên
đánh bắt trong khu vực những loài cá di cư xa ghi ở bảng danh mục của Phụ lục
I, cần trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức quốc tế thích hợp, hợp tác
với nhau nhằm bảo đảm việc bảo tồn các loài cá nói trên và đẩy mạnh việc khai
thác tối ưu các loài cá đó trong toàn bộ khu vực, ở trong cũng như ở ngoài vùng
đặc quyền về kinh tế. Trong những khu vực không có tổ chức quốc tế thích hợp,
thì quốc gia ven biển và các quốc gia khác có công dân khai thác các loài cá đó
trong khu vực, hợp tác với nhau để lập ra một tổ chức như thế và tham gia vào
khu vực của tổ chức này.
2. Khoản 1 được áp dụng thêm vào các quy định khác của phần
này.
Không một quy định nào của phần này hạn chế quyền của một
quốc gia ven biển cấm, hạn chế hay quy định việc khai thác các loài có vú ở
biển chặt chẽ hơn những quy định của phần này, cũng như hạn chế thẩm quyền của
một tổ chức quốc tế về việc này nếu có. Các quốc gia hợp tác với nhau nhằm bảo
đảm việc bảo vệ các loài có vú ở biển và đặc biệt là qua trung gian của các tổ
chức quốc tế thích hợp, tìm mọi cách để bảo vệ, quản lý và nghiên cứu loài cá
voi.
1. Các quốc gia có các dòng sông mà ở đó các đàn cá
(Poissons anadromes) vào sinh sản là những nước đầu tiên phải quan tâm đến các
đàn cá này và phải chịu trách nhiệm trước hết về loại cá này.
2. Quốc gia nguồn gốc của các đàn cá vào sông sinh sản cần
chăm lo đến việc bảo tồn các đàn cá đó bằng việc thi hành những biện pháp thích
hợp quy định việc đánh bắt trong tất cả các vùng nước nằm bên trong ranh giới
ngoài của vùng đặc quyền về kinh tế, cũng như việc đánh bắt nói ở khoản 3, điểm
b. Quốc gia nguồn gốc có thể xác định tổng số được phép đánh
bắt các loài cá được sinh sản ra từ các dòng sông của họ, sau khi đã tham khảo
các quốc gia nói trong các khoản 3 và 4 đang khai thác các đàn cá đó.
3. a) Chỉ có thể đánh bắt các đàn cá vào sông sinh sản trong
các vùng nước nằm bên trong ranh giới ngoài của các vùng đặc quyền về kinh tế,
trừ các trường hợp mà việc áp dụng quy định này có thể dẫn đến những rối loạn
kinh tế cho một quốc gia không phải là quốc gia nguồn gốc. Đối với việc đánh
bắt bên ngoài ranh giới phía ngoài của các vùng đặc quyền về kinh tế, các quốc
gia hữu quan cần tham khảo ý kiến của nhau để thỏa thuậ về các thể thức và điều
kiện của việc đánh bắt này, nhưng phải tính đến các đòi hỏi của việc bảo tồn và
các nhu cầu của quốc gia nguồn gốc về đàn (stoscks) cá đó.
b) Quốc gia nguồn gốc góp phần giảm bớt đến mức tối thiểu
những rối loạn về kinh tế trong các quốc gia khác đang tiến hành khai thác các
loài cá này bằng cách tính đến việc đánh bắt bình thường của các quốc gia này
và đến các cách mà họ khai thác đàn cá đó, cũng như đến tất cả các khu vực mà
các đàn cá đó được khai thác.
c) Các quốc gia nói ở điểm b tham gia qua sự thỏa thuận với
các quốc gia nguồn gốc, vào những biện pháp bảo đảm khôi phục các đàn cá vào sông
sinh sản, đặc biệt là bằng cách đóng góp tài chính cho các biện pháp này; các
quốc gia đó được quốc gia nguồn gốc quan tâm đặc biệt trong việc khai thác các
loài cá được sinh sản ra từ các dòng sông của mình.
d) Việc áp dụng quy định liên quan đến các đàn cá vào sông
sinh sản ở ngoài vùng đặc quyền về kinh tế được bảo đảm qua sự thỏa thuận giữa
quốc gia nguồn gốc và các quốc gia hữu quan khác.
4. Khi các đàn cá vào sông sinh sản di cư đến các vùng nước
hoặc đi qua các vùng nước nằm bên trong ranh giới ngoài của vùng đặc quyền về
kinh tế của một quốc gia không phải là quốc gia nguồn gốc, quốc gia này hợp tác
với quốc gia nguồn gốc nhằm bảo tồn và quản lý các đàn cá đó.
5. Quốc gia nguồn gốc của các đàn cá vào sông sinh sản và
các quốc gia khác đánh bắt cá này ký kết các thỏa thuận nhằm áp dụng điều này,
nếu có thể được thì qua trung gian của các tổ chức khu vực.
1. Một quốc gia ven biển mà trong vùng nước của mình loài cá
ra biển sinh sản sống phần lớn cuộc đời của chúng chịu trách nhiệm quản lý chúng
và chăm lo đến việc các loài cá này vào hoặc ra khỏi vùng nước đó.
2. Chỉ được khai thác các loài cá ra biển sinh sản trong
những vùng nước bên trong các ranh giới ngoài của các vùng đặc quyền về kinh
tế. Trong các vùng đặc quyền về kinh tế, việc khai thác được tiến hành theo
điều này và các quy định khác của Công ước liên quan đến việc đánh bắt trong
các vùng này.
3. Trong những trường hợp mà các loài cá ra biển sinh sản,
dù đã đến hay chưa đến thời kỳ sinh sản, di cư qua vùng đặc quyền về kinh tế
của một quốc gia khác thì việc quản lý các loài cá này, kể cả việc khai thác,
được quy định qua thỏa thuận giữa quốc gia nói ở khoản 1 và quốc gia hữu quan
kia. Thỏa thuận này cần được bảo đảm việc quản lý hợp lý các loài cá được xem
xét và có tính đến trách nhiệm của quốc gia nói ở khoản 1 về việc bảo tồn các
loài này.
Phần này không áp dụng đối với các loài định cư, như đã được
quy định ở Điều 77, khoản 4.
1. Một quốc gia không có biển có quyền tham gia, theo một
thể thức công bằng, khai thác một phần thích hợp số dư các tài nguyên sinh vật của
các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển trong cùng một phân khu
vực hoặc khu vực, có tính đến các đặc điểm kinh tế và địa lý thích đáng của tất
cả các quốc gia hữu quan và theo đúng điều này và các Điều 61 và 62.
2. Các điều kiện và các thể thức của việc tham gia này được
các quốc gia hữu quan ấn định thông qua thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay
khu vực, đặc biệt tính đến:
a) Sự cần thiết phải tránh mọi động tác có hại cho cộng đồng
những người đánh bắt hoặc cho công nghiệp đánh bắt của các quốc gia ven biển;
b) Mức độ quốc gia không có biển, theo đúng điều này, tham
gia hoặc có quyền tham gia, theo các thỏa thuận tay đôi, phân phu vực hay khu
vực hiện hành, vào việc khai thác các tài nguyên sinh vật của các vùng đặc
quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển khác;
c) Mức độ các quốc gia không có biển khác hoặc các quốc gia
bất lợi về địa lý tham gia vào việc khai thác các tài nguyên sinh vật của vùng
đặc quyền về kinh tế cuả quốc gia ven biển và sự cần thiết tránh cho quốc gia
ven biển nào đó hoặc cho khu vực nào đó của quốc gia này một gánh nặng đặc
biệt;
d) Những nhu cầu thực phẩm của dân cư ở các quốc gia được
xem xét.
3. Khi khả năng đánh bắt của một quốc gia ven biển cho phép
một mình quốc gia đó có thể đánh bắt được hầu như toàn bộ khối lượng đánh bắt
có thể chấp nhận, được ấn định cho việc khai thác các tài nguyên sinh vật trong
vùng đặc quyền về kinh tế của mình thì quốc gia đó và các quốc gia hữu quan
khác hợp tác với nhau để ký kết các thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hoặc khu vực
một cách công bằng cho phép các quốc gia đang phát triển không có biển trong
cùng khu vực hay phân khu vực đó tham gia một cách thích hợp vào việc khai thác
những tài nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia
ven biển thuộc phân khu vực hay khu vực, có tính đến các hoàn cảnh và điều kiện
thỏa đáng đối với tất cả các bên. Để áp dụng điều quy định này, cũng cần tính
đến các yếu tố đã nêu ở khoản 2.
4. Các quốc gia phát triển không có biển chỉ có quyền tham
gia khai thác các tài nguyên sinh vật theo điều này, trong các vùng đặc quyền
về kinh tế của các quốc gia ven biển phát triển ở trong cùng phân khu vực hay
khu vực, có tính đến chừng mực mà quốc gia ven biển, khi cho các quốc gia khác
vào khai thác tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, đã xem
xét sự cần thiết phải giảm đến mức tối thiểu những tác hại đối với cộng đồng những
người đánh bắt cũng như những rối loạn kinh tế trong các quốc gia có công dân
vẫn thường tiến hành việc đánh bắt trong vùng.
5. Các quy định nói trên được áp dụng không phương hại đến
các thỏa thuận được ký kết nếu có trong các phân khu vực hay khu vực, mà ở đó
các quốc gia ven biển có thể dành cho các quốc gia không có biển ở cùng phân
khu vực hay khu vực đó những quyền ngang nhau, hoặc ưu tiên để khai thác các tài
nguyên sinh vật ở vùng đặc quyền về kinh tế của mình.
1. Các quốc gia bất lợi về địa lý có quyền tham gia, theo
một thể thức công bằng, vào việc khai thác một phần thích hợp số dư của những
tài nguyên sinh vật trong các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven
biển ở cùng phân khu vực hay khu vực, có tính đến các đặc điểm kinh tế và địa
lý thích đáng của tất cả các quốc gia hữu quan và theo đúng điều này và các
Điều 61 và 62.
2. Trong phần này, thuật ngữ “quốc gia bất lợi về địa lý” có
nghĩa là các quốc gia ven biển, kể cả các quốc gia ở ven bờ một biển kín hoặc
nửa kín, mà vị trí địa lý của họ làm cho họ phải lệ thuộc vào việc khai thác
những tài nguyên sinh vật ở các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia khác
trong phân khu vực hoặc khu vực để có đủ cá dùng làm thực phẩm cung cấp cho dân
cư hay một bộ phận dân cư của họ, cũng như các quốc gia ven biển không thể có
một vùng đặc quyền kinh tế riêng.
3. Các điều kiện và thể thức của việc tham gia đó được các quốc
gia hữu quan ấn định thông qua con đường thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay
khu vực, đặc biệt có tính đến:
a) Sự cần thiết phải tránh mọi tác hại cho cộng đồng những
người đánh bắt hay cho công nghiệp đánh bắt của các quốc gia ven biển;
b) Mức độ quốc gia bất lợi về địa lý, theo đúng điều này,
tham gia hoặc có quyền tham gia theo các thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay
khu vực hiện hành, vào việc khai thác các tài nguyên sinh vật của vùng đặc
quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển khác;
c) Mức độ các quốc gia bất lợi về địa lý khác và các quốc
gia không có biển tham gia vào việc khai thác tài nguyên sinh vật của vùng đặc
quyền về kinh tế của quốc gia ven biển và sự cần thiết tránh cho quốc gia ven
biển nào đó hoặc cho khu vực nào đó của quốc gia ấy phải chịu một gánh nặng đặc
biệt;
d) Những nhu cầu về thực phẩm của dân cư ở các quốc gia được
xem xét.
4. Khi khả năng đánh bắt của một quốc gia ven biển cho phép
một mình quốc gia đó có thể đánh bắt được hầu như toàn bộ khối lượng đánh bắt
có thể chấp nhận, được ấn định cho việc khai thác các tài nguyên sinh vật trong
vùng đặc quyền về kinh tế của mình, quốc gia đó và các quốc gia hữu quan khác
hợp tác với nhau để ký kết các thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu vực một
cách công bằng, cho phép các quốc gia đang phát triển bất lợi về địa lý trong
cùng một phân khu vực hay khu vực đó tham gia một cách thích hợp vào việc khai
thác những tài nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc
gia ven biển trong phân khu vực hay khu vực, có tính đến các hoàn cảnh và các
điều kiện thỏa đáng đối với tất cả các bên. Để áp dụng điều quy định này, cũng
cần tính đến các yếu tố đã nêu ở khoản 3.
5. Các quốc gia phát triển bất lợi về địa lý chỉ có quyền
tham gia vào việc khai thác tài nguyên sinh vật, theo điều này, trong các vùng đặc
quyền về kinh tế của các quốc gia phát triển ở cùng một phân khu vực hay khu
vực, có tính đến chừng mực mà quốc gia ven biển, trong khi cho các quốc gia
khác vào khai thác tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình,
đã xem xét sự cần thiết phải giảm đến mức tối thiểu những tác hại đối với cộng
đồng những người đánh bắt, cũng như những rối loạn kinh tế trong các quốc gia
có công dân vẫn thường tiến hành đánh bắt ở trong vùng.
6. Các quy định trên được áp dụng không phương hại đến các thỏa
thuận được ký kết nếu có trong các phân khu vực hoặc khu vực mà ở đó các quốc
gia ven biển có thể dành cho các quốc gia bất lợi về địa lý trong cùng khân khu
vực hay khu vực các quyền ngang nhau hoặc ưu tiên để khai thác các tài nguyên
sinh vật ở vùng đặc quyền về kinh tế của mình.
Các Điều 69 và 70 không áp dụng đối với các quốc gia ven
biển có nền kinh tế lệ thuộc rất nặng nề vào việc khai thác tài nguyên sinh vật
ở vùng đặc quyền về kinh tế của mình.
1. Các quyền khai thác các tài nguyên sinh vật nêu ở các Điều
69 và 70 không thể chuyển giao trực tiếp hay gián tiếp cho các quốc gia thứ ba
hay cho các công dân của các quốc gia này, dù bằng con đường cho thuê hay bằng
giấy phép, hoặc bằng việc thành lập các xí nghiệp liên doanh hay bằng bất cứ
một thỏa thuận nào khác mà tác dụng là tạo ra một sự chuyển giao như thế, trừ
trường hợp các quốc gia hữu quan có thỏa thuận khác.
2. Điều quy định trên không ngăn cấm các quốc gia hữu quan
nhận của quốc gia thứ ba hay các tổ chức quốc tế sự trợ giúp về kỹ thuật hay
tài chính nhằm làm dễ dàng cho việc thực hiện các quyền của họ theo đúng Điều
69 và 70, với điều kiện là việc này không dẫn đến một tác dụng nói ở khoản 1.
1. Trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền về thăm
dò, khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về
kinh tế, quốc gia ven biển có thể thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc
khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các
luật và quy định mà mình đã ban hành theo đúng Công ước.
2. Khi có một sự bảo lãnh hay một bảo đảm đầy đủ khác thì
cần thả ngay chiếc tàu bị bắt và trả tự do ngay cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu
này.
3. Các chế tài do quốc gia ven biển trù định đối với những
vụ vi phạm các luật và quy định về mặt đánh bắt trong vùng đặc quyền về kinh tế
không được bao gồm hình phạt tống giam, trừ khi các quốc gia hữu quan có thỏa
thuận khác, và không bao gồm một hình phạt thân thể nào khác.
4. Trong trường hợp bắt hay giữ một tàu thuyền nước ngoài,
quốc gia ven biển thông báo ngay cho quốc gia mà tàu mang cờ biết, bằng các con
đường thích hợp, các biện pháp được áp dụng cũng như các chế tài có thể sẽ được
tuyên bố sau đó.
1. Việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền về kinh tế giữa
các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diên nhau được thực hiện bằng con đường
thỏa thuận theo đúng với pháp luật quốc tế như đã nêu ở Điều 38 của Quy chế Tòa
án quốc tế để đi đến một giải pháp công bằng.
2. Nếu không đi tới được một thỏa thuận trong một thời gian
hợp lý thì các quốc gia hữu quan sử dụng các thủ tục nêu ở phần XV.
3. Trong khi chờ ký kết thỏa thuận ở khoản 1, các quốc gia
hữu quan, trên tinh thần hiểu biết và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến các
dàn xếp tạm thời có tính chất thực tiễn và không phương hại hay cản trở việc ký
kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoán quá độ này. Các dàn xếp tạm thời
không phương hại đến hoạch định cuối cùng.
4. Khi một điều ước đang có hiệu lực giữa các quốc gia hữu
quan, các vấn đề liên quan đến việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền về kinh
tế được giải quyết theo đúng điều ước đó.
1. Với điều kiện tuân thủ phần này, các ranh giới phía ngoài
của vùng đặc quyền về kinh tế và các đường hoạch định ranh giới được vạch theo
đúng Điều 74 đều được ghi lên các hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định được vị
trí của nó; có trường hợp việc vẽ các ranh giới ngoài hay các đường hoạch định
ranh giới đó có thể thay thế bằng các bản kê các tọa độ địa lý các điểm, có ghi
rõ hệ thống trắc địa được sử dụng.
3. Quốc gia ven biển công bố theo đúng thủ tục các bản đồ
hay bản kê các tọa độ đại lý gửi đến Tổng thư ký Liên hợp quốc một bản để lưu
chiểu.
1. Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và
lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần
kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa
lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý,
khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ờ khoảng cách gần hơn.
2. Thềm lục địa không mở rộng ra ngoài các giới hạn nói ở
các khoản từ 4 đến 6.
3. Rìa lục địa là phần kéo dài ngập dưới nước của lục địa
của quốc gia ven biển, cấu thành bởi đáy biển tương ứng với thềm, dốc và bờ,
cũng như lòng đất dưới đáy của chúng. Rìa lục địa không bao gồm các đáy của đại
dương ở độ sâu lớn, với các dải núi đại dương của chúng, cũng không bao gồm
lòng đất dưới đáy của chúng.
4. a) Theo công ước, quốc gia ven biển xác định bờ ngoài của
rìa lục địa mở rộng ra quá 200 hải lý các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
lãnh hải bằng:
i. Một đường vạch theo đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm
cố định tận cùng nào mà bề dày lớp đá trầm tích ít nhất cũng bằng một phần trăm
khoảng cách từ điểm được xét cho tới chân dốc lục địa hay,
ii. Một đường vạch theo đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm
cố định ở cách chân dốc lục địa nhiều nhất là 60 hải lý;
b) Nếu không có bằng chứng ngược lại, chân dốc lục địa trùng
hợp với điểm biến đồi độ dốc rõ nét nhất ở nền dốc
5. Các điểm cố định xác định trên đáy biển, đường ranh giới
ngoài cùng của thềm lục địa được vạch theo đúng khoản 4, điểm a), điểm nhỏ i)
và
ii), nằm cách điểm cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải một khoảng
cách không vượt quá 350 hải lý hoặc nằm cách đường đẳng sâu 2500m là đường nối
liền các điểm có chiều sâu 2500m, một khoảng cách không quá 100 hải lý.
6. Mặc dù đã có khoản 5, một dải núi ngầm, ranh giới ngoài
của thềm lục địa không vượt quá một đường vạch ra ở cách đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng lãnh hải 350 hải lý. Khoản này không áp dụng cho các địa hình
nhô cao dưới mặt nước tạo thành các yếu tố tự nhiên của rìa lục địa, như các
thềm, ghềnh, sông núi, bãi hoặc mỏm.
7. Quốc gia ven biển ấn định ranh giới ngoài thềm lục địa
của mình, khi thềm này mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải, bằng cách nối liền các điểm cố định xác định bằng hệ tọa độ
kinh vĩ độ, thành các đoạn thẳng dài không quá 60 hải lý.
8. Quốc gia ven biển thông báo những thông tin về ranh giới
các thềm lục địa của mình, khi thềm này mở rộng quá 200 hải lý kể từ đường cơ
sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải, cho ủy ban ranh giới thềm lục địa được
thành lập theo Phụ lục II, trên cơ sở sự đại diện công bằng về địa lý. Ủy ban gửi
cho các quốc gia ven biển những kiến nghị về các vấn đề liên quan đến việc ấn
định ranh giới ngoài thềm lục địa của họ. Các ranh giới do một quốc gia ven
biển ấn định trên cơ sở các kiến nghị đó là dứt khoát và có tính chất bắt buộc.
9. Quốc gia ven biển gửi cho Tổng thư ký Liên hợp quốc các
bản đồ và các điều chỉ dẫn thích đáng, kể cả các dữ kiện trắc địa, chỉ rõ một
cách thường xuyên ranh giới ngoài của thềm lục địa của mình. Tổng thư ký công
bố các tài liệu này theo đúng thủ tục.
10. Điều này không xét đoán trước vấn đề hoạch định ranh
giới thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hoặc đối diện nhau.
1. Quốc gia ven biển thực hiện các quyền thuộc chủ quyền đối
với thềm lục địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình.
2. Các quyền nói ở khoản 1 có tính chất đặc quyền, nghĩa là
các quốc gia ven biển không thăm dò thềm lục địa hay không khai thác tài nguyên
thiên nhiên của thềm lục địa, thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động như
vậy, nếu không có sự thỏa thuận rõ ràng của quốc gia đó.
3. Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa
không phụ thuộc vào sự chiếm hữu thực sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất cứ
tuyên bố rõ ràng nào.
4. Các tài nguyên thiên nhiên ở phần này bao gồm các tài nguyên
thiên nhiên khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên không sinh vật khác của
đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như các sinh vật thuộc loại định cư,
nghĩa là những sinh vật nào, ở thời kỳ có thể đánh bắt được, hoặc nằm bất động ở
đáy, hoặc lòng đất dưới đáy; hoặc là không có khả năng di chuyển nếu không có khả
năng tiếp xúc với đáy hay lòng đáy dưới đáy biển.
1. Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa
không đụng chạm đến chế độ pháp lý của vùng nước ở phía trên hay của vùng trời
trên vùng nước này.
2. Việc quốc gia ven biển thực hiện các quyền của mình đối
với thềm lục địa không gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền và các tự do
khác của các nước khác đã được công ước thừa nhận, cũng không được cản trở việc
thực hiện các quyền này một cách không thể biện bạch được.
1. Tất cả các quốc gia có quyền đặt các dây cáp và ống dẫn
ngầm ở thềm lục địa theo đúng điều này.
2. Trong điều kiện thi hành các biện pháp hợp lý nhằm thăm
dò thềm lục địa, khai thác tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa và ngăn chặn,
hạn chế và chế ngự ô nhiễm do ống dẫn gây ra, quốc gia ven biển không được cản
trở việc lắp đặt hay bảo quản các ống dẫn và dây cáp đó.
3. Tuyến ống dẫn đặt ở thềm lục địa cần được sự thỏa thuận
của quốc gia ven biển.
4. Không một quy định nào ở phần này đụng chạm đến quyền của
quốc gia ven biển đặt ra các điều kiện đối với các đường dây cáp hay các đường
ống dẫn đi vào lãnh thổ hay lãnh hải của mình, cũng như, không đụng chạm đến
đường tài phán của quốc gia này đối với dây và ống dẫn được đặt, hoặc sử dụng trong
khuôn khổ của việc thăm dò thềm lục địa của mình hay việc khai khác tài nguyên
thiên nhiên của mình, hoặc của việc khai thác các đảo nhân tạo, thiết bị hay
công trình thuộc quyền tài phán của quốc gia này.
5. Khi đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm, các quốc gia phải
tính đến các dây cáp và ống ngầm đã được đặt trước. Đặc biệt họ cần lưu ý không
làm hại đến khả năng sửa chữa các đường dây cáp và ống dẫn đó.
Điều 60 áp dụng mutatis mutandis (với những sửa đổi cần
thiết và chi tiết) đối với các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình ở thềm lục
địa.
Quốc gia ven biển có đặc quyền cho phép và quy định việc
khoan ở thềm lục địa bất kỳ vào mục đích gì.
1. Quốc gia ven biển nộp các khoản đóng góp bằng tiền hay
bằng hiện vật về việc khai thác tài nguyên thiên nhiên không sinh vật của thềm
lục địa nằm ngoài 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
2. Các khoản đóng góp được nộp hàng năm tính theo toàn bộ
sản phẩm thu hoạch được ở một điểm khai thác nào đó, sau năm năm đầu khai thác
điểm đó. Năm thứ 6 tỉ lệ đóng góp là 1% của giá trị hay của khối lượng sản phẩm
khai thác được ở điểm khai thác. Sau đó, mỗi năm tỷ lệ này tăng lên 1% cho đến
năm thứ 12 và bắt đầu từ năm thứ 12 trở đi tỷ lệ đó ở mức 7%. Sản phẩm không
bao gồm các tài nguyên được dùng trong khuôn khổ của việc khai thác.
3. Quốc gia đang phát triển nào là nước chuyên nhập khẩu một
khoáng sản được khai thác từ thềm lục địa của mình được miễn các khoản đóng góp
đối với loại khoáng sản đó.
4. Các khoản đóng góp này được thực hiện thông qua Cơ quan
quyền lực; cơ quan này phân chia các khoản đó cho các quốc gia thành viên, theo
tiêu chuẩn phân chia công bằng có tình đến lợi ích và nhu cầu của các quốc gia đang
phát triển, đặc biệt là các quốc gia chậm phát triển nhất hay các quốc gia
không có biển.
1. Việc hoạch định ranh giới thềm lục địa giữa các quốc gia
có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau được thực hiện bằng con đường thỏa thuận
theo đúng luật pháp quốc tế như đã được nêu ở Điều 38 của Quy chế tòa án quốc tế,
để đi tới một giải pháp công bằng.
2. Nếu không đi tới một thỏa thuận trong một thời hạn hợp lý
thì các quốc gia hữu quan sử dụng các thủ tục nêu ở phần XV.
3. Trong khi chờ đợi ký kết thỏa thuận nói ở khoản 1, các quốc
gia hữu quan trên tinh thần hiều biết, và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến
các giải pháp tạm thời có tính chất thực tiễn và để không phương hại hay cản
trở việc ký kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoạn quá độ này. Các dàn
xếp tạm thời không phương hại đến việc hoạch định cuối cùng.
4. Khi một điều ước đang có hiệu lực giữa các quốc gia hữu
quan, các vấn đề liên quan đến việc hoạch định ranh giới thềm lục địa được thực
hiện theo đúng điều ước đó.
1. Với điều kiện tuân thủ phần này, các ranh giới ngoài của
thềm lục địa và các đường hoạch định ranh giới được vạch ra theo đúng Điều 83
được ghi rõ lên các hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định được vị trí của nó,
có trường hợp việc vẽ ranh giới ngoài hay các đường hoạch đinh ranh giới này có
thể được thay thế bằng các bản kê các tọa độ địa lý các điểm, có ghi rõ hệ thống
trắc địa được sử dụng.
2. Quốc gia ven biển công bố theo đúng thủ tục các bản đồ
hay các bản kê các tọa độ địa lý và gửi đến Tổng thư ký liên hợp quốc một bản để
lưu chiểu, và đối với các bản đồ hay các bản kê các tọa độ địa lý vị trí của
ranh giới ngoài của thềm lục địa, thì gửi đến Tổng thư ký của Cơ quan quyền lực
một bản để lưu chiểu.
Phần này không đụng chạm đến quyền của quốc gia ven biển được
khai thác lòng đất dưới đáy biển bằng cách đào hầm, bất kể độ sâu của các vùng
nước ở nơi ấy là bao nhiêu.
Phần này áp dụng cho tất cả những vùng biển không nằm trong
vùng đặc quyền về kinh tế, lãnh hải hay nội thủy của một quốc gia cũng như
không nằm trong vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo. Điều này không hạn
chế về bất cứ phương diện nào các quyền tự do mà tất cả các quốc gia được hưởng
trong vùng đặc quyền về kinh tế theo Điều 58.
1. Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù có biển
hay không có biển. Quyền tự do trên biển cả được thực hiện trong những điều
kiện do các quy định của Công ước hay và những quy tắc khác của pháp luật quốc
tế trù định. Đối với các quốc gia dù có biển hay không có biển, quyền tự do này
đặc biệt bao gồm:
a) Tự do hàng hải;
b) Tự do hàng không;
c) Tự do đặt các dây cáp hoặc ống dẫn ngầm với điều kiện
tuân thủ Phần VI;
d) Tự do xây dựng các đảo nhân tạo hoặc các thiết bị khác
được pháp luật quốc tế cho phép, với điều kiện tuân thủ phần VI;
e) Tự do đánh bắt hải sản trong các điều đã được nêu ở Mục
2;
f) Tự do nghiên cứu khoa học với các điều kiện tuân thủ các
Phần VI và VIII.
2. Mỗi quốc gia khi thực hiện các quyền tự do này phải tính
đến lợi ích của việc thực hiện tự do trên biển cả của các quốc gia khác, cũng
như đến các quyền được Công ước thừa nhận liên quân đến các hoạt động trong
Vùng.
Biển cả được sử dụng vào các mục đích hòa bình
Không một quốc gia nào có thể đòi đặt một cách hợp pháp một
bộ phận nào đó của biển cả thuộc vào chủ quyền của mình
1. Mỗi quốc gia quy định các điều kiện cho phép tàu thuyền
mang quốc tịch của nước mình, các điều kiện đăng ký các tàu thuyền trên lãnh
thổ của mình và các điều kiện cần phải có để cho tàu thuyền được quyền treo cờ của
nước mình. Các tàu thuyền mang quốc tính của quốc gia mà chúng được phép treo
cờ. Cần phải có một mối quan hệ thực chất giữa quốc gia và các con tàu.
2. Quốc gia nào cho phép tàu thuyền treo cờ nước mình thì cấp
cho tàu thuyền đó các tài liệu có liên quan đến mục đích đó.
1. Các tàu thuyền chỉ hoạt động dưới cờ của một quốc gia và,
trừ những trường hợp ngoại lệ đã được quy định rõ ràng trong các hiệp ước quốc
tế hay trong Công ước, chỉ thuộc quyền tài phán của quốc gia này khi ở biển cả.
Không được thay đổi cờ trong một chuyến đi hay trong một dịp đậu lại, trừ trường
hợp có sự chuyển giao thật sự quyền sở hữu hay có thay đổi đăng ký.
2. Một tàu thuyền hoạt động dưới cờ của nhiều quốc gia mà nó
sử dụng theo sở thích của mình thì không thể sử dụng đối với mọi quốc gia thứ
ba, bất cứ quốc tịch nào trong số đó và có thể được coi như là một tàu thuyền
không có quốc tịch.
Các điều trên không đề cập vấn đề các tàu được dùng vào dịch
vụ chính thức của Liên hợp quốc, của các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc
hay Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế.
1. Mọi quốc gia đều thực sự thi hành quyền tài phán và sự kiểm
soát của mình trong các lĩnh vực hành chính, kỹ thuật và xã hội đối với các tàu
thuyền mang cờ của mình.
2. Đặc biệt mọi quốc gia:
a) Có một sổ đăng ký hàng hải có ghi tên và đặc điểm của các
tàu thuyền mang cờ nước mình, trừ các tàu thuyền do kích thước nhỏ không nằm
trong quy định quốc tế được chấp nhận chung;
b) Thi hành quyền tài phán theo đúng luật trong nước mình
đối với bất kỳ tàu thuyền nào mang cờ nước mình, cũng như đối với thuyền trưởng,
sĩ quan và đoàn thủy thủ về các vấn đề hành chính, kỹ thuật và xã hội liên quan
đến tàu thuyền.
3. Mọi quốc gia phải có các biện pháp cần thiết đối với các tàu
thuyền mang cờ của nước mình để đảm bảo an toàn trên biển, nhất là về:
a) Cấu trúc, trang bị của tàu thuyền và khả năng đi biển của
nó;
b) Thành phần, điều kiện làm việc và việc đào tạo các thủy
thủ, có tính đến các văn bản quốc tế có thể áp dụng được;
c) Việc sử dụng các tín hiệu, tình trạng hoạt động tốt của
hệ thống thông tin liên lạc và việc phòng ngừa đâm va.
4. Các biện pháp này bao gồm các biện pháp cần thiết để đảm
bảo rằng:
a) Tàu thuyền nào cũng phải được một viên thanh tra hàng hải
có trình độ kiểm tra trước khi đăng ký vào sổ và sau đó, trong những khoảng
thời gian thích hợp và trên tàu thuyền cần có các hải đồ, các tài liệu về hàng hải,
cũng như dụng cụ và máy móc hàng hải mà sự an toàn hàng hải đòi hỏi;
b) Tàu thuyền nào cũng phải được giao cho một thuyền trưởng
và các sĩ quan có trình độ chuyên môn cần thiết, đặc biệt là việc điều động,
hàng hải, thông tin liên lạc và điều khiển các máy, thủy thủ có trình độ chuyên
môn cần thiết và đủ số so với loại tàu thuyền, kích thước, máy móc và trang bị
của tàu thuyền;
c) Thuyền trưởng, các sỹ quan và ở mức độ cần thiết, đoàn
thủy thủ hoàn toàn nắm vững và sẵn sàng tôn trọng các quy tắc quốc tế có thể áp
dụng được về việc cứu sinh trên biển, việc phòng ngừa các tai nạn đâm va, việc
ngăn ngừa hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển và việc duy trì thông tin
liên lạc bằng vô tuyến điện
5. Khi thi hành các biện pháp nói ở các khoản 3 và 4, mỗi
quốc gia buộc phải tuân thủ các quy tắc, thủ tục và tập quán quốc tế đã được
chấp nhận chung và thi hành mọi biện pháp cần thiết để đảm bảo cho các quy tắc,
thủ tục và tập quán nói trên được tôn trọng.
6. Quốc gia nào có những lý do đúng đắn để nghĩ rằng quyền
tài phán và quyền kiểm soát thích hợp đối với một tàu thuyền đã không được thi
hành, thì có thề thông báo những sự kiện đó cho quốc gia mà tàu mang cờ. Khi được
thông báo, quốc gia mà tàu mang cờ phải tiến hành điều tra và nếu cần, có các
biện pháp điều chỉnh cần thiết.
7. Mỗi quốc gia ra lệnh mở cuộc điều tra do một hay nhiều
nhân vật có đầy đủ thẩm quyền tiến hành, hoặc là cuộc điều tra được tiến hành
trước những nhân vật đó về bất cứ tai nạn nào trên biển hay sự cố hàng hải nào
xảy ra trên biển cả có liên quan đến một chiếc tàu mang cờ của nước mình và đã gây
ra chết người hay gây trọng thương cho những công dân của một quốc gia khác,
hoặc đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho tàu thuyền và công trình thiết
bị của một quốc gia khác hay cho môi trường biển. Quốc gia mà tàu mang cờ và
quốc gia hữu quan đó tổ chức về một tai nạn trên biển hay một sự cố hàng hải
thuộc loại này.
Các tàu chiến trên biển cả được hưởng quyền miễn trừ hoàn toàn
về tài phán của bất kỳ quốc gia nào khác ngoài quốc gia mà tàu mang cờ.
Các tàu thuyền của Nhà nước hay do Nhà nước khai thác và chỉ
dùng cho một cơ quan Nhà nước không có tính chất thương mại trên biển cả được
hưởng quyền miễn trừ hoàn toàn về tài phán của bất kỳ quốc gia nào khác ngoài
quốc gia mà tàu mang cờ.
1. Trong trường hợp xảy ra tai nạn đâm va hay bất kỳ sự cố
hàng hải nào trên biển cả mà trách nhiệm hình sự hay trách nhiệm kỷ luật thuộc về
thuyền trưởng hoặc thuộc về bất kỳ thành viên nào trong đoàn thủy thủ của con
tàu, chỉ có thể yêu cầu truy tố hình sự hay thi hành kỷ luật họ trước các nhà
đương cục tư pháp hay hành chính của quốc gia mà tàu mang cờ hoặc là của quốc
gia mà đương sự mang quốc tịch.
2. Về mặt kỷ luật, quốc gia nào đã cấp bằng chỉ huy hay giấy
chứng nhận khả năng hoặc giấy phép, là quốc gia duy nhất có thẩm quyền công bố,
với việc tôn trọng các thủ tục họp pháp, thu hồi các bằng hay chứng chỉ đó
không thuộc quốc tịch của quốc gia đó.
3. Không thể ra lệnh bắt hay giữ chiếc tàu, ngay cả trong
khi tiến hành công việc dự thẩm, nếu không phải là nhà đương cục của quốc gia
mà tàu mang cờ.
1. Mọi quốc gia đòi hỏi thuyền trưởng của một chiếc tàu mang
cờ của nước mình, trong chừng mực có thể làm được mà không gây nguy hiểm nghiêm
trọng cho con tàu, cho đoàn thủy thủ hay cho hành khách trên tàu, phải:
a) Giúp đỡ bất kỳ ai đang gặp nguy khốn trên biển;
b) Hết sức nhanh chóng đến cứu những người đang bị nguy cấp
nếu như được thông báo những người này cần được giúp đỡ, trong chừng mực mà người
ta có thể chờ đợi một cách hợp lý là thuyền trưởng phải xử lý như thế;
c) Trong trường hợp xảy ra tai nạn đâm va, giúp đỡ chiếc tàu
kia, đoàn thủy thủ và hành khách của nó và, trong phạm vi có thể, cho chiếc tàu
đó biết tên và cảng đăng ký của tàu mình, và cảng gần nhất mà tàu mình sẽ cập
bến.
2. Tất cả các quốc gia ven biển tạo điều kiện dễ dàng cho
việc thành lập và hoạt động của một cơ quan thường trực về tìm kiếm và cứu trợ
thích hợp và hiệu quả, để đảm bảo an toàn hàng hải và hàng không, và nếu có
thể, thì hợp tác với những nước láng giềng của mình trong khuôn khổ của những
dàn xếp có tính chất khu vực, để thực hiện mục đích nói trên.
Mọi quốc gia đều thi hành các biện pháp có hiệu quả để ngăn
ngừa và trừng trị việc chuyên chở nô lệ trên các tàu được phép mang cờ của nước
mình, và để ngăn ngừa việc lạm dụng sắc cờ của mình vào mục đích nói trên. Mọi
người nô lệ ẩn náu ở trên một chiếc tàu, dù con tàu này mang cờ của bất kỳ quốc
gia nào, cũng được tự do ipso-facto (ngay tức khắc).
Tất cả các quốc gia hợp tác với nhau, bằng mọi khả năng của
mình, để trấn áp cướp biển trên biển cả hay ở bất kỳ nơi nào khác không thuộc
quyền tài phán của quốc gia nào.
Một trong những hành động sau đây là hành động cướp biển:
a) Mọi hành động trái phép dùng hành động hay bắt giữ hoặc
bất kỳ sự cướp phá nào do thủy thủ hoặc hành khách trên một chiếc tàu hay một
phương tiện bay tư nhân gây nên, vì những mục đích riêng tư, và nhằm:
i. Chống lại một chiếc tàu hay một phương tiện bay khác, hay
chống lại những người hay của cải ở trên con tàu hoặc phương tiện bay đỗ ở biển
cả;
ii. Chống lại một chiếc tàu hay một phương tiện bay, người
hay của cải, ở một nơi không thuộc quyền tài phán của một quốc gia nào;
b) Mọi hành động tham gia có tính chất tự nguyện vào việc sử
dụng một chiếc tàu hay một phương tiện bay, khi người tham gia biết từ những sự
việc rằng chiếc tàu hay phương tiện bay đó là một tàu hay phương tiện bay cướp
biển;
c) Mọi hành động nhằm xúi giục người khác phạm những hành
động được xác định ở điểm a hoặc b hay phạm phải với chủ định làm dễ dàng cho
các hành động đó.
Những hành động cướp biển, như đã được xác định ở Điều 101,
của một tàu chiến hay một tàu Nhà nước hay một phương tiện bay của Nhà nước bị
đoàn thủy thủ hay đội bay nổi loạn làm chủ, được coi là hành động của các tàu
hay phương tiện bay tư nhân.
Những tàu hay phương tiện bay mà kể kiểm soát nó thực sự,
chủ trương sử dụng để phạm một trong những hành động được nêu ở Điều 101, được
coi là những tàu hay phương tiện bay cướp biển. Những chiếc tàu hay phương tiện
bay đã được dùng để phạm những hành động nói trên cũng được coi là tàu hay
phương tiện bay cướp biển chừng nào nó còn ở dưới quyền kiểm soát của những
người gây ra những hành động đó.
Một con tàu hay một phương tiện bay đã trở thành cướp biển
có thể giữ quốc tịch của mình. Việc giữ hay mất quốc tịch do luật trong nước
của quốc gia đã trao quốc tịch đó điều chỉnh.
Mọi quốc gia ở biển cả, hay ở bất cứ nơi nào khác không
thuộc quyền tài phán của bất kỳ quốc gia nào, đều có thể bất giữ một chiếc tàu hay
một phương tiện bay đã trở thành cướp biển, hoặc một chiếc tàu hay một phương
tiện bay bị chiếm đoạt sau một hành động cướp biển và đang nằm trong tay bọn
cướp biển, và đều có thể bắt giữ người và của cải ở trên con tàu hay phương
tiện bay đó. Các tòa án của quốc gia đã tiến hành việc bắt đó có thể công bố
các hình phạt cũng như các biện pháp áp dụng đối với chiếc tàu, phương tiện bay
hay của cải, trừ những người lương thiện trong cuộc.
Khi bắt giữ một chiếc tàu hay một phương tiện bay bị tình nghi
là cướp biển mà không có lý do đầy đủ, quốc gia nào đã tiến hành việc bắt giữ
đó phải chịu trách nhiệm về bất kỳ tổn thất hay thiệt hại nào do hành động đó
gây ra đối với quốc gia mà tàu mà phương tiện bay đó mang quốc tịch.
Chỉ có các tàu chiến hay phương tiện bay quân sự, hoặc các
tàu thuyền hay phương tiện bay khác mang các dấu hiện bên ngoài chứng tỏ rõ
ràng là của một cơ quan Nhà nước và được tiến hành nhiệm vụ này, mới có thể
thực hiện việc bắt giữ vì lý do cướp biển.
1. Tất cả các quốc gia hợp tác với nhau để trấn áp việc buôn
bán trái phép các chất ma túy và các chất kích thích do các tàu đi lại ở biển
cả tiến hành, vi phạm các công ước quốc tế.
2. Mọi quốc gia khi đã có lý do chính đáng để cho rằng một
tàu mang cờ của nước mình đang buôn bán trái phép các chất ma túy và các chất
kích thích đều có thể yêu cầu các quốc gia khác hợp tác để chấm dứt việc buôn
bán đó.
1. Tất cả các quốc gia hợp tác với nhau để trấn áp phát sóng
không được phép từ biển cả.
2. Trong Công ước “phát sóng không được phép” là các cuộc
phát thanh và vô tuyến truyền hình nhằm vào quảng đại quần chúng từ một chiếc
tàu hay một thiết bị ở biển cả vi phạm các quy chế quốc tế, trừ việc phát các
tín hiệu cấp cứu.
3. Người nào tiến hành truyền các cuộc phát sóng không được
phép đều có thể bị truy tố trước tòa án của:
a) Quốc gia mà chiếc tàu phát sóng mang cờ;
b) Quốc gia đăng ký của thiết bị;
c) Quốc gia mà người nói trên là công dân;
d) Mọi quốc gia mà ở đó các cuộc phát sóng có thể thu được;
e) Mọi quốc gia có các đài thông tin vô tuyến được phép đã
bị nhiễu do các cuộc phát sóng đó.
4. Ở biển cả, một quốc gia có quyền tài phán ở theo đúng
khoản 3, có thể theo đúng Điều 110, bắt bất kỳ người nào hay giữ bất kỳ chiếc tàu
nào truyền các cuộc phát sóng không được phép và tịch thu phương tiện phát
sóng.
1. Trừ những trường hợp mà việc can thiệp là căn cứ vào
những quyền do hiệp ước mang lại, một tàu chiến khi gặp một tàu nước ngoài ở
trên biển cả không phải là một tàu được hưởng quyền miễn trừ như đã nêu ở các
Điều 95 và 96, chỉ có thể khám xét chiếc tàu đó nếu có những lý do đúng đắn để nghi
ngờ chiếc tàu đó:
a) Tiến hành cướp biển;
b) Chuyên chở nô lệ;
c) Dùng vào các cuộc phát sóng không được phép, quốc gia mà
chiếc tàu mang cờ có quyền tài phán theo Điều 109;
d) Không có quốc tịch; hay
e) Thật ra là cùng quốc tịch với chiếc tàu chiến, mặc dù
chiếc tàu này treo cờ nước ngoài hay từ chối treo cờ của mình.
2. Trong những trường hợp nêu ở khoản 1, tàu chiến có thể
kiểm tra các giấy tờ cho phép mang cờ. Vì mục đích này, tàu chiến có thể phái
một chiếc xuồng, dưới sự chỉ huy của một sĩ quan, đến gần chiếc tàu bị tình nghi.
Sau khi kiểm tra các tài liệu, nếu vẫn còn nghi vấn thì có thể tiếp tục điều
tra trên tàu với một thái độ hết sức đúng mực.
3. Nếu việc nghi ngờ xét ra không có cơ sở thì chiếc tàu bị
khám xét được bồi thường về mọi tổn thất hay thiệt hại xảy ra, với điều kiện là
chiếc tàu này không phạm một hành động nào làm cho nó bị tình nghi.
4. Các điều quy định này được áp dụng mutatis mutandis (với
những sửa đổi cần thiết về chi tiết) đối với các phương tiện bay quân sự.
5. Các điều quy định này cũng được áp dụng đối với tất cả
các tàu thuyền hay phương tiện bay khác đã được phép một cách hợp lệ và mang
những dấu hiệu bên ngoài chỉ rõ rằng chúng được sử dụng cho một cơ quan Nhà
nước.
1. Việc truy đuổi một tàu nước ngoài có thể được tiến hành
nếu những nhà đương cục có thẩm quyền của quốc gia ven biển có những lý do đúng
đắn để cho rằng chiếc tàu này đã vi phạm các luật và quy định của quốc gia đó.
Việc truy đuổi phải bắt đầu khi chiếc tàu nước ngoài hay một trong những chiếc
xuồng của nó đang ở trong nội thủy, trong vùng nước quần đảo, trong lãnh hải
hay trong vùng tiếp giáp của quốc gia truy đuổi, và chỉ có thể được tiếp tục ở
ngoài ranh giới của lãnh hải hay vùng tiếp giáp với điều kiện là việc truy đuổi
này không bị gián đoạn. Không nhất thiết là chiếc tàu ra lệnh cho tàu nước
ngoài đang đi trong lãnh hải hay trong vùng tiếp giáp dừng lại cũng phải có mặt
tại các vùng biển ấy khi mà chiếc tàu nước ngoài này nhận được lệnh. Nếu chiếc
tàu nước ngoài ở trong vùng tiếp giáp, được quy định ở Điều 33, việc truy đuổi
chỉ có thể bắt đầu nếu tàu đó đã vi phạm các quyền, mà việc thiết lập vùng tiếp
giáp có nhiệm vụ bảo vệ.
2. Quyền truy đuổi được áp dụng matatis mutandis (với những
sửa đổi cần thiết về chi tiết) đối với những hành động vi phạm các luật và quy
định của quốc gia ven biển có thể áp dụng, theo đúng Công ước, cho vùng đặc
quyền kinh tế hay thềm lục địa, kể cả các vùng an toàn bao quanh các thiết bị ở
thềm lục địa, nếu các vi phạm này đã xảy ra trong các vùng nói trên.
3. Quyền truy đuổi chấm dứt khi chiếc tàu bị truy đuổi đi
vào lãnh hải của quốc gia mà nó thuộc quyền hay của một quốc gia khác.
4. Việc truy đuổi chi được coi như bắt đầu, nếu chiếc tàu
truy đuổi bằng các phương tiện có thể sử dụng được mà mình có, biết một cách
chắc chắn là chiếc tàu bị đuổi, hay một những trong chiếc xuồng của nó hoặc các
phương tiện đi biển khác hoạt động thành tốp và dùng chiếc tàu bị truy đuổi làm
chiếc tàu mẹ, đang ở bên trong ranh giới của lãnh hải, hay tùy theo trường hợp
đang ở trong vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế hay ở trên thềm lục địa.
Việc truy đuổi chỉ có thể bắt đầu sau khi đã phát tín hiệu nhìn hoặc nghe bắt
nó dừng lại, ở một cự ly cần thiết để chiếc tàu nói trên nhận biết được.
5. Quyền truy đuổi chỉ có thể được thực hiện bởi các tàu chiến
hay các phương tiện quân sự hoặc các tàu hay phương tiện bay khác có mang các
dấu hiện ở bên ngoài chỉ rõ rang rằng, các tàu hay phương tiện bay đó được sử
dụng cho một cơ quan Nhà nước và được phép làm nhiệm vụ này.
6. Trong trường hợp mà chiếc tàu bị một phương tiện bay truy
đuổi:
a) Các khoản 1 đến 4 được áp dụng mutatis mutandis (với
những thay đổi cần thiết và chi tiết);
b) Phương tiện bay nào phát lệnh dừng lại phải tự mình truy
đuổi chiếc tàu cho đến lúc một chiếc tàu hay phương tiện bay khác của quốc gia
ven biển; sau khi được phương tiện bay nói trên thông báo, đã đến những vị trí để
tiếp tục cuộc truy đuổi nếu như phương tiện đầu tiên không thể tự mình giữ được
chiếc tàu. Để chứng minh cho việc bắt một chiếc tàu dừng lại ở ngoài lãnh hải
là đúng, thì riêng việc phát hiện chiếc tàu này đã vi phạm hay bị nghi ngờ là
vị phạm là chưa đủ, mà còn phải xác định đồng thời xem nó có bị phương tiện bay
hay tàu khác yêu cầu dừng lại và việc truy đuổi này phải không hề bị gián đoạn.
7. Không thể đòi hủy lệnh giữ một chiếc tàu bị bắt ở địa
điểm thuộc quyền tài phán của một quốc gia và bị dẫn độ về một cảng của quốc
gia này để cho các nhà đương cục có thẩm quền tiến hành điều tra với lý do duy
nhất là vì hoàn cảnh bắt buộc chiếc tàu đó đã đi có hộ tống qua một phần của
vùng đặc quyền về kinh tế hay của biển cả.
8. Một chiếc tàu đã bị bắt dừng lại hay bị bắt ở ngoài lãnh
hải trong những hoàn cảnh không chứng minh được cho việc sử dụng quyền truy
đuổi thì được bồi thường về mọi tổn thất hay tổn hại nếu có.
1. Mọi quốc gia có quyền đặt các dây cáp hay ống dẫn ngầm ở
đáy biển cả bên ngoài thềm lục địa.
2. Điều 79, khoản 5, được áp dụng đối với đường dây cáp và
ống dẫn ngầm này.
Mọi quốc ra đều định ra các luật và quy định cần thiết để
coi là hành động vi phạm có thể bị trừng phạt: một chiếc tàu mang cờ của quốc
gia đó hay một người thuộc quyền tài phán của quốc gia đó đã cố ý hay do cẩu thả
mà làm cho một đường dây cáp cao thế hay một đường ống dẫn ngầm ngoài biển cả
bị đứt đoạn hay hư hỏng một đường dây cáp điện báo hay điện thoại ngầm trong
chừng mực có nguy cơ làm rối loạn hay làm gián đoạn thông tin điện báo hay điện
thoại. Điều quy định này cũng áp dụng cho bất kỳ hành động nào có thể gây nên
tình trạng các đường dây cáp hay ống dẫn ngầm nói trên bị cắt đứt hoặc hư hỏng
hay cố ý nhằm gây nên tình trạng đó. Tuy nhiên, điều quy định này không áp dụng
khi việc làm đứt đoạn hay hư hỏng đường dây cáp và ống dẫn là hành động của
những người, sau khi đã thi hành tất cả các biện pháp phòng ngừa cần thiết để
tránh gây ra tình trạng đó, chỉ hành động nhằm mục đích chính đáng cứu lấy sinh
mạng hay con tàu của họ.
Mọi quốc ra đều định ra các luật và quy định cần thiết để
trong trường hợp một dây cáp hay một ống dẫn ngầm ở biển cả bị đứt đoạn hay hư
hỏng do việc đặt một dây cáp hay một ống dẫn ngầm khác của một người có quyền tài
phán của mình, người này phải chịu những phí tổn để sửa chữa những thiệt hại mà
mình gây ra.
Mọi quốc ra đều định ra các luật và quy định cần thiết để
người chủ của con tàu nào đưa ra được chứng cứ chứng minh rằng đã chịu mất một
chiếc neo, một tấm lưới hay một phương tiện đánh bắt khác nhằm trành làm hư
hỏng một dây cáp hay một ống dẫn ngầm, thì được người người sở hữu của dây cáp
hay một ống dẫn ngầm bồi thường, với điều kiện là người chủ của con tàu đó đã
dùng mọi biện pháp đề phòng hợp lý.
Tất cả các quốc gia đều có quyền cho công dân của mình đánh
bắt ở biển cả, với điều kiện:
a) Tuân theo các nghĩa vụ ghi trong công ước;
b) Tôn trọng các quyền và nghĩa vụ cũng như các lợi ích của
các quốc gia ven biển như đã được trù định, đặc biệt là trong Điều 63, khoản 2
và trong các Điều từ 64 đến 67; và
c) Tuân theo mục này
Tất cả các quốc gia có nghĩa vụ định ra các biện pháp có thể
cần thiết để áp dụng đối với các công dân của mình nhảm bảo tồn tài nguyên sinh
vật của biển cả hoặc hợp tác với các quốc gia khác trong việc định ra các biện
pháp như vậy.
Các quốc gia hợp tác với nhau trong việc bảo tồn và quản lý
tài nguyên sinh vật ở biển cả. Các quốc gia có công dân khai thác tài nguyên
sinh vật khác nhau ở trong cùng một khu vực hoặc các tài nguyên sinh vật giống
nhau, thương lượng với nhau để có những biện pháp cần thiết trong việc bảo tồn
các tài nguyên đó. Nhằm mục đích đó, nếu cần, các nước này hợp tác để lập ra
các tổ chức đánh bắt phân khu vực hoặc khu vực.
1. Khi quy định khối lượng cho phép đánh bắt và thi hành các
biện pháp khác để bảo tồn các tài nguyên sinh vật ở biển cả, các quốc gia phải:
a) Dựa trên những số liệu đáng tin cậy nhất của mình, quan
tâm đến việc khôi phục hay duy trì các đàn (stocks), những loài khai thách ở
những mức độ đảm bảo năng suất ổn định tối đa, có chú ý tới những yếu tố sinh
thái và kinh tế thích đáng, kể cả những nhu cầu đặc biệt của những quốc gia
đang phát triển và có tính đến những phương pháp đánh bắt, đến quan hệ hỗ tương
giữa các đàn (stocks) và đến tất cả mọi quy phạm quốc tế tối thiểu thường được
kiến nghị chung trong phạm vi phân khu vực, khu vực hay thế giới;
b) Quan tâm đến những tác động của các biện pháp này đối với
những loài quần vợt với các loài bị khai thác hay phụ thuộc vào chúng, để duy
trì và khôi phục các đàn (stocks) của các loài quần hợp hay phụ thuộc này ở mức
độ mà việc sinh sản của chúng không có nguy cơ bị tổn hại nghiêm trọng.
2. Các thông tin khoa học sẵn có, những số liệu thống kê
liên quan đến việc đánh bắt và đến khả năng của nghề cá và các dữ kiện khác
liên quan đến việc bảo tồn và các đàn cá được phổ biến và trao đổi đều đặn qua
trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền phân khu vực, khu vực hay thế
giới, và nếu được, với sự tham gia của tất cả các quốc gia hữu quan.
3. Các quốc gia hữu quan chăm lo sao cho những biện pháp bảo
tồn và việc áp dụng những biện pháp đó không dẫn đến một sự phân biệt đối xử
nào về mặt pháp lý hay về mặt thực tế đối với bất cứ ngư dân nào, bất kể họ là
công dân của quốc gia nào.
Điều 65 cũng áp dụng cho việc bảo tồn và quản lý các loài có
vú ở biển cả.
1. Một đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi
thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước.
2. Với điều kiện phải tuân thủ khoản 3, lãnh hải, vùng tiếp
giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của hòn đảo được hoạch định
theo đúng các quy định của Công ước áp dụng cho các lãnh thổ đất liền khác.
3. Những hòn đảo đá nào không thích hợp cho con người đến ở
hoặc cho một đời sống kinh tế riêng, thì không có vùng đặc quyền về kinh tế và
thềm lục địa.
Trong Công ước, “biển kín hay nửa kín” là một vịnh,
một vũng hay một vùng biển do nhiều quốc gia bao bọc xung quanh và thông với
một biển khác hay với đại dương qua một cửa hẹp, hoặc là hoàn toàn do chủ yếu
hay các lãnh hải và các vùng đặc quyền về kinh tế của nhiều quốc gia tạo thành.
Các quốc gia ở ven bở một biển kín hay nửa kín cần hợp tác
với nhau trong việc sử dụng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ của họ theo
Công ước. Vì mục đích này, trực tiếp hoặc qua trung gian của một tổ chức khu
vực thích hợp, các quốc gia này cố gắng:
a) Phối hợp trong việc quản lý, bảo tồn, thăm dò và khai thác
các tài nguyên sinh vật của biển;
b) Phối hợp trong việc sử dụng các quyền và thực hiện các
nghĩa vụ của họ có liên quan đến việc bảo vệ và giữ gìn môi trường biển;
c) Phối hợp các chính sách khoa học của họ, và nếu có thể,
thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa học chung trong vùng được xem xét;
d) Nếu có thể thì mời các quốc gia khác hay các tổ chức quốc
tế hữu quan hợp tác với họ trong việc áp dụng điều này.
1. Trong Công ước:
a) “Quốc gia không có biển” (Etat sans littoral) có nghĩa
là mọi quốc gia không có bờ biển;
b) “Quốc gia quá cảnh” (Etat de transit) là mọi quốc
gia có hay không có bờ biển, ở giữa một quốc gia không có bờ biển và biển, việc
vận chuyển quá cảnh phải đi qua quốc gia đó;
c) “Vận chuyển quá cảnh” (trafic en transit) là việc
quá cảnh người, hàng hóa, của cải và các phương tiện vận tải qua lãnh thổ của một
hay nhiều quốc gia quá cảnh, khi quãng đường ở trên lãnh thổ này, dù có hoặc
không có việc chuyển tải, việc lưu kho, việc chở hàng bị ngắt quãng hay việc
thay đổi phương thức vận chuyển, chỉ là một phần của một chuyến đi hoàn chỉnh
hay bắt đầu kết thúc trên lãnh thổ của quốc gia không có bờ biển;
d) “Phương tiện vận chuyển” (moyens de transport) là:
i. Phương tiện chạy trên đường sắt, tàu đi biển, tàu chạy
trên hồ, trên sông và các xe cộ trên đường bộ;
ii. Khi các điều kiện địa phương bắt buộc, là những người
khuân vác hoặc súc vật kéo.
2. Các quốc gia không có biển và các quốc gia quá cảnh có
thể thỏa thuận xếp vào các phương tiện vận chuyển các ống dẫn và ống dẫn khí
đốt và các phương tiện khác ngoài các phương tiện đã nêu ở khoản 1.
1. Các quốc gia không có biển có quyền đi ra biển và từ biển
vào để sử dụng các quyền được trù định trong Công ước, kể cả các quyền liên
quan đến tự do trên biển cả và liên quan đến di sản chung của loài người. Vì
mục đích ấy, các quốc gia đó được hưởng tự do quá cảnh qua lãnh thổ của các
quốc gia quá cảnh bằng mọi phương tiện vận chuyển.
2. Các điều kiện và thể thức sử dụng quyền tự do quá cảnh
được thỏa thuận giữa các quốc gia không có biển và các quốc gia quá cảnh hữu
quan qua con đường thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu vực.
3. Trong việc sử dụng chủ quyền toàn vẹn trên lãnh thổ của
mình, các quốc gia quá cảnh có quyền ra tất cả mọi biện pháp cần thiết để đảm
bảo rằng, các quyền và các điều kiện thuận lợi được quy định trong phần này vì
lợi ích của quốc gia không có biển, không hề đụng chạm đến lợi ích chính đáng
của quốc gia quá cảnh.
Các quy định của Công ước cũng như các điều ước đặc biệt
liên quan đến việc sử dụng quyền ra biển và đi từ biển vào trù định các quyền
và các điều kiện thuận lợi cho các quốc gia không có biển do vị trí địa lý đặc
biệt của quốc gia đó, bị loại trừ khỏi việc áp dụng điều khoản tối huệ quốc.
1. Việc vận chuyển quá cảnh không phải nộp thuế quan, thuế hay
mọi khoản lệ phí khác, ngoài các khoản thuế trả cho các dịch vụ đặc biệt liên
quan đến việc vận chuyển đó.
2. Các phương tiện vận chuyển quá cảnh và các điều kiện
thuận lợi khác cho việc quá cảnh dành cho quốc gia không có biển và được quốc
gia này sử dụng, không phải chịu các thứ thuế hay các khoản lệ phí cao hơn các
khoản phải trả cho việc sử dụng các phương tiện vận chuyển của quốc gia quá
cảnh.
Khi trong các quốc gia quá cảnh không có các phương tiện vận
chuyển cho phép sử dụng thật sự quyền tự do quá cảnh, hoặc khi các phương tiện
hiện có, kể cả các trang thiết bị cảng, không thích đáng về bất cứ một phương
diện nào, quốc gia quá cảnh và quốc gia không có biển hữu quan có thể hợp tác
để đóng hay cải tiến các phương tiện hiện có.
1. Quốc gia quá cảnh thi hành mọi biện pháp thích hợp để
tránh mọi tình trạng chậm trễ hay những khó khăn có tính chất kỹ thuật trong việc
vận chuyển quá cảnh.
2. Các nhà đương cục có thẩm quyền của quốc gia quá cảnh
không có biển, trong trường hợp có tình trạng chậm trễ hay khó khăn, hợp tác để
nhanh chóng loại trừ các nguyên nhân của tình trạng đó.
Các tàu mang cờ của một quốc gia không có biển được hưởng
trong các cảng biển sự đối xử bình đẳng như các tàu nước ngoài khác.
Công ước không có hàm ý rút bớt những điều kiện thuận lợi
rộng rãi hơn những điều mà Công ước đã trù định và đã được sự thỏa thuận giữa các
quốc gia thành viên hay đã được một quốc gia thành viên chấp nhận. Công ước
cũng tuyệt đối không cấm các quốc gia thành viên trong tương lai dành những
điều kiện thuận lợi rộng rãi hơn.
Trong phần này
a) “Tài nguyên” (ressources) là tất cả các tài nguyên khoáng
sản ở thể rắn, lỏng hoặc khí in situ (ở ngay tại chỗ) trong Vùng, nằm ở đáy
biển hay lòng đất dưới đáy biển này, kể cả các khối đá kim (nodules
polymétalliques);
b) Các tài nguyên, một khi đã được khai thác từ Vùng, được
gọi là “các khoáng sản” (minéraux)
1. Phần này được áp dụng đối với Vùng
2. Các hoạt động tiến hành trong Vùng do phần này điều
chỉnh.
3. Việc gửi lưu chiểu các bản đồ hay bản kê các tọa độ địa
lý xác định vị trí các ranh giới nêu ở Điều 1, khoản 1, cũng như việc công bố
các bản đồ hay bản kê tọa độ đó, do phần VI điều chỉnh.
4. Không một điều nào của quy định này đụng chạm đến việc
xác đinh ranh giới ngoài của thềm lục địa theo đúng phần VI hay đến hiệu lực
của các điều ước liên quan đến việc hoạch định ranh giới giữa các quốc gia có
bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau.
Phần này cũng như các quyền được hưởng hay được thực hiện
theo phần này không ảnh hưởng đến chế độ pháp lý của vùng nước ở phía trên Vùng
hay đến chế độ pháp lý của vùng trời ở phía trên vùng nước này.
Vùng và tài nguyên của nó là di sản chung của loài người.
1. Không một quốc gia nào có thể đòi hỏi thực hiện chủ quyền
hay các quyền thuộc chủ quyền ở một phần nào đó của Vùng hoặc đối với tài
nguyên của Vùng; không một quốc gia nào và không một tự nhiên nhân hay pháp
nhân nào có thể chiếm đoạt bất cứ một phần nào đó của Vùng hoặc tài nguyên của
Vùng. Không một yêu sách, một việc thực hiện chủ quyền hay các quyền thuộc
quyền chủ quyền này cũng như một hành động chiếm đoạt nào được thừa nhận.
2. Toàn thể loài người, mà Cơ quan quyền lực là người thay
mặt có tất cả các quyền đối với các tài nguyên của Vùng. Những tài nguyên này
không thể chuyển nhượng được. Còn các khoáng sản đã được khai thác từ Vùng thì chỉ
có thể chuyển nhượng theo đúng phần này và phù hợp với các nguyên tắc, quy định
và các thủ tục của Cơ quan quyền lực.
3. Một quốc gia hay một tự nhiên nhân hay pháp nhân chỉ được
đòi hỏi, giành lấy hoặc thực hiện các quyền đối với các khoáng sản đã được khai
thác ở Vùng theo đúng phần này. Các quyền đã đòi hỏi, giành được hay được thực
hiện bằng cách khác đều không được thừa nhận.
Trong cách xử sự chung liên quan đến Vùng, các quốc gia tuân
theo phần này, các nguyên tắc được nêu trong Hiến chương Liên Hợp quốc và các
quy tắc khác của pháp luật quốc tế, với sự quan tâm giữ gìn hòa bình và an
ninh, đẩy mạnh sự hợp tác quốc tế và hiểu biết lẫn nhau.
1. Các quốc gia thành viên có nghĩa vụ quan tâm đến việc bảo
đảm cho các hoạt động trong Vùng, dù do bản thân các quốc gia đó, do các xí
nghiệp Nhà nước của họ hoặc do các tự nhiên nhân hay pháp nhân mang quốc tịch
của họ hoặc chịu sự kiểm soát thật sự của họ hay các công dân của họ, được tiến
hành theo đúng với phần này. Các tổ chức quốc tế cũng có nghĩa vụ như vậy với
các hoạt động trong vùng.
2. Không phương hại đến các quy tắc của pháp luật quốc tế và
đến Điều 22 của Phụ lục III, một quốc gia thành viên hay một tổ chức quốc tế
phải chịu những trách nhiệm về các thiệt hại do một thiếu sót của mình đối với
những nghĩa vụ mà họ phải đảm nhận theo phần này; các quốc gia thành viên hay
các tổ chức quốc tế khi cùng hành động thì phải liên đới chịu trách nhiệm. Tuy
nhiên, quốc gia thành viên không chịu trách nhiệm về các thiệt hại do một thiếu
sót như vậy của một người do quốc gia này bảo trợ theo Điều 153; khoản 2, điểm
b, nếu quốc gia này đã thi hành tất cả các biện pháp cần thiết và thích hợp để
bảo đảm việc tôn trọng thật sự phần này của các phụ lục có liên quan, như đã
trù định trong Điều 153, khoản 4 và Điều 4 khoản 4 của Phụ lục III.
3. Các quốc gia thành viên là hội viên của các tổ chức quốc
tế cần thi hành những biện pháp thích hợp để bảo đảm việc áp dụng điều này đối
với các tổ chức đó.
1. Các hoạt động trong vùng được tiến hành, như đã được ghi
nhận rõ ràng trong phần này, là vì lợi ích của toàn thể loài người, không phụ
thuộc vào vị trí của các quốc gia, dù là quốc gia có biển hay không có biển, và
có lưu ý đặc biệt đến các lợi ích và nhu cầu của quốc gia đang phát triển và
của các dân tộc chưa giành được nền độc lập đầy đủ hay một chế độ tự trị khác được
Liên hợp quốc thừa nhận theo đúng Nghị quyết 1514 (XV) và các nghị quyết tương
ứng khác của Đại hội đồng.
2. Cơ quan quyền lực bảo đảm việc phân chia công bằng, trên
cơ sở không phân biệt đối xử, những lợi ích tài chính và các lợi ích kinh tế khác
do những hoạt động tiến hành trong Vùng qua một bộ máy thích hợp theo đúng Điều
160 khoản 2, điểm f, điểm nhỏ i, đem lại.
Vùng để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù quốc gia có biển hay
không có biển, sử dụng vào những mục đích hoàn toàn hòa bình, không phân biệt
đối xử và không phương hại đến các điều quy định khác của phần này.
1. Trong trường hợp các vỉa tài nguyên của Vùng trải rộng ra
ngoài ranh giới của Vùng, thì những hoạt động tiến hành trong Vùng cũng được mở
rộng như thế, nhưng phải tính đến các quyền và lợi ích chính đáng của quốc gia
ven biển có quyền tài phán đối với các vỉa tài nguyên nói trên.
2. Một phương thức tham khảo ý kiến với quốc gia hữu quan,
và nhất là phương thức thông báo trước, đặt ra để tránh bất kỳ sự xâm phạm nào
đến các quyền và lợi ích đó. Trong những trường hợp mà các hoạt động tiến hành
trong Vùng có thể dẫn đến việc khai thác các tài nguyên ở phía trong các ranh
giới thuộc quyền tài phán quốc gia của một quốc gia ven biển thì cần phải có sự
đồng ý trước của quốc gia này.
3. Phần này cũng như các quyền được thừa nhận hay được sử
dụng theo phần này, không xâm phạm đến quyền của quốc gia ven biển được thi
hành những biện pháp phù hợp với các quy định tương ứng của phần XII có thể cần
thiết để ngăn ngừa, hạn chế hay loại bỏ một mối nguy hiểm nghiêm trọng và sắp
xảy ra đối với vùng duyên hải của họ hoặc đối với các lợi ích có liên quan do
một tình trạng ô nhiễm hay một sự đe dọa ô nhiễm nảy sinh từ tất cả các hoạt
động tiến hành trong Vùng hay do tất cả các tai nạn khác gây ra bởi các hoạt
động đó.
1. Việc nghiên cứu khoa học biển trong Vùng được tiến hành
nhằm những mục đích hoàn toàn hòa bình và vì lợi ích của toàn thể loài người
theo đúng phần XIII.
2. Cơ quan quyền lực có thể thực hiện các công trình nghiên
cứu khoa học biển đối với Vùng và các tài nguyên của Vùng và có thể ký các hợp
đồng nhằm mục đích này. Cơ quan quyền lực tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích
việc nghiên cứu khoa học biển trong Vùng; phối hợp, phổ biến các kết quả của
các công trình nghiên cứu và phân tích đó khi chúng sẵn sàng sử dụng được.
3. Các quốc gia thành viên có thể tiến hành các công trình
nghiên cứu khoa học biển trong Vùng. Các quốc gia này tạo điều kiện dễ dàng cho
việc hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học biển trong vùng, bằng cách:
a) Tham gia các chương trình quốc tế và khuyến khích việc hợp
tác về nghiên cứu khoa học biển do nhân viên của các nước và nhân viên của Cơ
quan quyền lực thực hiện;
b) Quan tâm đến việc các chương trình, được soạn thảo qua
trung gian của Cơ quan quyền lực hay tùy theo tình hình, qua trung gian của các
tổ chức quốc tế khác, vì lợi ích của các quốc gia đang phát triển và các quốc
gia kém phát triển về mặt kỹ thuật, nhằm:
i. Tăng cường tiềm lực nghiên cứu của họ;
ii. Đào tạo nhân viên của quốc gia đó và nhân viên của Cơ
quan quyền lực về kỹ thuật và về ứng dụng công trình nghiên cứu tiến hành trong
Vùng;
c) Phổ biến một cách có hiệu quả các kết quả nghiên cứu và
phân tích, khi các kết quả này có thể sử dụng được, qua trung gian của Cơ quan
quyền lực hay nếu có thể, qua các bộ máy quốc tế khác.
1. Theo đúng Công ước, Cơ quan quyền lực thi hành các biện
pháp để:
a) Nắm được những kỹ thuật và kiến thức khoa học liên quan
đến các hoạt động tiến hành trong Vùng; và
b) Tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích việc chuyển giao
cho các quốc gia đang phát triển các kỹ thuật và kiến thức khoa học nói trên,
sao cho mọi quốc gia thành viên đều được hưởng.
2. Vì mục đích này, Cơ quan quyền lực và các quốc gia thành
viên hợp tác để thúc đẩy việc chuyển giao kỹ thuật và các kiến thức khoa học
liên quan đến những hoạt động tiến hành trong Vùng sao cho Xí nghiệp và tất cả
các quốc gia thành viên đều có thể được hưởng. Đặc biệt, Cơ quan quyền lực và
các quốc gia thành viên đề xuất hoặc khuyến khích:
a) Các chương trình để chuyển giao cho Xí nghiệp và cho các
quốc gia đang phát triển các kỹ thuật liên quan đến các hoạt động tiến hành
trong Vùng, nhất là trù định cho Xí nghiệp và các quốc gia đang phát triển,
những điều kiện thuận lợi để nắm được các kỹ thuật thích hợp theo những thể
thức và các điều kiện công bằng hợp lý;
b) Những biện pháp nhằm bảo đảm sự tiến bộ về kỹ thuật của
Xí nghiệp và những kỹ thuật trong nước của các quốc gia đang phát triển, đặc
biệt là tạo điều kiện cho nhân viên của Xí nghiệp và của các quốc gia này được đào
tạo về khoa học và kỹ thuật biển, cũng như được tham gia đầy đủ vào các hoạt
động tiến hành trong vùng.
Đối với các hoạt động tiến hành trong Vùng, các biện pháp
cần thiết phải được thi hành theo đúng Công ước để bảo vệ có hiệu quả môi
trường biển chống lại những tác hại có thể do các hoạt động đó gây ra. Vì mục
đích đó, Cơ quan quyền lực định ra các quy tắc, quy định và thủ tục thích hợp,
đặc biệt nhằm để:
a) Ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm môi trường
biển, kể cả vùng duyên hải và đối phó với những nguy cơ khác đe dọa môi trường
đó, cũng như với bất kỳ sự biến động nào về tình trạng cân bằng sinh thái của
môi trường biển, bằng cách, đặc biệt chú ý đến sự cần thiết phải bảo vệ môi
trường chống lại những tác hại của những hoạt động như khoan, nạo vét, đào,
loại bỏ các chất thải, xây dựng và khai thác hay bảo dưỡng các thiết bị, ống
dẫn và các phương tiện khác được sử dụng vào các hoạt động này;
b) Bảo vệ và bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên của Vùng và phòng
ngừa thiệt hại đối với hệ thực vật và động vật ở biển.
Đối với các hoạt động tiến hành trong Vùng, những biện pháp cần
thiết phải được thi hành để bảo đảm việc bảo vệ có hiệu quả sự sống của con
người. Vì mục đích ấy, Cơ quan quyền lực định ra các quy tắc, quy định và thủ
tục thích hợp để bổ sung cho pháp luật quốc tế hiện tại như đã ghi trong các
hiệp ước về vấn đề này.
1. Các hoạt động được tiến hành trong Vùng cần phải được
quan tâm một cách hợp lý đến các hoạt động khác đang được thực hiện trong môi
trường biển.
2. Các điều kiện sau đây được áp dụng cho các thiết bị được
sử dụng cho các hoạt động tiến hành trong Vùng:
a) Các thiết bị này chỉ được xây lắp, bố trí và tháo gỡ theo
đúng với phần này và trong các điều kiện do các quy tắc, quy định và thủ tục
của Cơ quan quyền lực đề ra. Việc xây lắp, bố trí và tháo gỡ chúng phải được
thông báo đúng thủ tục và cần phải duy trì các phương tiện thường trực để báo
hiệu sự có mặt của các thiết bị đó;
b) Các thiết bị này không được đặt ở các vị trí có thể gây
trở ngại cho việc sử dụng các đường giao thông được thừa nhận là thiết yếu đối
với hàng hải quốc tế, cũng không được đặt trong các vùng mật độ đánh cá tập
trung;
c) Các thiết bị này được các vùng an toàn bao quanh; các
vùng an toàn này được đánh dấu một cách thích hợp để bảo đảm an toàn cho bản
thân và các thiết bị đó và cho hàng hải. Hình thể và vị trí của các Vùng an
toàn này được xác định sao cho chúng không tạo thành một vành đai cản trở các
tàu thuyền đi đến một số Vùng biển nào đó một cách hợp pháp, hay cản trở giao
thông trên các đường hàng hải quốc tế;
d) Các thiết bị này được dùng vào những mục đích hoàn hòa
bình;
e) Các thiết bị này không có quy chế của các đảo. Chúng
không có lãnh hải riêng; sự có mặt của chúng không ảnh hưởng đến việc hoạch
định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế hay thềm lục địa.
3. Các hoạt động khác diễn ra trong môi trường biển được
tiến hành với sự chú ý đúng mức đến các hoạt động được tiến hành trong Vùng.
Việc tham gia của các quốc gia đang phát triển vào các hoạt
động tiến hành trong Vùng được khuyến khích, như đã được trù định rõ ràng trong
phần này, với sự chú ý thích đáng đến các nhu cầu và lợi ích đặc biệt của các
quốc gia này, và nhất là nhu cầu đặc biệt của các quốc gia đang phát triển
không có biển hay ở vào hoàn cảnh địa lý bất lợi, cần vượt qua những trở ngại
do vị trí bất lợi của họ gây ra, đặc biệt là vì họ ở xa Vùng và việc họ đến
Vùng và rời khỏi Vùng đều khó khăn.
Tất cả các di vật khảo cổ hay lịch sử tìm thấy ở trong Vùng,
đều được bảo tồn hay nhượng lại, vì lợi ích của toàn thể loài người, đặc biệt
quan tâm đến các quyền ưu tiên của quốc gia hay của nơi xuất xứ hoặc của quốc
gia xuất xứ về văn hóa, hay còn của quốc gia xuất xứ về lịch sử hay khảo cổ.
Các hoạt động tiến hành trong Vùng, như đã được trù định rõ
ràng trong phần này, phải làm sao tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển hài
hòa nền kinh tế thế giới và sự mở rộng một cách cân đối nền thương mại quốc tế,
thúc đẩy hợp tác quốc tế vì sự phát triển toàn diện của tất cả các quốc gia, và
đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, và nhằm:
a) Khai thác các tài nguyên của Vùng;
b) Quản lý một cách có phương pháp, chắc chắn và hợp lý các tài
nguyên của Vùng, đặc biệt quan tâm làm sao cho các hoạt động tiến hành trong Vùng
có hiệu quả, tránh bất kỳ sự lãng phí nào, theo đúng những nguyên tắc đúng đắn
về bảo tồn.
c) Tăng cường các khả năng tham gia vào các hoạt động này,
đặc biệt là phù hợp với Điều 144 và Điều 148;
d) Bảo đảm cho Cơ quan quyền lực được dự phần vào các thu
nhập và việc chuyển giao kỹ thuật cho Xí nghiệp và cho các quốc gia đang phát
triển theo đúng Công ước;
e) Tùy theo nhu cầu, tăng thêm số lượng khoáng sản khai thác
từ Vùng để cùng với các khoáng sản khai thác từ nguồn khác, bảo đảm cung cấp
cho người tiêu thụ các khoáng sản này;
f) Tạo điều kiện thuận lợi để hình thành giá cả đúng và ổn
định đối với các khoáng sản được khai thác từ Vùng, cũng như các khoáng sản từ
các nguồn khác, có lợi cho người sản xuất và đúng mức cho người tiêu thụ, bảo
đảm sự cân bằng lâu dài giữa cung và cầu;
g) Tạo cho tất cả các quốc gia thành viên, bất kể chế độ xã
hội và kinh tế hay địa lý của họ như thế nào, có những khả năng to lớn hơn trong
việc tham gia khai thác các tài nguyên của Vùng, và ngăn cản việc độc quyền hóa
các hoạt động tiến hành trong Vùng;
h) Bảo vệ các quốc gia đang phát triển, theo đúng Điều 151,
khỏi những ảnh hưởng bất lợi đối với nền kinh tế hay thu nhập về xuất khẩu của
họ do việc hạ giá của một khoáng sản trong số các khoáng sản được khai thác
trong Vùng hay do sự giảm bớt khối lượng xuất khẩu loại khoáng sản này, trong chừng
mực mà việc hạ giá hay giảm bớt đó do các hoạt động tiến hành trong Vùng gây
ra;
i) Khai thác di sản chung vì lợi ích của toàn thể loài
người;
j) Làm sao cho những điều kiện tiếp xúc với các thị trường để
nhập khẩu các khoáng sản khai thác từ Vùng và nhập khẩu những sản phẩm đầu tiên
được rút ra từ những khoáng sản này, không thuận lợi hơn những điều kiện thuận
lợi nhất áp dụng cho việc nhập khẩu các khoáng sản và các sản phẩm đầu tiên
khai thác được từ các nguồn khác.
1. a) Không phương hại đến những mục tiêu đã được nêu ở Điều
150 và nhằm áp dụng điểm h) của điều đó, qua trung gian của các cấp thẩm quyền
hiện có, hay nếu cần thì, trong khuôn khổ của những dàn xếp hay hiệp định mới
với sự tham gia của tất cả các bên hữu quan, kể cả người sản xuất và người tiêu
thụ, Cơ quan quyền lực thi hành các biện pháp cần thiết để tạo thuận lợi cho sự
gia tăng, sự hoạt động có hiệu quả và sự ổn định của các thị trường đối với
những sản phẩm đầu tiên rút ra từ các khoáng sản khai thác trong Vùng, với giá
cả có lợi cho người sản xuất và đúng mức đối với người tiêu thụ. Tất cả các
quốc gia thành viên hợp tác vì mục đích này.
b) Cơ quan quyền lực có quyền tham gia vào bất kỳ hội nghị
sản phẩm nào bàn về những sản phẩm đầu tiên này, và ở đó, tất cả các bên hữu
quan, kể cả người sản xuất và người tiêu thụ, đều tham dự. Cơ quan quyền lực có
quyền trở thành thành viên của bất kỳ sự dàn xếp hay hiệp định nào đạt được khi
kết thúc những hội nghị như vậy. Đối với những vấn đề có liên quan đến việc sản
xuất trong Vùng, Cơ quan quyền lực tham gia vào bất kỳ cơ quan nào được lập ra
theo dàn xếp hay hiệp định đã nêu trên theo đúng các quy tắc có liên quan đến
cơ quan đó.
c) Cơ quan quyền lực làm tròn các nghĩa vụ được giao phó
theo các dàn xếp hay hiệp định nói ở khoản này, bảo đảm cho các dàn xếp hay
hiệp định đó được áp dụng thống nhất và không phân biệt đối xử đối với toàn bộ
việc sản xuất các khoáng sản có liên quan trong vùng. Làm như thế, Cơ quan quyền
lực hành động một cách phù hợp với các điều khoản của các hợp đồng hiện hành và
các quy định của những kế hoạch làm việc của Xí nghiệp đã được chuẩn y.
2. a) Trong giai đoạn quá độ được định rõ ở khoản 3, việc
sản xuất hàng hóa chỉ có thể bắt đầu dưới danh nghĩa một kế hoạch làm việc đã được
chuẩn y, nếu người khai thác đã xin phép Cơ quan quyền lực và đã được Cơ quan
quyền lực cho phép sản xuất; Việc cho phép này không thể xin hay cấp trước thời
hạn dự kiến bắt đầu sản xuất hàng hóa theo kế oạch làm việc quá 5 năm, trừ khi
Cơ quan quyền lực quy định một thời hạn khác trong các quy tắc, quy định và thủ
tục của mình, căn cứ vào tính chất và tiến trình thực hiện các dự án;
b) Trong đơn xin phép của mình, người khai thác ghi rõ số
lượng kền hàng năm dự kiến khai thác theo kế hoạch làm việc đã được chuẩn y.
Đơn này gồm có 1 bảng chi phí mà, sau khi nhận được giấy phép, sẽ được người
khai thác thực hiện và đã được tính toán một cách hợp lý để cho phép người khai
thác bắt đầu việc sản xuất hàng hóa vào thời điểm đã được dự định.
c) Để áp dụng các điểm a và b, Cơ quan quyền lực định ra các
quy phạm về hiệu quả, theo đúng Điều 17 của Phụ lục III.
d) Cơ quan quyền lực cấp một giấy phép sản xuất theo số
lượng được ghi rõ trong đơn yêu cầu, trừ khi tổng số lượng này và những số
lượng được phép trước đây vượt quá, đối với bất cứ một năm sản xuất nào trong
giai đoạn quá độ, mức cao nhất về sản lượng kền được tính toán theo đúng khoản
4 cho năm mà giấy phép được cấp;
e) Đơn xin và cấp giấy phép sản xuất trở thành bộ phận hữu
cơ của kế hoạch làm việc được chuẩn y;
f) Nếu đơn xin phép của người khai thác bị từ chối theo điểm
d, người này bất cứ lúc nào cũng có thể nộp đơn mới cho Cơ quan quyền lực.
3. Giai đoạn quá độ bắt đầu 5 năm trước ngày mùng 1 tháng
Giêng của năm dự tính bắt đầu việc sản xuất hàng hóa đầu tiên với danh nghĩa
của một kế hoạch làm việc đã được chuẩn y. Trong trường hợp việc bắt đầu sản
xuất hàng hóa bị hoãn đến một năm nào đó sau năm đã dự kiến thì thời điểm bắt
đầu của giai đoạn quá độ và mức tối đa của sản lượng tính toán ban đầu được
điều chỉnh lại cho phù hợp. Giai đoạn quá độ kết thúc sau 25 năm, hoặc cho đến
khi kết thúc Hội nghị xét duyệt lại được nêu ở Điều 155, hay cho đến ngày mà
các thỏa thuận hay hiệp định mới đề cập ở khoản 1 có hiệu lực, thời hạn nào gần
nhất thì được sử dụng, nếu các thỏa thuận hay hiệp định đó đã trở nên hết hiệu
lực hay không còn tác dụng vì một lý do nào đó, thì những quyền được trù định
trong điều này đối với phần còn lại của giai đoạn quá độ được trao lại cho Cơ
quan quyền lực.
4. a) Mức sản xuất tối đa có hiệu lực cho bất cứ một năm nào
của giai đoạn quá độ có được do tổng của:
i. Số chênh lệch giữa giá trị của đường biểu diễn xu hướng
tiêu thụ kền cho năm trước năm bắt đầu sản xuất hàng hóa đầu tiên và giá trị
của đường biểu diễn đó cho năm ngay trước khi bắt đầu giai đoạn quá độ, các giá
trị đó được tính theo đúng điểm b; và
ii. 60% số chênh lệch giữa giá trị của đường biểu diễn xu
hướng tiêu thụ kền cho năm xin cấp giấy phép sản xuất và giá trị của đường biểu
diễn này cho năm trước năm bắt đầu sản xuất hàng hóa đầu tiên; những giá trị
này được tính toán theo đúng điểm h.
b) Trong điểm a này:
i. Những giá trị của đường biểu diễn xu hướng được sử dụng
để tính toán mức sản lượng kền tối đa là những giá trị tiêu thụ kền hàng năm
thể hiện trên một đường biểu diễn xu hướng độc lập nên trong năm cấp giấy phép
sản xuất. Đường biểu diễn đó được lập ra theo phép hồi quy tuyến tính lô-ga-rít
các số liệu vầ mức tiêu thụ kền thực sự hàng năm tương ứng với giai đoạn 15 năm
gần nhất mà người ta có các số liệu, thời gian được coi là biến số thiên độc
lập. Đường biểu diễn xu hướng này được gọi là đường biểu diễn xu hướng ban đầu;
ii. Nếu tỷ suất tăng hàng năm được thể hiện trên đường biểu
diễn xu hướng dưới 30% để xác định các số lượng đã nói ở điểm a, người ta thay
đường biểu diễn này bằng một đường biểu diễn xu hướng lập ra sao cho nó cắt
đường biểu diễn xu hướng ban đầu ở điểm biểu thị giá trị tiêu thụ cho năm đầu
của thời kỳ 15 năm được xem xét, và để cho độ dốc của nó phù hợp với một sự gia
tăng hàng năm là 3%. Tuy nhiên, sản lượng tối đa được quy định cho một năm nào
đó của giai đoạn quá độ trong bất kỳ trường hợp nào cũng không thể vượt quá số
chênh lệch giữa giá trị của đường biểu diễn xu hướng ban đầu cho năm xem xét đó
và giá trị của đường biểu diễn này cho năm ngay trước khi bắt đầu giai đoạn quá
độ.
5. Đối với mức sản xuất ban đầu của Xí nghiệp, Cơ quan quyền
lực dành cho Xí nghiệp một số lượng 38.000 tấn kền trên số lượng được ấn định
là sản lượng tối đa theo đúng khoản 4;
6. a) Trong một năm nào đó, một người khai thác có thể sản
xuất dưới mức sản xuất hàng năm các khoáng sản lấy từ các khối đa kim đã ghi
trong giấy phép sản xuất của mình hoặc vượt qua mức đó, tối đa là 8%, miễn là
tổng sản lượng không vượt quá sản lượng ghi trong giấy phép. Bất kỳ sự vượt quá
nào trong khoảng từ 8% đến 20% đối với một năm nào đó hay bất kỳ sự vượt quá
nào đối với một năm tiếp theo 2 năm liên tiếp trong đó mức sản xuất ấn định bị
vượt, đều phải thương lượng với Cơ quan quyền lực; Cơ quan quyền lực có thể
đòi người khai thác phải xin một giấy phép sản xuất bổ sung.
b) Cơ quan quyền lực chỉ xét các đơn yêu cầu sản lượng bổ
sung, khi mà cơ quan đó đã xét xong tất cả các đơn xin sản xuất đang chờ giải
quyết và đã xem xét đúng mức đến các khả năng còn có những đơn vị khác nữa.
Về vấn đề này nguyên tắc chỉ đạo của Cơ quan quyền lực là
trong bất cứ một năm nào của giai đoạn quá độ không được vượt quá tổng sản
lượng được phép sản xuất theo công thức hạn chế sản lượng. Cơ quan quyền lực
không cho phép bất cứ một kế hoạch làm việc nào sản xuất một khối lượng vượt
quá 46.500 tấn kền trong một năm.
7. Sản lượng các kim loại khác như đồng, cô-ban và măng-gan
rút ra từ các khối đa kim được khai thác theo một giấy phép sản xuất, không
được vượt quá mức có thể đạt được, nếu như những người khai thác đã lấy ra từ
các khối đa kim này số lượng kền tối đa tính đúng theo điều này. Cơ quan quyền
lực định ra các quy tắc, quy định và thủ tục theo đúng Điều 17 của Phụ lục III,
trong đó có trù định các thể thức thi hành những khoản này.
8. Các quyền và nghĩa vụ liên quan đến các tập quán kinh tế không
chính đáng được trù định trong khuôn khổ và các hiệp định thương mại nhiều bên tương
ứng, được áp dụng vào công việc thăm dò và khai thác khoáng sản trong Vùng. Để
giải quyết các tranh chấp thuộc phạm vi điều quy định này, các quốc gia thành
viên tham gia vào các hiệp định thương mại nhiều bên nói trên dựa vào các thủ
tục giải quyết các tranh chấp được trù định trong các hiệp định đó.
9. Cơ quan có quyền hạn chế mức sản xuất các khoáng sản
trong Vùng, ngoài các khoáng sản rút ra từ các khối đa kim, theo các điều kiện và
phương pháp mà Cơ quan quyền lực cho là thích hợp, bằng cách thông qua các quy
tắc theo đúng Điều 161, khoản 8.
10. Theo kiến nghị của Hội đồng, dựa trên ý kiến của Ủy ban
kế hoạch hóa kinh tế, Đại hội đồng định ra một chế độ bù trừ hoặc thi hành các
biện pháp trợ giúp khác, có tác dụng tạo điều kiện dễ dàng cho việc điều chỉnh
kinh tế, kể cả việc hợp tác với các cơ quan chuyên trách hay các tổ chức quốc
tế khác, đề giúp đỡ các nước đang phát triển mà nền kinh tế và thu nhập xuất
khẩu bị ảnh hưởng nghiêm trọng trước những tác động bất lợi do một khoáng sản
trong số các khoáng sản được khai thác từ Vùng bị hạ giá hay do khối lượng xuất
khẩu loại khoáng sản đuộc khai thác từ Vùng bị hạ giá hay do khối lượng xuất
khẩu loại khoáng sản này của họ giảm sút, trong chừng mực mà việc hạ giá hay
giảm sút khối lượng này do các hoạt động trong Vùng gây nên. Cơ quan quyền lực
tiến hành nghiên cứu về những vấn đề của các quốc gia có nguy cơ bị ảnh hưởng
nặng nề nhất, nhằm giảm đến mức tối thiểu những khó khăn của họ, và để giúp đỡ họ
tiến hành điều chỉnh kinh tế theo yêu cầu của họ.
1. Cơ quan quyền lực tránh mọi sự phân biệt đối xử trong khi
thi hành quyền hạn và chức năng của mình, nhất là khi Cơ quan quyền lực cho
phép tiến hành các hoạt động trong Vùng.
2. Tuy nhiên, theo các điều được quy định rõ ràng của phần
này, Cơ quan quyền lực có thể dành sự qua tâm đặc biệt đối với các quốc gia
đang phát triển, và đặc biệt là những quốc gia không có biển hay bất lợi về địa
lý trong số các quốc gia phát triển này.
1. Các hợp đồng tiến hành trong Vùng được Cơ quan quyền lực
thay mặt cho toàn thể loài người tổ chức, thực hiện và kiểm soát theo đúng điều
này, và theo đúng các quy định tương ứng khác của phần này và phụ lục liên quan
đến các hoạt động đó, cũng như, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan
quyền lực.
2. Các hoạt động tiến hành trong Vùng theo đúng khoản 3 do các
thành phần sau đây tiến hành:
a) Xí nghiệp và,
b) Kết hợp với Cơ quan quyền lực, các quốc gia thành viên
hay các xí nghiệp Nhà nước, hoặc các tự nhiên nhân hay pháp nhân có quốc tịch
của các quốc gia thành viên hay do quốc gia đó hoặc các công dân của các quốc
gia đó kiểm soát thực sự, khi họ được sự bảo trợ của các quốc gia này hoặc của
bất kỳ một nhóm nào thuộc những loại kể trên đáp ứng các điều kiện được quy
định trong phần này và ở Phụ lục III;
3. Các hoạt động tiến hành trong Vùng phải theo một kế hoạch
làm việc chính thức và bằng văn bản, được lập ra theo đúng phụ lục III và được
Hội đồng chuẩn y, sau khi được Ủy ban pháp lý và kỹ thuật xem xét. Trong trường
hợp các hoạt động tiến hành trong vùng theo giấy phép của Cơ quan quyền lực do
các thể hay cá nhân nói ở khoản 2, điểm b thực hiện, kế hoạch làm việc mang
hình thức của một hợp đồng, theo đúng Điều 3 của Phụ lục III. Hợp đồng có thể
trù định các thỏa thuận về liên doanh theo đúng Điều 11 của Phụ lục III.
4. Cơ quan quyền lực thực hiện kiểm soát cần thiết đối với
các hoạt động tiến hành trong Vùng, để bảo đảm tôn trọng các quy định tương ứng
của phần này và của các phụ lục có liên quan, các quy tắc, quy định và thủ tục
của Cơ quan quyền lực, cũng như, các kế hoạch làm việc được chuẩn y theo đúng
khoản 3. Các quốc gia thành viên giúp đỡ Cơ quan quyền lực bằng cách thi hành
tất cả các biện pháp cần thiết để bảo đảm tôn trọng các văn bản này theo đúng
Điều 139.
5. Bất kỳ lúc nào, Cơ quan quyền lực cũng có quyền thi hành
mọi biện pháp được trù định trong phần này để bảo đảm tôn trọng phần này và để
có thể thi hành các chức năng kiểm soát và ra quy định của mình theo phần này
hay theo một hợp đồng. Cơ quan quyền lực có quyền kiểm tra tất cả các thiết bị
được sử dụng để tiến hành các hoạt động trong Vùng và được đặt ở trong Vùng.
6. Mọi hợp đồng được ký kết theo đúng khoản 3 đều trù định
việc bảo đảm danh nghĩa.
Do vậy, chỉ có thể xét lại, tạm hoãn hay hủy bỏ hợp đồng
theo các điều 18 và 19 của Phụ lục III.
Cứ 5 năm một lần kể từ khi Công ước có hiệu lực, Đại hội
đồng lại tiến hành một cuộc xem xét chung và có hệ thống xem chế độ quốc tế của
Vùng do Công ước lập ra đã hoạt động trong thực tiễn như thế nào. Dựa vào kết
quả của cuộc xem xét này, Đại hội đồng có thể thi hành hay khuyến nghị cho các
cơ quan khác thi hành các biện pháp phù hợp với các quy định, thủ tục được trù
định trong phần này và các phụ lục có liên quan và cho phép cải tiến sự hoạt
động của chế độ.
1. 15 năm sau ngày mùng 1 tháng Giêng của năm bắt đầu sản
xuất hàng hóa đầu tiên theo một kế hoạch làm việc đã được chuẩn y, Đại hội đồng
sẽ triệu tập một hội nghị để xét duyệt lại các quy định của phần này và các phụ
lục có liên quan, điều chỉnh hệ thống thăm dò và khai thác tài nguyên của Vùng.
Dưới ánh sáng của kinh nghiệm thu được trong giai đoạn qua, hội nghị sẽ xem xét
cụ thể:
a) Các quy định trong phần này điều chỉnh hệ thống thăm dò
và khai thác tài nguyên của Vùng có đạt được những mục tiêu của chúng về mọi
mặt không, và nhất là xem toàn thể loài người có được hưởng lợi do các quy định
đó đem lại không;
b) Xem trong thời hạn 15 năm này, các khu vực dành riêng có được
khai thác một cách có hiệu quả và cân đối so với các khu vực không được dành
riêng không;
c) Xem việc khai thác và sử dụng Vùng và các tài nguyên của
Vùng có được tiến hành theo cách tạo thuận lợi cho việc phát triển hài hòa của
nền kinh tế thế giới và việc mở rộng cân đối nền thương mại quốc tế không;
d) Xem sự độc quyền hóa các hoạt động tiến hành trong Vùng
được ngăn ngừa hay không;
e) Xem xét các chính sách đã nêu ở các Điều 150 và 151 có
được tuân thủ không; và
f) Hệ thống có cho phép phân chia một cách công bằng những
mối lợi thu được từ các hoạt động tiến hành trong Vùng, với sự quan tâm đặc
biệt đến lợi ích và nhu cầu của các quốc gia đang phát triển không.
2. Hội nghị xét duyệt quan tâm đến việc giữ vững nguyên tắc
di sản chung của loài người, chế độ quốc tế nhằm khai thác công bằng di sản đó
vì lợi ích của tất cả các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển,
và sự tồn tại của một Cơ quan quyền lực có trách nhiệm tổ chức tiến hành và
kiểm soát các hoạt động trong vùng. Hội nghị cũng quan tâm đến việc duy trì các
nguyên tắc đã được nêu trong phần này có liên quan đến việc loại trừ mọi yêu sách
và mọi sự thực hiện chủ quyền ở một khu vực nào đó của Vùng, đến các quyền của
các quốc gia và thái độ chung của họ có quan hệ đến Vùng, cũng như việc tham
gia của họ vào các hoạt động được tiến hành trong Vùng theo đúng Công ước, đến việc
độc quyền hóa các hoạt động tiến hành trong Vùng, việc chỉ sử dụng Vùng vào
những mục đích hòa bình, những phương diện kinh tế của các hoạt động tiến hành
trong Vùng, việc nghiên cứu khoa học biển, việc chuyển giao kỹ thuật, việc bảo vệ
môi trường biển, và bảo vệ sự sống của con người, các quyền của các quốc gia
ven biển, chế độ pháp lý của vùng nước và vùng trời phía trên Vùng và sự phù
hợp giữa các hoạt động tiến hành trong Vùng và các hoạt động khác trong môi
trường biển.
3. Thủ tục ra quyết định áp dụng trong Hội nghị cũng là thủ
tục đã áp dụng ở Hội nghị về luật biển lần thứ ba của Liên hợp quốc. Hội nghị
sẽ cố gắng hết sức để đi đến thỏa thuận về tất cả các điểm sửa đổi nếu có, bằng
consensus (thỏa thuận), và chỉ biểu quyết các vấn đề đó, sau khi đã cố gắng hết
sức mà không đi đến consensus (thỏa thuận).
4. Năm năm sau khi bắt đầu hội nghị xét duyệt lại, nếu không
đi đến được thỏa thuận về hệ thống thăm dò và khai thác tài nguyên của Vùng thì
trong vòng 12 tháng sau đó, Hội nghị có thể quyết định theo đa số ba phần tư
các quốc gia thành viên thông qua và đưa ra cho các quốc gia thành viên phê
chuẩn hay tham gia đối với những điều sửa đổi dẫn đến sự thay đổi hay sửa đổi
hệ thống, mà Hội nghị xét thấy cần thiết và thích hợp. Những điều sửa đổi này
sẽ có hiệu lực đối với tất cả các quốc gia thành viên 12 tháng sau ngày gửi lưu
chiểu những văn kiện phê chuẩn hay tham gia ba phần tư quốc gia thành viên.
5. Những điểm sửa đổi được hội nghị xét duyệt lại thông qua
điều này, sẽ không đụng chạm đến các quyền đã có được theo các hợp đồng hiện
hành.
1. Một Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy biển được lập ra,
hoạt động theo sự điều chỉnh của phần này.
2. Tất cả các quốc gia thành viên là những thành viên ipso
facto (tất nhiên) của Cơ quan quyền lực.
3. Các quan sát viên ở Hội nghị lần thứ 3 của Liên hợp quốc
về luật biển đã ký vào Định ước cuối cùng và không nằm trong phạm vi Điều 305,
khoản 1, điểm c, d, e hay f có quyền tham dự vào các công việc của Cơ quan
quyền lực với tư cách quan sát viên theo đúng các quy tắc, quy định và thủ tục
của Cơ quan quyền lực.
4. Cơ quan quyền lực đặt trụ sở ở Gia-mai-ca.
5. Cơ quan quyền lực có thể lập ra các trung tâm hay các cơ
quan chỉ đạo khu vực xét thấy cần thiết để thi hành chức năng của mình.
1. Cơ quan quyền lực là tổ chức mà qua đó, các quốc gia
thành viên tổ chức và kiểm soát các hoạt động tiến hành trong Vùng, đặc biệt là
nhằm mục đích quản lý các tài nguyên của Vùng theo đúng phần này.
2. Cơ quan quyền lực nắm các quyền hạn và chức năng Công ước
giao phó một cách rõ ràng. Cơ quan quyền lực có những quyền hạn và chức năng
nói trên đối với những hoạt động tiến hành trong Vùng.
3. Cơ quan quyền lực được thành lập trên nguyên tắc bình đẳng
về chủ quyền của tất cả các thành viên.
4. Để bảo đảm cho mỗi thành viên các quyền và lợi ích do tư
cách thành viên mà có, tất cả các thành viên của Cơ quan quyền lực phải làm
tròn một cách trung thực những nghĩa vụ của họ theo phần này.
1. Một đại hội đồng, một Hội đồng và một Ban thư ký được lập
ra là những cơ quan chính của Cơ quan quyền lực.
2. Một Xí nghiệp được lập ra là cơ quan mà thông qua đó, cơ
quan quyền lực thi hành các chức năng được nêu ở Điều 170, khoản 1.
3. Các cơ quan phụ trợ được coi là cần thiết có thể được thành
lập theo đúng phần này.
4. Mỗi cơ quan chính của Cơ quan quyền lực và Xí nghiệp có
nhiệm vụ thi hành những quyền hạn và chức năng đã được giao phó. Trong khi thi
hành các quyền hạn và chức năng này, mỗi cơ quan tránh những hành động có thể
đụng cham hoặc làm hại cho việc thi hành các quyền hạn và chức năng riêng đã
được giao phó cho một cơ quan khác.
1. Đại hội đồng bao gồm tất cả các thành viên của Cơ quan
quyền lực. Mỗi thành viên có một đại diện ở Đại hội đồng, người này có thể có những
người thay thế và cố vấn đi theo.
2. Đại hội đồng họp thường kỳ hàng năm, và họp bất thường theo
quyết định của Đại hội đồng hay do Tổng thư ký triệu tập theo yêu cầu của Hội đồng
hay của đa số các thành viên của Cơ quan quyền lực.
3. Các khóa họp của Đại hội đồng được tiến hành tại trụ sở
của Cơ quan quyền lực, trừ khi Đại hội đồng có quyết định khác.
4. Đại hội đồng thông qua quy chế nội bộ của mình. Mỗi khi
khai mạc khóa họp thường kỳ, Đại hội đồng bầu ra chủ tịch và số ủy viên cần
thiết khác của cơ quan chỉ đạo. Những người này lãnh trách nhiệm cho đến khi
bầu cử một cơ quan chỉ đạo mối ở khóa họp thường kỳ tiếp theo.
5. Số đại biểu cần thiết (quorum) là đa số thành viên của Đại
hội đồng.
6. Mỗi thành viên của Đại hội đồng có một phiếu.
7. Các quyết định về những vấn đề thủ tục kể cả việc triệu
tập một khóa họp bất thường của Đại hội đồng được thông qua theo đa số thành
viên có mặt và bỏ phiếu.
8. Các quyết định về các vấn đề nội dung phải được hai phần
ba thành viên có mặt và bỏ phiếu thông qua, với điều kiện là đa số này phải gồm
đa số các thành viên tham dự khóa họp. Trong trường hợp còn nghi ngờ không rõ có
phải là một vấn đề nội dung hay không, thì vấn đề bàn cãi đó được coi như là
một vấn đề nội dung, trừ trường hợp Cơ quan quyền lực có quyết định khác theo
đa số cần thiết đối với những quyết định về các vấn đề nội dung.
9. Khi một vấn đề nội dung sắp được đem ra biểu quyết lần
đầu thì Chủ tịch có thể hoãn và nếu có ít nhất một phần năm số thành viên của
Đại hội đồng yêu cầu, thì cần phải hoãn việc biểu quyết về điểm này trong một
thời hạn không được quá 5 ngày. Quy tắc này chỉ có thể được áp dụng một lần đối
với cùng một vấn đề, và việc áp dụng quy tắc này không được làm cho vấn đề bị
hoãn đến quá ngày kết thúc khóa họp.
10. Khi có ít nhất một phần tư số thành viên của Đại hội
đồng thỉnh cầu bằng một văn bản gửi lên Chủ tịch Đại hội đồng, yêu cầu các Đại
hội đồng lấy ý kiến tư vấn xem một đề nghị đưa ra Đại hội đồng yêu cầu Viện
giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển của Tòa án quốc tế về luật
biển có ý kiến tư vấn. Cuộc biểu quyết được hoãn đến khi Viện phát biểu ý kiến.
Nếu trước khi khóa họp kết thúc một tuần mà chưa nhận được ý kiến tư vấn thì
Đại hội đồng quyết định thời gian sẽ họp lại để biểu quyết về đề nghị đã bị
hoãn lại đó.
1. Đại hội đồng, cơ quan duy nhất bao gồm tất cả các thành
viên của Cơ quan quyền lực, được coi là cơ quan tối cao của Cơ quan quyền lực;
Các cơ quan chính khác chịu trách nhiệm trước nó, như đã được quy định rõ ràng
trong Công ước; Đại hội đồng có quyền, căn cứ vào các quy định tương ứng của
Công ước quyết định chính sách chung của Cơ quan quyền lực về bất kỳ vấn đề gì
hay về bất kỳ việc gì thuộc thẩm quyền của Cơ quan quyền lực.
2. Ngoài ra, Đại hội đồng còn có các quyền hạn và chức năng
sau đây:
a) Bầu ra các ủy viên của Hội đồng theo đúng Điều 161;
b) Bầu ra Tổng thư ký trong số các ứng cử viên do Hội đồng
đề nghị;
c) Dựa vào giới thiệu của Hội đồng, bầu ra các ủy viên của
Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc Xí nghiệp;
d) Nếu cần, thì thành lập các cơ quan phụ trợ để có thể làm
tròn các chức năng của mình theo đúng phần này. Về cơ cấu của các cơ quan phụ
trợ này cần phải chú ý thích đáng đến nguyên tắc phân bổ công bằng theo địa lý
về các thành viên, đến các lợi ích riêng biệt và đến sự cần thiết bảo đảm cho
các cơ quan này tuyển chọn được các thành viên có trình độ và thông thạo trong
những lĩnh vực mà họ đảm nhiệm;
e) Quy định phần đóng góp của các thành viên vào ngân sách hành
chính của Cơ quan quyền lực theo một ba-rem đã được sử dụng cho ngân sách thông
thường của Liên hợp quốc, cho đến khi Cơ quan quyền lực có được các khoản thu
nhập lấy từ các nguồn khác đủ để trang trải các chi phí hành chính của mình;
f) i. Dựa vào kiến nghị của Hội đồng, xem xét và phê chuẩn
các quy tắc, quy định và thủ tục liên quan đến việc phân chia công bằng từ các
mối lợi về tài chính và các mối lợi về kinh tế khác thu được từ những hoạt động
tiến hành trong Vùng cũng như những đóng góp được trù định ở Điều 82, có quan
tâm đặc biệt đến các quyền lợi và nhu cầu của các nước đang phát triển và các dân
tộc chưa giành được độc lập hoàn toàn hay chưa được hưởng một chế độ tự trị
khác. Nếu đại hội đồng không tán thành các kiến nghị của Hội đồng, thì gửi trả
lại các kiến nghị đó cho Hội đồng đề Hội đồng xem xét lại dưới ánh sáng các
quan điểm mà Đại hội đồng đã nêu ra;
ii. Xem xét và phê chuẩn các quy tắc, qui định và thủ tục
của Cơ quan quyền lực, cũng như tất cả những điều sửa đổi đối với văn bản này,
mà Hội đồng đã tạm thời chấp nhận theo Điều 162, khoản 2, điểm c, ii. Các quy
tắc, quy định và thủ tục này nhằm vào việc thăm dò, khảo sát và khai thác trong
Vùng, vào vấn đề quản lý tài chính và vấn đề hành chính nội bộ của Cơ quan quyền
lực và, trên cơ sở kiến nghị của Hội đồng quản trị của Xí nghiệp, vào vấn đề
chuyển khoản của Xí nghiệp sang cho Cơ quan quyền lực;
g) Quyết định việc phân chia công bằng các mối lợi về tài
chính và các mối lợi về kinh tế khác có được từ các hoạt động tiến hành trong
Vùng, một cách phù hợp với Công ước và các quy định và thủ tục của Cơ quan
quyền lực;
h) Xem xét và phê chuẩn dự trù ngân sách hàng năm của Cơ quan
quyền lực mà Hội đồng đã đệ trình lên;
i) Xem xét và báo cáo định kỳ của Hội đồng và của Xí nghiệp,
cũng như các báo cáo đặc biệt mà Đại hội đồng yêu cầu Hội đồng và bất kỳ cơ
quan nào của Cơ quan quyền lực trình lên;
j) Cho tiến hành các cuộc nghiên cứu và soạn thảo các kiến
nghị nhằm đẩy mạnh hợp tác quốc tế liên quan đến các hoạt động tiến hành trong
vùng, và khuyến khích sự phát triển pháp luật quốc tế theo hướng tiến bọ và
pháp điển hóa bước phát triển đó;
k) Xem xét những vấn đề có tính chất chung có liên quan đến
các hoạt động tiến hành trong Vùng, đặc biệt là những vấn đề nảy sinh đối với
các quốc gia đang phát triển, cũng như đối với những vấn đề mà các hoạt động
này đặt ra đối với một số quốc gia, do vị trí địa lý của họ, nhất là các quốc
gia không có biển và các quốc gia có hoàn cảnh địa lý bất lợi;
l) Theo kiến nghị của Hội đồng, dựa vào ý kiến của Ủy ban kế
hoạch hóa kinh tế, lập ra một chế độ bù trừ hay thi hành các biện pháp giúp đỡ
khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh kinh tế như đã trù định
trong Điều 151, khoản 10;
m) Tuyên bố đình chỉ các quyền và các đặc quyền gắn liền với
tư cách thành viên theo Điều 185;
n) Thảo luận bất kỳ vấn đề gì hay việc gì thuộc thẩm quyền của
Cơ quan quyền lực và quyết định một cách phù hợp với việc phân chia các quyền
và chức năng giữa các cơ quan quyền lực xem cơ quan nào sẽ giải quyết một vấn
đề gì hay một việc gì chưa được giao dứt khoát cho các cơ quan đó.
1. Hội đồng gồm 36 ủy viên của Cơ quan quyền lực do Đại hội
đồng bầu ra theo thứ tự như sau:
a) Bốn ủy viên được lựa chọn trong số các quốc gia thành
viên mà việc tiêu thụ hay nhập khẩu thuần túy các sản phẩm cơ bản thuộc các loại
khoáng sản được khai thác trong vùng vượt quá 2% mức tiêu thụ hay mức nhập khẩu
của thế giới về các sản phẩm đó trong khoảng thời gian 5 năm lại đây có số liệu
thống kê; trong số 4 ủy viên này, ít nhất phải có một quốc gia thuộc khu vực
Đông Âu (xã hội chủ nghĩa) cũng như quốc gia tiêu thụ lớn nhất;
b) Bốn ủy viên được lựa chọn trong số tám quốc gia thành
viên; những quốc gia này, trực tiếp hoặc qua trung gian của các công dân nước
mình, đã được thực hiện những khoản đầu tư quan trọng nhất cho việc chuẩn bị và
thực hiện những khoản đầu tư quan trọng nhất cho việc chuẩn bị và thực hiện các
hoạt động tiến hành trong Vùng; trong số bốn ủy viên này, ít nhất phải có một
số quốc gia thuộc khu vực Đông Âu (xã hội chủ nghĩa);
c) Bốn ủy viên được lựa chọn trong số tám quốc gia thành
viên; những quốc gia này, trực tiếp hoặc qua trung gian của các công dân nước
mình, đã thực hiện những khoản đầu tư quan trọng nhất cho việc chuẩn bị và thực
hiện các hoạt động tiến hành trong Vùng; trong số bốn ủy viên này, ít nhất phải
có hai quốc gia đang phát triển mà nền kinh tế bị lệ thuộc nặng nề vào việc
xuất khẩu các khoáng sản này;
d) Sáu ủy viên được lựa chọn trong số các quốc gia thành viên
đang phát triển và đại diện cho những lợi ích đặc biệt. Những lợi ích đặc biệt
phải được đại diện bao gồm những lợi ích của các quốc gia có dân số đông, của
các quốc gia không có viển hay ở vào hoàn cảnh địa lý bất lợi, của các quốc gia
trong số các quốc gia nhập khẩu chủ yếu các loại khoáng sản sẽ được khai thác trong
Vùng, của các quốc gia có tiềm năng sản xuất các khoáng sản đó và của các quốc
gia kém phát triển nhất;
e) Mười tám ủy viên được bầu theo nguyên tắc phân bổ công
bằng theo địa lý đối với toàn bộ số thành viên của Hội đồng; tất nhiên là theo quy
định này, cứ mỗi vùng địa lý có ít nhất là một quốc gia được bầu làm ủy viên.
Các khu vực địa lý nói ở đây là Châu Phi, châu Mỹ la – tinh, châu Á, Đông Âu
(xã hội chủ nghĩa), cũng như Tây Âu và các quốc gia khác.
2. Khi bầu các ủy viên của Hội đồng theo đúng khoản 1, Đại
hội đồng phải chú ý đến:
a) Đại diện của các quốc gia không có biển và của các quốc
gia có hoàn cảnh địa lý bất lợi tương ứng một cách hợp lý với sự đại diện của họ
tại Đại hội đồng;
b) Đại diện của các quốc gia ven biển, đặc biệt là các quốc
gia đang phát triển, không có đầy đủ các điều kiện đã nêu ở khoản 1, điểm a, b,
c hay d, tương ứng một cách hợp lý với sự đại diện của họ ở Đại hội đồng;
c) Mỗi nhóm quốc gia thành viên được có đại diện ở Hội đồng
sẽ do các ủy viên được nhóm đó chỉ định, tùy theo tình hình làm đại diện.
3. Các cuộc bầu cử được tiến hành trong một khóa họp thường
lệ của Đại hội đồng. Mỗi một ủy viên của Hội đồng được bầu với nhiệm kỳ là bốn
năm. Tuy nhiên, trong cuộc bầu cử các ủy viên của Hội đồng lần đầu, một nữa số
ủy viên đại diện cho mỗi nhóm nước nói ở khoản 1 có nhiệm kỳ là 2 năm.
4. Các ủy viên của Hội đồng có thể được tái cử, nhưng cần
phải chú ý thích đang đến việc bảo đảm sự luân phiên của các ủy viên.
5. Hội đồng thi hành chức trách của mình ở trụ sở của Cơ
quan quyền lực; Hội đồng nhóm họp theo yêu cầu hoạt động của Cơ quan quyền lực và,
trong bất kỳ trường hợp nào, cũng bảo đảm mỗi năm họp ba lần.
6. Số đại biểu cần thiết (quorum) là đa số ủy viên của Hội
đồng.
7. Mỗi ủy viên của Hội đồng có một phiếu.
8. a) Các quyết định về các vấn đề thủ tục được thực hiện
theo đa số các ủy viên có mặt và bỏ phiếu.
b) Các quyết định về những vấn đề nội dung được đề ra liên
quan đến Điều 162, khoản 2, điểm f, g, h, I, n, p, v và Điều 191, được thông
qua theo đa số hai phần ba các ủy viên có mặt và bỏ phiếu, với điều kiện là đa
số này phải bao gồm đa số các ủy viên của Hội đồng;
c) Các quyết định về những vấn đề nội dung được đặt ra liên
quan đến các điều quy định liệt kê sau đây phải được đa số ba phần tư các ủy
viên có mặt và tham gia bỏ phiếu thông qua, với điều kiện là đa số này phải bao
gồm đa số các ủy viên của Hội đồng: Điều 162, khoản 1; Điều 162, khoản 2, điểm
a, b, c, d, e, l, q, r, s, t; Điều 162, khoản 2, điểm u, trong những trường hợp
một người ký hợp đồng hay quốc gia bảo trợ người đó không thực hiện hợp đồng; Điều
162, khoản 2, điểm w, với điều kiện các lệnh được đưa ra theo điểm này chỉ có
thể là bắt buộc quá 30 ngày, nếu nó được một quyết định phù hợp với điểm d, xác
nhận; Điều 162 khoản 2 điểm x, y, z; Điều 163, khoản 2; Điều 174, khoản 3; Điều
11 của phụ lục IV;
d) Các quyết định về những vấn đề nội dung được đặt ra liên
quan đến Điều 162, khoản 2, điểm m và o, cũng như về việc thông qua các điều
sửa đổi đối với phần XI phải được thông qua bằng consensus (thỏa thuận).
e) Theo điểm d, f và g, thuật ngữ “consensus” (thỏa thuận)
có nghĩa là không có bất kỳ ý kiến phản đối chính thức nào. Trong 14 ngày tiếp
sau một kiến nghị được trình lên Hội đồng, Chủ tịch phải xem xét xem có ý kiến
phản đối chính thức nào không. Nếu Chủ tịch của Hội đồng nhận thấy rằng có một
ý kiến có một ý kiến phản đối, thì trong vòng ba ngày, Chủ tịch lập và triệu
tập một ủy ban hòa giải, gồm nhiều nhất là chín ủy viên của Hội đồng, dưới sự
chủ tọa của bản thân Chủ tịch nhằm loại bỏ những ý kiến bất đồng và dự thảo một
đề nghị có thể được thông qua bằng “consensus” (thỏa thuận). Ủy ban hòa giải
nhanh chóng làm tròn nhiệm vụ của mình và báo cáo lên Hội đồng trong vòng 14
ngày sau khi thành lập. Nếu ủy ban không có khả năng đề xuất một đề nghị có thể
được thông qua bằng “consensus” (thỏa thuận) thì phải trình bày trong báo cáo
của mình những lý do của ý kiến đối lập với để nghị;
f) Các quyết định về những vấn đề không được liệt kê ở trên
mà Hội đồng có quyền hạn giải quyết theo các quy tắc, quy định và thủ tục của
đó, nếu không thì theo quy định của khoản này, được ghi trong các quy tắc, quy
định và thủ tục đó, nếu không thì theo quy định được xác định bởi một quyết
định của Hội đồng được thông qua bằng consensus (thỏa thuận).
g) Trong trường hợp còn chưa thật rõ một vấn đề có thuộc
phạm vi của các điểm a, b, c hay d không, thì vấn đề được coi như thuộc quy
định đòi hỏi, tùy trường hợp, theo quy định đòi hỏi, tùy từng trường hợp, theo
đa số cao nhất hay bằng consensus (thỏa thuận).
9. Hội đồng định ra một thử tục cho phép một thành viên của Cơ
quan quyền lực không có đại diện ở Hội đồng được tham dự vào một cuộc họp của
Hội đồng khi thành viên này có yêu cầu được tham dự, hoặc khi Hội đồng xét một
vấn đề có liên quan đặc biệt đến thành viên này. Đại diện của thành viên này có
thể tham gia vào các cuộc tranh luận nhưng không được quyền bỏ phiếu.
1. Hội đồng là cơ quan chấp hành của Cơ quan quyền lực có
quyền căn cứ vào Công ước và chính sách chung do Đại hội đồng xác định, định ra
các chính sách riêng mà Cơ quan quyền lực phải theo đối với mọi vấn đề hay mọi
việc thuộc thẩm quyền của mình.
2. Ngoài ra, Hội đồng còn:
a) Giám sát và tổ chức phối hợp việc áp dụng phần này đối
với tất cả các vấn đề và các việc thuộc thẩm quyền của Cơ quyền lực và lưu ý
Đại hội đồng về những trường hợp không tuân thủ;
b) Đề nghị lên Đại hội đồng danh sách các ứng cử viên vào
chức vụ Tổng thư ký;
c) Giới thiệu lên Đại hội đồng các ứng cử viên vào các chức
vụ ủy viên Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc xí nghiệp;
d) Tùy theo điều kiện thích hợp, và có lưu ý đúng mức đến
các đòi hỏi về tiết kiệm và kém hiệu quả, lập ra các cơ quan phụ trợ xét thấy
cần thiết để thi hành các chức năng của mình theo đúng phần này. Đối với thành
phần của các cơ quan này, cần nhấn mạnh đến sự cần thiết là các ủy viên phải có
trình độ và tinh thông trong những lĩnh cực kỹ thuật mà các cơ quan đó phụ
trách, nhưng phải tính đến các nguyên tắc phân bổ công bằng theo địa lý và đến
các lợi ích đặc biệt;
e) Thông qua quy chế nội bộ của mình, đặc biệt là xác định
cách thức chỉ định chủ tịch của Hội đồng;
f) Thay mặt Cơ quan quyền lực, ký kết các hiệp định với Liên
hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác, trong phạm vi thẩm quyền của mình và với điều
kiện được Đại hội đồng phê chuẩn.
g) Xem xét các báo cáo của xí nghiệp và chuyển các báo cáo
đó lên Đại hội đồng có kèm theo các kiến nghị của mình;
h) Trình Đại hội đồng báo cáo hàng năm cũng như các báo cáo
đặc biệt mà Đại hội đồng đòi hỏi;
i) Chỉ đạo xí nghiệp theo đúng Điều 170;
j) Chuẩn y các kế hoạch làm việc theo đúng Điều 6 của Phụ
lục III. Hội đồng quyết định về từng kế hoạch làm việc trong thời hạn 60 ngày
sau ngày kế hoạch làm việc được Ủy ban pháp lý và kỹ thuật trình lên trong một
phiên họp Hội đồng theo đúng các thủ tục sau đây:
- Khi Ủy ban đề nghị chuẩn y một kế hoạch làm việc, thì kế
hoạch này xem như được Hội đồng chấp nhận, nếu không có ủy viên nào của Hội
đồng gửi lên cho Chủ tịch, trong thời hạn 14 ngày, một kháng nghị bằng văn bản
rõ ràng viện dẫn việc không tuân thủ các điều kiện ghi ở Điều 6 của Phụ lục
III. Nếu một kháng như vậy được đưa ra, thì thủ tục hòa giải được trù định ở
Điều 161, khoản 8, điểm e, được áp dụng. Nếu vào lúc kết thúc thủ tục đó mà vẫn
còn tiếp thủ tục kháng nghị, thì kế hoạch làm việc coi như được Hội đồng chuẩn
y, trừ khi được Hội đồng bác bỏ kế hoạch này bằng consensus (thỏa thuận), không
kể quốc gia hay các quốc gia đưa ra kế làm việc hay bảo trợ người đưa ra kế hoạch
đó;
- Khi Ủy ban kiến nghị bác bỏ một kế hoạch làm việc hay
không đưa ra kiến nghị, Hội đồng có thể chuẩn y kế hoạch làm việc theo đa số ba
phần tư số ủy viên có mặt và tham gia bỏ phiếu, với điều kiện là đa số này bao
gồm đa số các ủy viên tham gia khóa họp;
- Chuẩn y các kế hoạch làm việc do Xí nghiệp đưa lên theo
đúng Điều 12 Phụ lục IV, áp dụng mutatis mutandis (với những sửa đổi cần thiết
về chi tiết) các thủ tục nói ở điểm j;
l) Thi hành việc kiểm soát đối với những hoạt động tiến hành
trong vùng theo đúng Điều 153, khoản 4 và các quy tắc, quy định và thủ tục của
Cơ quan quyền lực;
m) Dựa vào kiến nghị của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế, theo
đúng Điều 150, điểm h, định ra các biện pháp cần thiết và thích hợp để bảo vệ các
quốc gia đang phát triển khỏi bị những tác động kinh tế bất lợi nói trong quy
định đó;
n) Dựa vào ý kiến của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế, làm các
kiến nghị gửi lên Đại hội đồng về việc lập chế độ bù trừ hay định ra các biện
pháp giúp đỡ người khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh kinh tế
đã được trù định ở Điều 151, khoản 10;
o) i. Kiến nghị lên Đại hội đồng những quy tắc, quy định và
thủ tục về việc phân chia công bằng những mối lợi về tài chính và những mối lợi
kinh tế khác, thu được từ các hoạt động tiến hành trong Vùng, cũng như về các
khoản đóng góp được trù định ở Điều 82, đặc biệt lưu ý đến các lợi ích và nhu cầu
của các quốc gia đang phát triển và của các dân tộc chưa giành được độc lập
hoàn toàn hay chưa được hưởng một chế độ tự trị khác;
ii. Thông qua và áp dụng tạm thời, trong khi chờ đợi Đại hội
đồng chuẩn y, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực và mọi
điều sửa đổi đối với những văn bản này, có lưu ý đến những kiến nghị của Ủy ban
pháp lý và kỹ thuật hoặc của mọi cơ quan cấp dưới có liên quan khác. Những quy
tắc, quy định và thủ tục này đề cập việc thăm dò, khảo sát và khai thác trong
Vùng, cũng như việc quản lý tài chính và hành chính nội bộ của quy tắc, quy
định và thủ tục liên quan đến việc thăm dò và khai thác các khối đa kim. Các
quy tắc, quy định, thủ tục thăm dò và khai thác mọi tài nguyên ngoài các khối
đa kim được thông qua trong một thời hạn 3 năm kể từ ngày Cơ quan quyền lực
nhận được đơn của một trong các ủy viên của mình về vấn đề này. Các quy tắc,
quy định và thủ tục đó có hiệu lực tạm thời đến khi được Đại hội đồng chuẩn y
hoặc đến khi được Hội đồng sửa đổi dưới ánh sáng các quan điểm mà Đại hội đồng
phát biểu;
p) Quan tâm đến việc thanh toán tất cả các khoản tiền do Cơ quan
quyền lực nợ hay phải trả cho Cơ quan quyền lực, về các hoạt động được thực
hiện theo đúng phần này;
q) Tiến hành lựa chọn giữa những người yêu cầu cấp giấy phép
sản xuất theo Điều 7 của Phụ lục III, trong những trường hợp được trù định
trong điều đó;
r) Đệ trình dự án ngân sách hàng năm của Cơ quan quyền lực
lên Đại hội đồng để được phê chuẩn;
s) Gửi các kiến nghị lên Đại hội đồng về chính sách phải
theo đối với mọi vấn đề hay mọi viện thuộc thẩm quyền của Cơ quan quyền lực;
t) Gửi các kiến nghị lên Đại hội đồng về việc đình chỉ thi hành
các quyền và đặc quyền gắn liền với tư cách ủy viên theo Điều 185;
u) Nhân danh Cơ quan quyền lực giao cho Viện giải quyết các tranh
chấp liên quan đến đáy biển xét xử trong những trường hợp không tuân thủ;
v) Thông báo cho Đại hội đồng quyết định của Viện giải quyết
các tranh chấp liên quan đến đáy biển đã được giao cho xét xử theo điểm u, và có
những kiến nghị về các biện pháp mà Hội đồng thấy cần thiết phải thi hành;
w) Trong trường hợp khẩn cấp thì ra lệnh và tùy theo tình
hình, kể cả lệnh đình chỉ hay thay đổi các hoạt động, để đề phòng mọi thiệt hại
nghiêm trọng có thể gây ra cho môi trường biển vì các hoạt động tiến hành trong
Vùng;
x) Không cho các người ký kết hợp đồng hay xí nghiệp khai
thác một số khu vực khi có những lý do nghiêm túc để cho rằng điều đó sẽ dẫn
đến hậu quả gây thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường biển;
y) Thành lập một cơ quan phụ trợ chuyên trách việc dự thảo
những quy tắc, thủ tục và quy định tài chính có liên quan đến:
i. Việc quản lý tài chính theo đúng các Điều 171 đến 175; và
ii. Các thể thức tài chính được trù định trong Điều 134 và Điều
17, khoản 1, điểm c, của phụ lục III;
z) Bố trí các bộ máy thích hợp để điều khiển và giám sát một
đoàn thanh tra làm nhiệm vụ theo dõi các hoạt động tiến hành trong Vùng để xác
định xem phầm này, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực và
các điều kiện của các hợp đồng được ký kết với Cơ quan quyền lực có được tuân
thủ không.
1. Các cơ quan của Hội đồng thành lập gồm có:
a) Một Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế;
b) Một Ủy ban pháp lý và kỹ thuật.
2. Mỗi ủy ban gồm 15 ủy viên do Hội đồng bầu ra trong số các
ứng cử viên do các quốc gia thành viên giới thiệu. Tuy nhiên, nếu cần thiết,
Hội đồng có thể quyết định mở rộng các thành phần của Ủy ban này hay ủy ban kia,
nhưng phải tính đến yêu cầu về tiết kiệm và về hiệu quả.
3. Các ủy viên của mỗi ủy ban phải có trình độ chuyên môn
cần thiết trong những lĩnh vực thuộc thẩm quyền của ủy ban. Để bảo đảm cho các
ủy ban thực hiện chức năng có hiệu quả, các quốc gia thành viên cử các ứng cử
viên tinh thông nghiệp vụ nhất, có trình độ chuyên môn cần thiết trong các lĩnh
vực tương ứng.
4. Khi lựa chọn, cần phải tính đến sự cần thiết phải phân bổ
các thành viên công bằng theo địa lý và đại diện được cho các lợi ích đặc biệt.
5. Không một quốc gia thành viên nào có thể giới thiệu quá một
ứng cử viên vào cùng một ủy ban. Không ai có thể được bầu vào quá một ủy ban.
6. Các ủy viên của ủy ban được bầu với nhiệm kỳ là 5 năm. Họ
có thể được bầu lại một nhiệm kỳ mới.
7. Trong trường hợp một ủy viên của một ủy ban bị chết, bất
lực hay từ chức trước khi hết nhiệm kỳ, thì Hội đồng bầu một ủy viên của cùng
khu vực địa lý hay đại diện cho cùng loại lợi ích để tiêp tục hoàn thành nhiệm kỳ
của ủy viên trước.
8. Các ủy viên của các ủy ban không được có lợi ích tài
chính trong bất kỳ hoạt động nào liên quan đến việc thăm dò và khai thác ở
Vùng. Với các trách nhiệm của họ đối với ủy ban mà họ là ủy viên, họ không được
phép tiết lộ một bí mật công nghiệp nào hay số liệu nào thuộc sở hữu công
nghiệp đã được chuyển giao cho Cơ quan quyền lực theo Điều 14 của Phụ lục III,
cũng không được tiết lộ các tin tức bí mật mà họ biết được do chức trách của họ
ngay cả sau khi họ đã thôi việc cũng vậy.
9. Mỗi ủy ban phải làm tròn chức năng của mình theo đúng các
nguyên tắc và các chỉ thị do Hội đồng quyết định.
10. Mỗi ủy ban soạn thảo và trình lên Hội đồng thông qua các
quy tắc và quy định cần thiết để ủy ban hoạt động được tốt.
11. Các thủ tục ra quyết định của các ủy ban do các quy tắc,
quy định và các thủ tục của cơ quan quyền lực quy định. Nếu có thể được thì những
kiến nghị gửi lên Hội đồng phải kèm theo một bản trình bày tóm tắt những ý kiến
khác nhau trong ủy ban.
12. Bình thường, các ủy ban làm việc ở trụ sở của Cơ quan
quyền lực và phải nhóm họp theo sự cần thiết để hoàn thành chức năng của mình
một cách có hiệu quả.
13. Trong việc thi hành chức năng của mình, nếu có thể được
thì mỗi ủy ban tham khảo ý kiến của ủy ban khác hay mọi cơ quan có thẩm quyền
của Liên hợp quốc và của các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc hoặc mọi tổ
chức quốc tế có thẩm quyền trong lĩnh vực xem xét.
1. Các ủy viên của ủy ban kế hoạch hóa kinh tế cần có trình
độ nghiệp vụ cần thiết, nhất là về mặt khai thác mỏ, quản lý các tài nguyên
khoáng sản, thương mại quốc tế và về kinh tế quốc tế. Hội đồng cố gắng bảo đảm
cho Ủy ban, qua thành phần của mình, có trình độ nghiệp vụ cần thiết một cách
đồng bộ. Trong số ủy viên của Ủy ban phải có ít nhất hai công dân của quốc gia
đang phát triển mà nền kinh tế phụ thuộc nặng nề vào việc xuất khẩu các loại
khoáng sản trong Vùng.
2. Ủy ban có nhiệm vụ:
a) Theo yêu cầu của Hội đồng, đề xuất các biện pháp thực hiện
các quyết định được thông qua theo đúng Công ước có liên quan đến các hoạt động
tiến hành trong Vùng;
b) Nghiên cứu các xu hướng của cung, cầu và giá cả của các
khoáng sản có thể lấy từ Vùng, cũng như các nhân tố có tác động đến các dữ kiện
này, có lưu ý đến các lợi ích của các nước nhập khẩu, cũng như của các nước
xuất khẩu, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển trong số các nước đó;
c) Xem xét mọi tình huống có thể gây ra những ảnh hưởng bất
lợi đã đề cập ở Điều 150, điểm h, do quốc gia thành viên hay các quốc gia thành
viên hữu quan đã lưu ý Ủy ban và gửi các kiến nghị thích hợp lên Hội đồng;
d) Đề xuất với Hội đồng để đệ trình lên Đại hội đồng, như được
trù định trong Điều 151, khoản 10, một chế độ bù trừ có lợi cho các nước đang
phát triển mà các hoạt động tiến hành trong Vùng đã gây nên những ảnh hưởng bất
lợi hoặc là các biện pháp giúp đỡ khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc
điều chỉnh kinh tế, và gửi lên Hội đồng những kiến nghị cần thiết để thực hiện,
trong những trường hợp cụ thể, chế độ bù trừ hay các biện pháp giúp đỡ đã được
Đại hội đồng chấp nhận.
1. Các ủy viên của Ủy ban pháp lý và kỹ thuật phải có trình
độ nghiệp vụ cần thiết, nhất là về mặt thăm dò, khai thác và chế biến tài
nguyên khoáng sản, về hải dương học và về việc bảo vệ môi trường biển hoặc về
những vấn đề kinh tế hay pháp lý liên quan đến các hoạt động khai thác quặng ở
biển hay trong những lĩnh vực có liên quan khác. Hội đồng cố gắng bảo đảm cho
Ủy ban qua thành phần của mình có trình độ nghiệp vụ cần thiết một cách đồng
bộ.
2. Ủy ban có nhiệm vụ:
a) Theo yêu cầu của Hội đồng, soạn thảo các kiến nghị lên
Hội đồng về việc thi hành các chức năng của Cơ quan quyền lực;
b) Xem xét các kế hoạch làm việc chính thức và bằng văn bản
có liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng theo đúng Điều 153, khoản 3
và trình lên Hội đồng các kiến nghị thích hợp. Ủy ban chỉ dựa vào những quy
định trong Phụ lục III, để chuẩn bị các kiến nghị và trình lên Hội đồng một báo
cáo đầy đủ về các kiến nghị đó;
c) Theo yêu cầu của Hội đồng, giám sát các hoạt động tiến
hành trong Vùng, nếu có thể được, thì hỏi ý kiến và hợp tác với mọi thực thể
hay cá nhân tiến hành các hoạt động này hay với quốc gia hay các quốc gia hữu
quan, và làm báo cáo gửi lên Hội đồng;
d) Đánh giá những tác động về sinh thái của các hoạt động đã
tiến hành hoặc đang tiến hành trong Vùng;
e) Làm các kiến nghị gửi lên Hội đồng về việc bảo vệ môi
trường biển, có chú ý đến các ý kiến của các chuyên gia được thừa nhận;
f) Soạn thảo và đệ trình lên Hội đồng các quy tắc, quy định
và thủ tục nêu ở Điều 162, khoản 2, điểm o, có tính đến tất cả các yếu tố thích
hợp, kể các việc đánh giá những tác động về sinh thái của các hoạt động tiến
hành trong Vùng;
g) Qua từng thời kỳ, xem xét lại những quy tắc, quy định và
thủ tục này và kiến nghị lên Hội đồng những điều sửa đổi mà mình xét thấy cần
thiết hay nên làm;
h) Gửi các kiến nghị lên Hội đồng liên quan đến việc bố trí
một chương trình giám sát bao gồm việc quan sát, đo đạc, đánh giá và phân tích
định kỳ bằng những phương pháp khoa học được thừa nhận đối với những nguy cơ
hay ảnh hưởng của các hoạt động tiến hành trong Vùng về mặt ô nhiễm môi trường
biển, bảo đảm cho các quy định hiện có được thích hợp và được tôn trọng, và
việc phối hợp thực hiện chương trình giám sát, một khi chương trình này được
Hội đồng chuẩn y;
i) Kiến nghị lên Hội đồng để Hội đồng nhân danh cơ quan
quyền lực giao cho Viện giải quyết các tranh chấp có liên quan đến đáy biển xét
xử, đặc biệt lưu ý đến Điều 187, theo đúng phần này và các phụ lục có liên quan
đến phần này;
j) Trình lên Hội đồng các kiến nghị về các biện pháp thi
hành sau khi Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển được giao
giải quyết theo điểm i đã ra quyết định;
k) Kiến nghị lên Hội đồng để trong trường hợp khẩn cấp, Hội
đồng ra lệnh, kể cả lệnh đình chỉ hoặc sửa đổi các hoạt động nếu cần, nhằm
phòng ngừa bất kỳ tổn thất nghiêm trọng nào có thể gây ra cho môi trường biển
do các hoạt động tiến hành trong Vùng; Hội đồng ưu tiên xem xét các kiến nghị
này;
l) Kiến nghị lên Hội đồng không cho những người ký kết hợp
đồng hay Xí nghiệp khai thác một số khu vực khi có những lý do nghiêm túc để
cho rằng điều đó sẽ dẫn đến nguy cơ gây ra tổn thất nghiêm trọng cho môi trường
biển;
m) Gửi các kiến nghị đó lên Hội đồng liên quan đến việc chỉ
đạo và giám sát một đoàn thanh tra có nhiệm vụ theo dõi các hoạt động tiến hành
trong Vùng và có nhiệm vụ xác định xem phần này, các quy tắc, quy định và thủ
tục của Cơ quan quyền lực và các điều khoản, điều kiện của mọi hợp đồng đã ký
kết với Cơ quan quyền lực có được tuân thủ không;
n) Tính toán sản lượng tối đa và thay mặt Cơ quan quyền lực cấp
giấy phép sản xuất theo Điều 151, từ khoản 2 đến khoản 7, một khi Hội đồng đã
tiến hành sự lựa chọn cần thiết, nếu như cần phải chọn, trong số những người
yêu cầu cấp giấy phép sản xuất theo đúng Điều 7 của Phụ lục III.
3. Theo yêu cầu của mọi quốc gia thành viên mọi bên hữu quan
khác, các ủy viên của Ủy ban, khi thực hiện chức trách giám sát và thanh tra
của mình phải cho một đại diện của quốc gia hay của bên hữu quan này tham dự.
1. Ban thư ký của Cơ quan quyền lực gồm có một Tổng thư ký
và số nhân viên theo sự cần thiết của Cơ quan quyền lực.
2. Tổng thư ký do Đại hội đồng bầu ra trong số các ứng cử
viên do Hội đồng đề nghị với nhiệm kỳ là 4 năm và có thể được bầu lại.
3. Tổng thư ký là viên chức cao nhất của Cơ quan quyền lực
và hoạt động với tư cách này trong tất cả các cuộc họp của Đại hội đồng và Hội
đồng và của mọi cơ quan phụ trợ. Tổng thư ký thực hiện mọi chức trách hành
chính khác mà cơ quan này giao cho.
4. Tổng thư ký trình lên Đại hội đồng một báo cáo hàng năm
về hoạt động của Cơ quan quyền lực.
1. Nhân viên của Cơ quan quyền lực bao gồm những người có trình
độ nghiệp vụ trong các lĩnh vực khác mà Cơ quan quyền lực cần để thi hành các
chức năng quản lý của mình.
2. Căn cứ cao nhất trong vấn đề tuyển lựa và xác định các điều
kiện sử dụng nhân viên là bảo đảm cho Cơ quan quyền lực có những nhân viên phục
vụ có năng lực làm việc cao nhất, tinh thông và liêm khiết nhất. Ngoài căn cứ
này, phải tính đến tầm quan trọng của việc tuyển lựa trên cơ sở địa lý càng
rộng rãi càng tốt.
3. Nhân viên do Tổng thư ký bổ nhiệm. Các điều kiện và thể thức
bổ nhiệm, trả lương và thải hồi phải phù hợp với các quy tắc, quy định và thủ
tục của Cơ quan quyền lực.
1. Trong khi thực hiện chức trách của mình, Tổng thư ký và nhân
viên không được xin hay nhận chỉ thị của bất kỳ một chính phủ nào hay một nguồn
nào khác ngoài Cơ quan quyền lực. Tổng thư ký và nhân viên tránh mọi hành vi
không phù hợp với tư cách các viên chức quốc tế và họ chỉ chịu trách nhiệm đối
với Cơ quan quyền lực. Mỗi quốc gia thành viên cam kết tôn trọng tính chất quốc
tế thuần túy của các chức trách của Tổng thư ký và nhân viên của Cơ quan quyền
lực và cam kết không tìm cách gây ảnh hưởng đến họ trong khi họ thi hành nhiệm
vụ. Mọi hoạt động thiếu trách nhiệm của một viên chức được đưa ra trước một tòa
án hành chính được chỉ định theo các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan
quyền lực.
2. Tổng thư ký và nhân viên không được có những lợi lộc tài
chính trong một hoạt động nào liên quan đến việc thăm dò và khai thác tiến hành
trong Vùng. Với các trách nhiệm của họ đối với Cơ quan quyền lực, họ không được
tiết lộ một bí mật nào, một số liệu nào thuộc sở hữu công nghiệp và đã được
chuyển giao cho Cơ quan quyền lực theo Điều 14, Phụ lục III và một thông tin
mật nào khác mà họ biết do các chức trách của họ ngay cả sau khi đã thôi việc
cũng vậy.
3. Nếu một viên chức của Cơ quan quyền lực có những thiếu
sót đối với các nghĩa vụ nói ở khoản 2 thì, theo yêu cầu của một quốc gia thành
viên bị thiệt hại sao thiếu sót đó, hay theo yêu cầu của một tự nhiên nhân hay
pháp nhân do một quốc gia thành viên bảo trợ theo Điều 153, khoản 2, điểm b bị
thiệt hại do thiếu sót này, Cơ quan quyền lực sẽ truy tố viên chức này trước
một tòa án được chỉ định theo các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan
quyền lực. Bên bị thiệt hại có quyền tham gia vào việc tố tụng, nếu tòa án kiến
nghị, Tổng thư ký phải thải hồi nhân viên đó.
4. Các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực
trù định các thể thức áp dụng điều này.
1. Đối với các vấn đề thuộc thẩm quyền của Cơ quan quyền
lực, Tổng thư ký, sau khi được Hội đồng phê chuản, ký các thỏa thuận để tham
khảo ý kiến và hợp tác với các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ
được Hội đồng kinh tế và xã hội của Liên hợp quốc thừa nhận.
2. Bất kỳ tổ chức nào mà Tổng thư ký đã ký với họ một thỏa
thuận theo khoản 1 đều có thể chỉ định các đại diện tham dự với tư cách là quan
sát viên vào các hội nghị của các cơ quan thuộc Cơ quan quyền lực, theo đúng
quy chế nội bộ của các cơ quan này. Các thủ tục được định ra để cho các tổ chức
đó trình bày quan điểm của họ trong những trường hợp thích hợp.
3. Tổng thư ký có thể phân phát cho các quốc gia thành viên
các báo cáo bằng văn bản của các tổ chức phi chính phủ nói ở khoản 1 về các vấn
đề thuộc thẩm quyền riêng của họ và có liên quan đến công việc của Cơ quan
quyền lực.
1. Xí nghiệp là cơ quan của Cơ quan quyền lực trực tiếp tiến
hành các hoạt động trong Vùng theo Điều 153, khoản 2, điểm a, cũng như các hoạt
động vận chuyển, chế biến và buôn bán các khoáng sản được khai thác trong Vùng.
2. Trong khuôn khổ của Cơ quan quyền lực là pháp nhân quốc
tế, Xí nghiệp có tư cách pháp nhân được trù định trong Phụ lục IV. Xí nghiệp
hoạt động theo đúng Công ước và các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan
quyền lực, cũng như theo đúng chính sách chung do Đại hội đồng quyết định, và Xí
nghiệp tuân theo các chỉ thị của Hội đồng và chịu sự kiểm soát của cơ quan này.
3. Xí nghiệp có cơ quan chính đóng tại trụ sở của Cơ quan
quyền lực.
4. Theo đúng Điều 173, khoản 2 và Điều 11 của Phụ lục IV, Xí
nghiệp có những nguồn tài chính cần thiết để thực hiện các chức năng của mình,
và có các kỹ thuật đã được chuyển giao theo Điều 144 và theo các quy định thích
hợp khác của Công ước.
Các nguồn tài chính của Cơ quan quyền lực gồm có:
a) Các khoản đóng góp của các thành viên của Cơ quan quyền
lực được quy định theo đúng Điều 160, khoản 2, điểm e;
b) Những thu nhập mà Cơ quan quyền lực thu được, theo Điều
13 của Phụ lục III, từ các hoạt động tiến hành trong Vùng;
c) Các khoản tiền do Xí nghiệp chuyển khoản theo Điều 10 của
Phụ lục IV;
d) Vốn đi vay theo Điều 174;
e) Các khoản đóng góp tự nguyện của các quốc gia thành viên
hay của các nguồn khác; và
f) Các khoản nộp vào một quỹ bù trừ theo đúng Điều 151,
khoản 10 mà Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế phải kiến nghị các nguồn.
Tổng thư ký lập dự án ngân sách hàng năm của Cơ quan quyền
lực và trình lên Hội đồng. Hội đồng xem xét dự án đó và đệ trình lên Đại hội
đồng với những kiến nghị của mình để Đại hội đồng phê chuẩn theo Điều 160,
khoản 2, điểm h.
1. Những khoản đóng góp nói ở Điều 171, điểm a được nộp vào
một tài khoản đặc biệt và dùng để trang trải các khoản cho hành chính của Cơ
quan quyền lực cho đến khi Cơ quan quyền lực có được các khoản thu từ các nguồn
khác đủ để trang trải các khoản chi này.
2. Các nguồn tài chính của Cơ quan quyền lực trước tiên dùng
để thanh toán những khoản chi hành chính. Ngoài những khoản đóng góp nói ở Điều
171, điểm a, quỹ còn lại sau khi thanh toán các chi phí hành chính có thể dùng,
đặc biệt để:
a) Phân chia theo đúng Điều 140 và Điều 160, khoản 2, điểm
g;
b) Cấp cho Xí nghiệp các nguồn vốn nói ở Điều 170, khoản 4;
c) Đền bù cho các quốc gia đang phát triển theo đúng Điều
151 khoản 10 và với Điều 160, khoản 2, điểm l.
1. Cơ quan quyền lực có quyền vay vốn.
2. Đại hội đồng ấn định giới hạn của quyền này trong quy chế
tài chính được thông qua theo Điều 160, khoản 2, điểm f.
3. Hội đồng thực hiện quyền vay vốn này.
4. Các quốc gia thành viên không chịu trách nhiệm về các
khoản nợ của Cơ quan quyền lực.
Mỗi năm các báo cáo sổ sách và tài khoản của Cơ quan quyền
lực, kể cả các bản quyết toán tài chính hàng năm được một kiểm soát viên độc
lập do Đại hội đồng cử ra kiểm tra.
Cơ quan quyền lực là pháp nhân quốc tế và có quyền về pháp
lý cần thiết để thi hành chức năng và đạt tới các mục đích của mình.
Để có thể thực hiện các chức năng của mình, Cơ quan quyền lực
được hưởng trên lãnh thổ của mỗi quốc gia thành viên những đặc quyền và quyền
miễn trừ được trù định trong tiểu mục này. Những đặc quyền và quyền miễn trừ
liên quan đến Xí nghiệp được trù định ở Điều 13 của Phụ lục IV.
Cơ quan quyền lực cũng như tài sản và của cải của mình đều
được hưởng quyền miễn trừ về mặt tài phán và tịch thu tài sản, trừ phạm vi mà
Cơ quan quyền lực đã từ bỏ rõ ràng quyền miễn trừ này trong một trường hợp đặc
biệt.
Những của cải và tài sản của Cơ quan quyền lực, dù chúng nằm
ở đâu và người giữ chúng là ai, đều được miễn khám xét, trưng thu, tịch thu,
tước đoạt và mọi hình thức sai áp khác theo một biện pháp của cơ quan hành pháp
hay lập pháp.
Tài sản và của cải của Cơ quan quyền lực được miễn mọi sự
kiểm soát, hạn chế, quy định hay lệnh tạm hoãn nợ nào.
1. Hồ sơ của Cơ quan quyền lực dù chúng được cất giữ ở đâu
đều bất khả xâm phạm.
2. Các số liệu thuộc sở hữu công nghiệp, các thông tin thuộc
bí mật công nghiệp của Cơ quan quyền lực và các thông tin tương tự, cũng như
các hồ sơ về nhân sự không được để trong các cơ quan lưu trữ đại chúng.
3. Đối với các thông tin chính thức, mỗi quốc gia thành viên
dành cho Cơ quan đối xử ít nhất cũng thuận tiện như đối với các tổ chức quốc tế
khác.
Đại biểu các quốc gia thành viên tham dự các cuộc họp của
Đại hội đồng, của Hội đồng hoặc của các cơ quan của Đại hội đồng hay của Hội
đồng, cũng như Tổng thư ký và nhân viên của Cơ quan quyền lực, được hưởng trên
lãnh thổ của mỗi quốc gia thành viên:
a) Quyền miễn trừ về tài phán và tịch thu tài sản đối với
các hành động của họ trong khi thi hành các chức vụ của mình, trừ phạm vi quốc
gia mà họ đại diện hoặc Cơ quan quyền lực đã từ bỏ rõ ràng quyền miễn trừ này
trong một trường hợp đặc biệt;
b) Các quyền miễn trừ như các quyền đã được quốc gia mà trên
lãnh thổ quốc gia đó họ có mặt, dành cho các đại diện, công chức và nhân cấp
tương đương của các quốc gia thành viên khác về các điều kiện nhập cư, các thủ
tục đăng ký người nước ngoài và các nghĩa vụ phục vụ quốc gia, cũng như các
điều kiện thuận tiện như thế liên quan đến quy định về hối đoái và về di
chuyển, trừ khi họ là công dân của quốc gia hữu quan.
1.
Trong khi thi hành chức năng của mình, Cơ quan quyền lực cùng với của cải, tài
sản và thu nhập của mình, cũng như những hoạt động và giao dịch được Công ước
này cho phép, đều được miễn mọi thứ thuế trực thu và các tài sản mà Cơ quan
quyền lực nhập khẩu hay xuất khẩu để sử dụng trong công vụ đều được miễn mọi
thứ thuế quan. Cơ quan quyền lực không thể yêu cầu miễn bất cứ khoản tiền phải
trả nào cho các dịch vụ mà họ được hưởng.
2.
Đối với những việc mua của cải hay trả tiền dịch vụ của Cơ quan quyền lực hay
nhân danh Cơ quan quyền lực có một giá trị lớn, cần thiết cho việc thực hiện
chức năng của Cơ quan quyền lực và nếu giá các loại tài sản đó hay giá dịch vụ
đó bao gồm cả thuế, lệ phí hay thuế quan, thì các quốc gia thành viên sẽ cố
gắng hết sức thi hành những biện pháp thích hợp để miễn hay hoàn lại các khoản
thuế, lệ phí hay thuế quan. Các của cải nhập khẩu hay mua theo chế độ miễn trừ
được quy định ở điều này không được bán, chuyển nhượng bằng cách nào khác trên
lãnh thổ của quốc gia thành viên đã cho phép miễn thuế, trừ khi việc đó được
tiến hành theo các điều kiện đã thỏa thuận với quốc gia thành viên này.
3.
Các quốc gia thành viên không được thu một loại thuế trực thu hay gián thu nào
đánh vào tiền lương, tiền thù lao hay vào các khoản tiền khác mà Cơ quan quyền
lực trả cho Tổng thư ký và cho các nhân viên của mình, cũng như cho các chuyên
gia thực hiện những nhiệm vụ do Cơ quan quyền lực giao, trừ khi họ là công dân
của các nước đó.
Trong
việc thanh toán các khoản đóng góp của mình cho Cơ quan quyền lực, một quốc gia
thành viên nộp chậm, thì không được tham gia vào các cuộc bỏ phiếu, nếu tổng số
tiền còn thiếu bằng hoặc cao hơn tổng số tiền phải đóng góp cho 2 năm tròn đã
qua. Đại hội đồng có thể cho phép thành viên này tham gia bỏ phiếu, nếu Đại hội
đồng xét thấy việc thiếu sót này là do những hoàn cảnh nằm ngoài ý muốn của họ.
1.
Một quốc gia vi phạm phần này một cách nghiêm trọng và kéo dài thì có thể bị
Đại hội đồng, theo kiến nghị của Hội đồng đình chỉ việc hưởng các quyền và đặc
quyền vốn có của thành viên.
2.
Không một quyết định nào có thể được thi hành theo khoản 1, chừng nào mà Viện
giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển không xác nhận rằng quốc gia
thành viên hữu quan đã vi phạm phần này một cách nghiêm trọng và kéo dài.
Mục
này, phần XV và Phụ lục VI điều chỉnh quy chế của Viện giải quyết các tranh
chấp liên quan đến đáy biển và các cách thức mà Viện thi hành thẩm quyền của
mình,
Theo
phần này và các phụ lục có liên quan, Viện giải quyết các tranh chấp liên quan
đến đáy biển có thẩm quyền xét xử những loại tranh chấp về những hoạt động tiến
hành trong Vùng sau đây:
a)
Các vụ tranh chấp giữa các quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích
hay áp dụng phần này và các phụ lục có liên quan;
b)
Các vụ tranh chấp giữa một quốc gia thành viên và Cơ quan quyền lực liên quan
đến:
i.
Các hành động hay thiếu sót của Cơ quan quyền lực hay của một quốc gia thành
viên được viện dẫn là đã vi phạm các quy định của phần này hay các phụ lục có
liên quan hay các quy tắc quy định hay thủ tục đã được Cơ quan quyền lực thông
qua theo đúng các quy định này; hoặc
ii.
Các hành động của Cơ quan quyền lực được viện dẫn là đã vượt quá thẩm quyền của
mình hay đã lạm quyền;
c)
Các vụ tranh chấp giữa các bên ký kết một hợp đồng, dù các bên này là các quốc
gia thành viên, là Cơ quan quyền lực hay Xí nghiệp, hay các xí nghiệp của Nhà
nước hoặc các tự nhiên nhân hay pháp nhân đã nêu ở Điều 153, khoản 2, điểm b,
liên quan đến:
i.
Việc giải thích hay thi hành một hợp đồng hay một kế hoạch làm việc; hoặc
ii.
Các hành động hay thiếu sót của một bên ký kết hợp đồng liên quan đến các hoạt
động tiến hành trong Vùng và làm ảnh hưởng đến bên khác hay trực tiếp gây tổn
hại đến các lợi ích chính đáng của các bên khác đó;
d)
Các vụ tranh chấp giữa Cơ quan quyền lực và một người yêu cầu được một quốc gia
bảo trợ theo đúng Điều 153, khoản 2, điểm b và đã thoản mãn các điều kiện được
quy định ở Điều 4, khoản 6 và Điều 13, khoản 2 của Phụ lục III, có liên quan
đến việc từ chối ký kết hợp đồng hay đến một vấn đề pháp lý nảy sinh trong khi
thương lượng về hợp đồng;
e)
Các vụ tranh chấp giữa Cơ quan quyền lực và một quốc gia thành viên, một xí
nghiệp Nhà nước hoặc một tự nhiên nhân hay pháp nhân do một quốc gia thành viên
bảo trợ theo đúng Điều 153, khoản 2, điểm b, khi thấy rằng, theo Điều 22 của
Phụ lục III, việc tranh chấp này có đụng đến trách nhiệm của Cơ quan quyền lực;
f)
Bất kỳ tranh chấp nào khác mà Công ước đã trù định rõ ràng Viện có thẩm quyền
giải quyết.
ĐIỀU 188. Việc đưa những vụ tranh
chấp ra trước một Viện đặc biệt của Tòa án quốc tế về luật biển hay ra trước
một viện ad-hoc (đặc biệt) của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy
biển hay ra trước một trọng tài thương mại bắt buộc
1.
Các vụ tranh chấp giữa các quốc gia thành viên đề cập ở Điều 187, điểm a có thể
được đưa ra trước:
a)
Một viện đặc biệt của Tòa án quốc tế về luật biển được lập ra theo đúng các
Điều 15 và 17 của Phụ lục VI, theo yêu cầu của các bên tranh chấp; hay
b)
Một viện ad – hoc (đặc biệt) của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến
đáy biển được lập ra theo đúng Điều 36 của Phụ lục VI, theo yêu cầu của bất kỳ
bên tranh chấp nào.
2.
a) Các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng một hợp đồng nêu
ở Điều 187, điểm c điểm nhỏ i theo yêu cầu của bất kỳ bên tranh chấp nào, được
đưa ra trước trọng tài thương mại bắt buộc, trừ khi các bên tranh chấp có thỏa
thuận khác, Tòa trọng tài thương mại xét xử một vụ tranh chấp như thế không có
thẩm quyền phán xét về một điểm giải thích Công ước. Nếu vụ tranh chấp bao hàm
một điểm giải thích Phần XI và các phụ lục có liên quan, về các hoạt động tiến
hành trong Vùng thì điểm này phải được chuyển lên cho Viện giải quyết các tranh
chấp liên quan đến đáy biển quyết định.
b)
Lúc khởi tố hay trong quá trình tiến hành một thủ tục trọng tài như vậy, nếu
như Tòa trọng tài thương mại, theo yêu cầu của một trong những bên tranh chấp
hoặc tự ý mình, thấy rằng quyết định của mình phụ thuộc vào một quyết định của
Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển, thì Tòa trọng tài này
phải chuyển đổi quan điểm này lên cho Viện nói trên quyết định. Sau đó, Tòa
trọng tài sẽ ra phán quyết theo đúng quyết định của Viện;
c)
Nếu trong hợp đồng thiếu một điều quy định về thủ tục trọng tài có thể áp dụng
cho vụ tranh chấp, thì công việc trọng tài được thực hiện theo quy chế trọng
tài của CNUDCI hay theo bất kỳ quy chế trọng tài nào khác có thể được trù định
trong các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực, trừ khi các bên
có thỏa thuận khác.
Viện
giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển không có thẩm quyền phán xét
đối với việc Cơ quan quyền lực, theo đúng phần này, thi hành các quyền tùy ý
quyết định của mình; trong bất kỳ trường hợp nào, Viện này cũng không thể thay
thế cho Cơ quan quyền lực trong việc thi hành các quyền tùy ý quyết định nói
trên. Không phương hại đến Điều 191, khi thi hành thẩm quyền được thừa nhận theo
Điều 187, Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển không được phán
xét đối với các vấn đề xem một quy tắc, quy định hay một thủ tục của Cơ quan
quyền lực có phù hợp với Công ước hay không và không thể tuyên bố quy tắc, quy
định hay thủ tục này là vô hiệu. Thẩm quyền của Viện chỉ giới hạn trong việc
xác định xem việc áp dụng quy tắc, quy định hay thủ tục của Cơ quan quyền lực
trong những trường hợp riêng biệt có ngược lại với những nghĩa vụ theo hợp đồng
của các bên tranh chấp hay với các nghĩa vụ của họ theo Công ước không và xét
xử những trường hợp kháng cáo về việc không đủ thẩm quyền hay lạm quyền, cũng
như những yêu cầu bồi thường thiệt hại và những yêu cầu đền bù khác do một
trong các bên kiện bên kia vì thiếu sót trong việc thi hành nghĩa vụ theo hợp
đồng hay nghĩa vụ của họ theo Công ước.
1.
Quốc gia thành viên bảo trợ cho một tự nhiên nhân hay pháp nhân tham gia vào
một vụ tranh chấp đã nêu ở Điều 187 được nhận thông báo về vụ tranh chấp và có
quyền tham gia vào trình tự tố tụng bằng cách trình bày những nhận xét bằng văn
bản hay bằng lời.
2.
Khi một vụ kiện do một tự nhiên nhân hay pháp nhân được một quốc gia thành viên
khác bảo trợ, đệ đơn kiện một quốc gia thành viên về một vụ tranh chấp đã nêu ở
Điều 187, điểm c, thì quốc gia bị đơn có thể yêu cầu quốc gia bảo trợ ra trước
tòa nhân danh bên nguyên. Nếu không ra trước tòa được, thì quốc gia bị đơn có thể
ủy quyền cho một pháp nhân mang quốc tịch của mình thay mặt.
Viện
giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển đưa ra các ý kiến tư vấn theo
yêu cầu của Đại hội đồng, hay Hội đồng về những vấn đề pháp lý được đặt ra
trong những thời hạn ngắn nhất.
Các
quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển.
Các
quốc gia có quyền thuộc chủ quyền khai thác các tài nguyên thiên nhiên của mình
theo chính sách về môi trường của mình và theo đúng nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ
môi trường biển của mình.
1.
Các quốc gia, tùy theo tình hình, thi hành riêng rẽ hay phối hợp với nhau, tất
cả các biện pháp phù hợp với Công ước, cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự ô nhiễm môi trường biển, sử dụng các phương tiện thích hợp nhất mà mình có,
và cố gắng điều hòa các chính sách của mình về mặt này.
2.
Các quốc gia thi thành mọi biện pháp cần thiết để cho các hoạt động thuộc quyền
tài phán hay quyền kiểm soát của mình không gây tác hại do ô nhiễm cho các quốc
gia khác và cho môi trường của họ và để cho nạn ô nhiễm nảy sinh từ những tai
nạn hay từ các hoạt động thuộc quyền tài phán hay quyền kiểm soát của mình
không lan ra ngoài các khu vực mà mình thi hành các quyền thuộc chủ quyền theo
đúng Công ước.
3.
Các biện pháp được sử dụng để thi hành phần này cần phải nhằm vào tất cả các
nguồn gây ra ô nhiễm môi trường biển. Nhất là, chúng bao gồm những biện pháp
nhằm hạn chế đến mức cao nhất:
a.
Việc thải bỏ từ khí quyển xuống hay đi qua khí quyển do nhận chìm các chất độc
có hại và độc hại, đặc biệt là các chất không bị phân hủy từ các nguồn ở đất
liền;
b.
Ô nhiễm do các tàu thuyền gây ra, đặc biệt là những biện pháp nhằm đề phòng các
sự cố và đối phó với các trường hợp khẩn cấp, nhằm đảm bảo an toàn cho các hoạt
động trên biển, ngăn ngừa những hành động thải bỏ, dù cố ý hay không, và quy
định về cách thiết kế, cấu trúc, trang bị và việc khai thác các tàu thuyền;
c.
Ô nhiễm bắt nguồn từ các thiết bị hay phương tiện được sử dụng để thăm dò hay
khai thác các tài nguyên thiên nhiên của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển
này, đặc biệt là các biện pháp nhằm phòng ngừa các sự cố và đối phó với các
trường hợp khẩn cấp, đảm bảo an toàn cho các hoạt động trên biển, và quy định
về cách thiết kế, cấu trúc, trang bị và việc khai thác các thiết bị hay phương
tiện này,và thành phần nhân viên được sử dụng ở đó;
d.
Ô nhiễm xuất phát từ các thiết bị hay phương tiện khác hoạt động trong môi
trường biển, đặt biệt là những biện pháp nhằm phòng ngừa những sự cố và đối phó
với các trường hợp khẩn cấp, bảo đảm an toàn cho các hoạt động trên biển, và
quy định về cách thiết kế, cấu trúc, trang bị và khai thác các thiết bị hay
phương tiện này,và thành phần nhân viên được sử dụng ở đó.
4.
Khi thi hành các biện pháp phòng ngừa, hạn chế , hay chế ngự ô nhiễm môi trường
biển, các quốc gia tránh chấp cứ sự can thiệp vô lý nào vào các hoạt động của
các quốc gia khác đang thi hành các quyền hay đang thực hiện nghĩa vụ của họ
theo đúng Công ước.
5.
Các biện pháp được thi hành theo đúng phần này bao gồm các biện pháp cần thiết
để bảo vệ và gìn giữ các hệ thống sinh thái hiếm hoi hay mỏng manh cũng như
điều kiện cư trú của các loài và các sinh vật biển khác đang thoái hóa, có nguy
cơ hay đang bị hủy diệt.
ĐIỀU 195. Nghĩa vụ không được đùn
đẩy thiệt hại hay các nguy cơ và không được thay thế một kiểu ô nhiễm này bằng
một kiểu ô nhiễm khác
Khi
thi hành các biện pháp để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường
biển, các quốc gia phải làm sao để không đùn đẩy, trực tiếp hay gián tiếp,
thiệt hại hay các nguy cơ từ vùng này sang vùng khác và không được thay thế một
kiểu ô nhiễm này bằng một kiểu ô nhiễm khác.
1.
Các quốc gia thi hành mọi biện pháp cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự
ô nhiễm môi trường biển từ việc sử dụng các kỹ thuật trong khuôn khổ quyền tài
phán hay dưới sự kiểm soát của mình, hoặc do du nhập cố ý hay vô tình vào một
bộ phận môi trường biển các ngoại lai hoặc mới có thể gây ra ở đó các thay đổi
đáng kể và có hại.
2.
Điều này không ảnh hưởng đến việc áp dụng các quy định của Công ước có liên
quan đến các biện pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường
biển.
Các
quốc gia hợp tác trên phạm vi thế giới và nếu có thể thì trên phạm vi khu vực,
trực tiếp hay qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, trong việc
hình thành và soạn thảo các quy tắc và các quy phạm, cũng như các tập quán và
thủ tục được kiến nghị mang tính chất quốc tế phù hợp với Công ước, để bảo vệ
và gìn giữ môi trường biển, có tính đến các đặc điểm có tính chất khu vực.
Quốc
gia nào biết được trường biệt môi trường biển đang có nguy cơ sắp phải chịu
những thiệt hại hay đã chịu những thiệt hại do ô nhiễm thì phải lập tức thông
báo cho các quốc gia khác mà mình xét thấy có nguy cơ phải chịu những tổn thất
này cũng như cho các tổ chức quốc tế có thẩm quyền.
Trong
các trường hợp đã nêu ở Điều 198, các quốc gia ở trong khu vực bị ảnh hưởng,
theo khả năng của mình, và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hợp tác với nhau
đến mức cao nhất nhằm loại trừ ảnh hưởng của ô nhiễm và nhằm ngăn ngừa và giảm
đến mức tối thiểu những thiệt hại. Nhằm mục đích này, các quốc gia cần cùng
nhau soạn thảo và xúc tiến các kế hoạch khẩn cấp để đối phó với những tai nạn gây
ra ô nhiễm môi trường biển.
Trực
tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các quốc gia
hợp tác với nhau nhằm đẩy mạnh công tác nghiên cứu, thực hiện các chương trình
nghiên cứu khoa học và khuyến khích việc trao đổi các thông tin và các dữ kiện
về ô nhiễm môi trường biển. Các quốc gia cố gắng tham gia tích cực vào các
chương trình khu vực và thế giới nhằm thu được những kiến thức cần thiết để xác
định tính chất và phạm vi ô nhiễm, đối tượng có nguy cơ bị ô nhiễm, những con
đường mà nạn ô nhiễm đi qua, những nguy hiểm mà nạn ô nhiễm chứa đựng và những
phương thức khắc phục có thể có.
Lưu
ý đến các thông tin và các dữ kiện thu được trong khi áp dụng Điều 200, trực
tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các quốc gia
hợp tác với nhau nhằm lập ra các tiêu chuẩn khoa học thích hợp để xây dựng và
soạn thảo các quy tắc và quy phạm, cũng như các tập quán và thủ tục được kiến
nghị nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển.
Trực
tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các quốc gia
cần:
a.
Đẩy mạnh các chương trình giúp đỡ cho các quốc gia đang phát triển trong các
lĩnh vực khoa học, giáo dục, kỹ thuật và trong các lĩnh vực khác nhằm bảo vệ và
gìn giữ môi trường biển và nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm biển. Sự
giúp đỡ này đặc biệt gồm có:
i.
Đạo tạo nhân viên khoa học và kỹ thuật của các quốc gia này;
ii.
Tạo điều kiện dễ dàng cho việc tham gia của các quốc gia này vào các chương
trình quốc tế thích hợp;
iii.
Cung cấp cho các quốc gia này cơ sở vật chất và những điều kiện thuận lợi cần thiết;
iv.
Tăng cường khả năng tự sản xuất cơ sở vật chất nói trên cho các quốc gia đó;
v.
Giúp đỡ các ý kiến tư vấn và phát triển các phương tiện vật chất liên quan đến
các chương trình nghiên cứu, các chương trình giám sát liên tục, chương trình
giáo dục và các chương trình khác;
b.
Thực hiện sự giúp đỡ thích hợp, đặc biệt là cho các quốc gia đang phát triển,
để giúp các quốc gia này giảm bớt đến mức tối thiểu những ảnh hưởng của các tai
biến lớn có nguy cơ gây ra một nạn ô nhiễm nghiêm trọng cho môi trường biển;
c.
Thực hiện sự giúp đỡ thích hợp, đặc biệt là cho các quốc gia đang phát triển,
để xây dựng các đánh giá về sinh thái học.
Để
ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển hoặc để hạn chế đến mức
tối thiểu các ảnh hưởng của nó, các tổ chức quốc tế dành sự đối xử ưu tiên cho
các quốc gia đang phát triển về:
a.
Việc trợ cấp vốn và các phương tiện giúp đỡ kỹ thuật thích hợp; và
b.
Việc sử dụng các cơ sở chuyên môn của mình.
1.
Các quốc gia cần cố gắng hết sức mình và phù hợp với các quyền của các quốc gia
khác, trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, để
quan sát, đo đạc, đánh giá và phân tích, bằng các phương pháp khoa học được
thừa nhận, các nguy cơ ô nhiễm môi trường biển hay những ảnh hưởng của vụ ô
nhiễm này.
2.
Đặc biệt, các quốc gia phải thường xuyên giám sát những tác động của mọi hoạt
động mà họ cho phép hay họ tiến hành để xác định xem các hoạt động này có nguy
cơ gây ra ô nhiễm môi trường biển hay không.
Các
quốc gia công bố các báo cáo về kết quả thu được trong khi áp dụng Điều 204
hay, theo khoảng thời gian thích hợp, cung cấp các báo cáo như vậy cho các tổ
chức quốc tế có thẩm quyền và các tổ chức quốc tế này cần phải để cho mọi quốc
gia khác sử dụng các báo cáo này.
Khi
các quốc gia có những lý do xác đáng để cho rằng các hoạt động đã dự tính thuộc
quyền tài phán hay quyền kiểm soát của mình có quy cơ gây ra một vụ ô nhiễm
nghiêm trong hay làm thay đổi đáng kể và có hại đối với môi trường biển, thì
trong chừng mực có thể, các quốc gia này cần đánh giá các tác động tiềm tàng
cùa các hoạt động này đối với môi trường đó và cần báo cáo lại những kết quả
của những đánh giá này theo cách đã được quy định ở Điều 205.
Mục 5. QUY ĐỊNH QUỐC TẾ VÀ LUẬT
TRONG NƯỚC NHẰM NGĂN NGỪA, HẠN CHẾ VÀ CHẾ NGỰ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG BIỂN
1.
Các quốc gia thông qua các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô
nhiễm môi trường có nguồn gốc từ đất, kể cà các ô nhiễm xuất phát từ các dòng
sông, ngòi, cửa sông, ống dẫn và các thiết bị thải đổ, có lưu ý đến các quy tắc
và quy phạm cũng như các tập quán và thủ tục được kiến nghị và chấp nhận trên
phạm vi quốc tế.
2.
Các quốc gia thi hành mọi biện pháp có thể cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và
chế ngự nạn ô nhiễm này.
3.
Các quốc gia có cố gắng điều hòa các chính sách của mình về mặt này ở mức độ
khu vực thích hợp.
4.
Đặc biệt khi hành động qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay
qua một hội nghị ngoại giao, các quốc gia cố gắng thông qua các quy tắc và quy
phạm, cũng như các tập quán và thủ tục được kiến nghị trên phạm vi thế giới và
khu vực để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm bắt nguồn từ đất đối với
môi trường biển, có tính đến các đặc điểm khu vực, đến khả năng kinh tế của các
quốc gia đang phát triển và các đòi hỏi về phát triển kinh tế của các quốc gia
này. Các quy tắc và quy phạm cũng như các những tập quán và thủ tục được kiến
nghị này tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ, được xem xét lại.
5.
Các luật, quy chế và các biện pháp cũng như các quy tắc, quy phạm và các tập
quán, thủ tục được kiến nghị đã nêu ở khoản 1, 2 và 4, bao gồm những biện pháp
nhằm hạn chế đến hết mức việc trút vào môi trường biển các chất độc, có hại và
độc hại, đặc biệt là các chất không thể phân hủy được.
Các
quốc gia ven biển thông qua các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự ô nhiễm đối với môi trường biển trực tiếp hay gián tiếp do các hoạt động
liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài phán quốc gia gây ra, hay xuất phát từ
các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình thuộc quyền tài phán của mình theo các
Điều 60 và 80.
Các
quốc gia thi hành mọi biện pháp khác có thể cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và
chế ngự sự ô nhiễm này.
Các
luật, quy định và biện pháp này không được kém hiệu quả hơn các quy tắc và quy
phạm quốc tế hay các tập quán và thủ tục đã được kiến nghị có tính chất quốc
tế.
Các
quốc gia cố gắng điều hòa các chính sách của mình về mặt này ở mức độ khu vực
thích hợp.
Đặc
biệt khi hành động qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua
một hội nghị ngoại giao, các quốc gia thông qua các quy tắc và quy phạm cũng
như tập quán và thủ tục được kiến nghị, trên phạm vi thế giới và khu vực, để
ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm môi trường biển nói ở khoản 1. Các
quy tắc và quy phạm cũng như tập quán và thủ tục được kiến nghị này, tùy theo sự
cần thiết mà qua từng thời kỳ được xem xét lại.
1.
Các quy tắc, quy định và thủ tục quốc tế được thông qua theo đính Phần XI để
ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do các hoạt động tiến
hành trong Vùng gây ra. Các quy tắc, quy định và thủ tục này, tùy theo sự cần
thiết mà qua từng thời kỳ được xem xét lại.
2.
Trong điều kiện tuân theo các quy định thích hợp của mục này, các quốc gia
thông qua các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi
trường biển này sinh từ các hoạt động tiến hành trong Vùng của các tàu thuyền
hay xuất phát từ các thiết bị, công trình hay các phương tiện khác, tùy theo
trường hợp, treo cờ của các quốc gia đó, đăng ký ở trên lãnh thổ hay thuộc
quyền của họ. Các luật và quy định này không được kém hiệu lực hơn các quy
tắc,quy định và thủ tục quốc tế nói ở khoản 1.
Các
quốc gia thông qua các luật và quy định để phòng ngừa, hạn chế và chế ngự ô
nhiễm môi trường biển do sự nhận chìm.
Các
quốc gia thi hành tất cả các biện pháp khác có thể cần thiết để ngăn ngừa, hạn
chế và chế ngự ô nhiễm này.
Các
luật, quy định và biện pháp phải bảo đảm rằng không một sự nhận chìm nào có thể
được tiến hành mà không được phép của các nhà đương cục có thẩm quyền của các
quốc gia.
Đặc
biệt khi hành động qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua
một hội nghị ngoại giao; các quốc gia cố gắng thông qua trên phạm vi thế giới
và khu vực các quy tắc và quy phạm cũng như tập quán và thủ tục được kiến nghị
để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm này. Các quy tắc và quy phạm cũng như
tập quán và thủ tục được kiến nghị này, tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời
kỳ được xem xét lại.
Việc
nhận chìm ở trong lãnh hải và trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục
địa không thể được tiến hành nếu không được sự đồng ý rõ ràng trước quốc gia
ven biển; quốc gia ven biển có quyền cho phép, quy định và kiểm soát sự nhận
chìm này, sau khi đã xem xét đúng mức vấn đề với các quốc gia khác mà do những
hoàn cảnh địa lý nên việc nhận chìm này có thể có những tác hại đối với họ.
Các
luật và quy định cũng như các biện pháp quốc gia không được kém hiệu lực hơn
các quy tắc và quy phạm có tính chất thế giới để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự
ô nhiễm này.
Hành
động qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị
ngoại giao chung, các quốc gia thông qua các quy tắc và quy phạm quốc tế nhằm
ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do các tàu thuyền gây ra
và quan tâm tạo điều kiện dễ dàng cho việc định ra, cũng theo cách nói trên,
nếu cần, các cách bố trí đường giao thông cho tàu thuyền nhằm hạn chế đến mức
tối thiểu nguy cơ xảy ra tai nạn có thể làm cho môi trường biển kể cả vùng
duyên hải bị ô nhiễm, và do đó mà đụng chạm đến những lợi ích có liên quan của
các quốc gia ven biển. Các quy tắc và quy phạm này, cũng theo cách như thế, tùy
theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ được xem xét lại.
Các
quốc gia thông qua các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô
nhiễm môi trường biển do tàu thuyền mà mình cho mang cờ hay cho đăng ký gây ra.
Các luật và quy định này không được kém hiệu quả hơn các quy tắc và quy phạm
quốc tế được chấp nhận chung và được xây dựng qua trung gian của tổ chức quốc
tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao chung.
Nhằm
mục đích ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển, các quốc gia
khi đặt ra các điều kiện đặt biệt cho các tàu thuyền nước ngoài đi vào các cảng
hay nội thủy của mình hoặc công trình cảng cuối cùng ở ngoài khơi, cần phải
công bố đúng thủ tục về các điều kiện này và phải thông báo cho các tổ chức
quốc tế có thẩm quyền. Để điều hòa chính sách về mặt này, khi hai hay nhiều
quốc gia ven biển đặt ra các điều kiện như vậy dưới một hình thức giống nhau,
cần ghi rõ trong thông báo các quốc gia nào tham gia vào các thỏa thuận như
vậy. Mọi quốc gia đòi hỏi thuyền trưởng của một chiếc tàu mà mình cho mang cờ
hay đăng ký, khi tàu có mặt ở trong lãnh hải của một quốc gia tham gia vào
những thỏa thuận chung này, phải cung cấp, theo yêu cầu của quốc gia này, những
thông tin chỉ rõ liệu chiếc tàu này có hướng về một quốc gia thuộc cùng khu vực
tham gia vào các thỏa thuận này không và, nếu đúng, cần xác định xem chiếc tàu
này có đáp ứng đầy đủ các điều kiện do quốc gia này đặt ra liên quan đến việc
đi vào trong các cảng của mình không. Điều này được áp dụng không phương hại
đến việc tiếp tục thực hiện quyền đi qua không gây hại của một chiếc tàu hay
đến việc áp dụng Điều 25, khoản 2.
Trong
việc thi hành chủ quyền đối với lãnh hải của mình, các quốc gia ven biển có thể
thông qua các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi
trường biển do tàu thuyền nước ngoài gây ra, kể cả các tàu thuyền đang thực
hiện quyền đi qua không gây hại. Các luật và quy định này, theo đúng với Mục 3
của phần II, không được cản trở việc đi qua không gây hại của tàu thuyền nước
ngoài.
Nhằm
thực hiện việc áp dụng đã nói ở mục 6, các quốc gia ven biển có thể thông qua
các luật và quy định nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do tàu thuyền
gây ra trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình; các luật và quy định đó phải
phù hợp và đem lại hiệu lực cho các quy tắc và quy định quốc tế được chấp nhận
chung và được xây dụng qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay
qua một hội nghị ngoại giao chung.
a.
Khi các quy tắc và quy phạm quốc tế nói ở khoản 1 không cho phép đáp ứng một
cách thích đáng với những tình huống đặc biệt và nếu một quốc gia ven biển có
lý do chính đáng để cho rằng một khu vực đặc biệt và được xác định rõ ràng
trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình, đòi hỏi phải thông qua các biện pháp
bắt buộc đặc biệt để ngăn ngừa ô nhiễm do tàu thuyền gây ra, vì những lý do kỹ
thuật được thừa nhận do những đặc điểm hải dương học và sinh thái học của khu
vực đó cũng như do việc sử dụng hay việc bảo vệ các tài nguyên của khu vực đó
và do đặc điểm riêng của luồng giao thông, thì quốc gia này, sau khi thông qua
trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền, đã tham khảo ý kiến thích đáng
với mọi quốc gia hữu quan, có thể gửi lên tổ chức này một thông báo liên quan
đến khu vực xem xét bằng cách đưa ra những chứng minh khoa học và kỹ thuật,
cũng như những chỉ dẫn về cá thiết bị thu nhận cần thiết để chứng minh. Trong
thời hạn 12 tháng sau khi nhận được thông báo, tổ chức quyết định xem tình hình
trong khu nvực được xem xét có đáp ứng các điều kiện kể trên không. Nếu tổ chức
quyết định đúng là như vậy, thì quốc gia ven biển có thể thông qua cho khu vực
này các luật và quy định nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do các tàu
thuyền gây ra đem lại hiệu lực cho các quy tắc và quy phạm hay tập quán về hàng
hải quốc tế mà tổ chức đã đưa ra áp dụng cho những khu vực đặc biệt.Các luật và
quy định này chỉ được áp dụng đối với các tàu thuyền nước ngoài sau một thời
hạn là 15 tháng kể từ ngày thông báo cho tổ chức;
Quốc
gia ven biển công bố các giới hạn của các khu vực đặc biệt và được xác định rõ
ràng này;
Khi
làm thông báo kể trên, quốc gia ven biển cần đồng thời nói rõ cho tổ chức rằng
họ có ý định thông qua, cho khu vực mà họ đề cập, những luật và quy định bổ
sung nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường do tàu thuyền gây ra
hay không. Các luật và quy dịnh bổ sung này có thể đề cập việc thải bỏ hay
những tập quán hàng hải, nhưng không bắt buộc các tàu thuyền nước ngoài phải
tôn trọng các tiêu chuẩn khác về mặt thiết kế, cấu trúc và trang bị, ngoài các
quy tắc và quy phạm quốc tế đẵ được chấp nhận chung; các luật và quy định bổ
sung này có thế áp dụng cho tàu thuyền nước ngoài, sau 15 tháng kể từ ngày
thông báo cho tổ chức này, với điều kiện là tổ chức này, trong một thời hạn là
12 tháng, kể từ ngày được thông báo, đã chuẩn y các luật và quy định bổ sung
nói trên.
Các
quy tắc và quy phạm quốc tế nêu ở điều này còn cần trù định nghĩa vụ phải thông
báo ngay lập tức cho các quốc gia ven biển mà vùng duyên hải hay các lợi ích
liên quan của họ có nguy cơ bị những tai nạn trên biển tác động đến, nhất là
những tai nạn dẫn đến hay có nguy cơ dẫn đến những việc thải bỏ.
Để
ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển có nguồn gốc từ bầu khí
quyển hay qua bầu khí quyển, các quốc gia thông qua các luật và quy định áp
dụng ở vùng trời thuộc chủ quyền của mình và áp dụng cho các tàu thuyền mang cờ
của mình hay cho các tàu thuyền hoặc các phương tiện bay mà mình cho đăng ký,
có tính đến các quy tắc quy phạm, cũng như những tập quán và thủ tục được kiến
nghị, và đã được chấp nhận trên phạm vi quốc tế vá có tính đến an toàn hàng
không.
Các
quốc gia thi hành các biện pháp khác có thể cấn thiết để ngăn giữ, hạn chế và
chế ngự ô nhiễm này.
Đặc
biệt khi hành động qua trung gian cảu các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua
một hội nghị ngoại giao, các quốc gia cố gắng thông qua các quy tắc và quy
phạm, cũng như các tập quán và thủ tục được kiến nghị trên phạm vi thế giới và
khu vực để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm này.
Các
quốc gia đảm bảo việc áp dụng các luật và quy định và thi hành theo đúng Điều
207; Các quốc gia thông qua luật và quy định và thi hành các biện pháp cần
thiết khác để đem lại hiệu lực cho các quy tắc và quy phạm quốc tế có thẩm
quyền hay qua một hội nghị ngoại giao nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô
nhiễm môi trường biển bắt nguồn từ đất.
ĐIỀU 214. Việc áp dụng các quy định
liên quan đến ô nhiễm do các hoạt động liên quan đến đáy biển gây ra
Các
quốc gia bảo đảm việc áp dụng các luật và quy định đã được thông qua theo đúng
Điều 208; họ thông qua các luật và các quy định và thi hành các biện pháp cấn
thiết khác để đem lại hiệu lực cho các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp
dụng, được xây dựng qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay
qua một hội nghị ngoại giao, để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi
trường do các hoạt động liên quan đến đáy biển và thuộc quyền tài phán của
mình, trực tiếp hay gián tiếp gây ra, hay xuất phát từ các đảo nhân tạo, các
thiết bị và công trình được đặt dưới quyền tài phán của mình theo các Điều 60
và 80.
ĐIỀU 215. Việc áp dụng quy định quốc
tế liên quan đến ô nhiễm do các hoạt động tiến hành trong Vùng gây ra
Việc
áp dụng quy tắc, quy định và thủ tục quốc tế được xây dựng theo đúng Phần XI để
ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển gây ra bởi các hoạt động
tiến hành trong Vùng do phần này điều chỉnh.
Các
luật và quy định được thông qua theo đúng Công ước và các quy tắc và quy phạm
quốc tế có thể áp dụng, được xây dựng qua trung gian của các tổ chức quốc tế có
thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao nhằm ngăn ngừa,hạn chế và chế ngự ô
nhiễm môi trường biển bởi việc nhận chìm do các đối tượng sau đây thi hành:
Quốc
gia ven biển, đối với việc nhận chìm nằm trong giới hạn của lãnh hải hay vùng
đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa của mình;
Quốc
gia mà tàu mang cờ, đối với các tàu thuyền mang cờ của mình hay các tàu hay
phương tiện bay mà mình cho đăng ký;
Bất
kỳ quốc gia nào, đối với việc đưa ra chất cặn bã hay các chất khác lên lãnh thổ
của mình hay lên các công trình cảng cuối cùng ra khơi.
Theo
điều này, không quốc gia nào được khởi tố, khi vụ kiện đã được một quốc gia
khác khởi tố cũng theo đúng điều này.
Các
quốc gia quan tâm đến việc tàu thuyền mang cờ của mình hay được mình cho đăng
ký tôn trọng các quy tắc và quay phạm quốc tế có thể áp dụng, được xây dựng qua
trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao
chung, cũng như các luật và quy định mà các quốc gia này đã thông qua theo đúng
Công ước để ngăn ngừa hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do tàu thuyền
gây ra và họ thông qua các quy luật và quy định, và thi hành các biện pháp cần
thiết để đem lại hiệu lực cho các quy luật và quy định đó. Quốc gia mà tàu mang
cờ phải quan tâm đến việc các quy tắc, quy phạm, luật và quy định này được áp
dụng một cách có hiệu quả, bất kể việc vi phạm xảy ra ở đâu.
Đặc
biệt, các quốc gia thi hành các biện pháp thích hợp để cấm các tàu thuyền mang
cờ của nước mình hay được mình cho đăng ký chuẩn bị nhổ neo, chừng nào chúng
không tuân theo đúng các quy tắc và quy phạm quốc tế nêu ở khoản 1, kể các quy
định liên quan đến cách thiết kế, cấu trúc, và trang bị của tàu thuyền.
Các
quốc gia quan tâm đến việc các tàu thuyền mang cờ của nước mình hay được mình
cho đăng ký phải có đủ các chứng từ cấn thiết và được cấp theo các quy tắc và
quy phạm quốc tế nêu ở khoản 1. Các quốc gia quan tâm đến việc các tàu thuyền
mang cờ nước mình phải được kiểm tra định kỳ xác minh xem lời ghi chú ở trên
các chứng từ này có phù hợp với tình trạng thực tế của con tàu hay không. Các
quốc gia khác chấp nhận các chứng từ này cũng có giá trị như là những chứng từ
mà mình cấp, trừ khi có lý do xác đáng để cho rằng tình trạng con tàu trong một
chừng mực quan trọng không phù hợp với các ghi chú ở trên các chứng từ này.
Nếu
một con tàu vi phạm các quy tắc và quy định được xây dựng qua trung gian của tổ
chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao chung, quốc gia cho
tàu mang cờ, với điều kiện không phương hại tới các Điều 218, 220 và 228, phải
lập tức tiến hành mọi cuộc điều tra và, nếu thấy cần thì, khởi tố đối với vụ vi
phạm được suy đoán đó, bất kể nơi xảy ra vụ vi phạm này hay vị trí mà nạn ô
nhiễm do vụ vi phạm gây ra đã xảy ra hoặc được xác nhận là ở đâu.
Khi
tiến hành điều tra vụ vi phạm, quốc gia mà tàu mang cờ có thể yêu cầu sự giúp
đỡ của mọi quốc gia khác mà sự hợp tác có thể có ích để làm sáng tỏ các hoàn
cảnh của sự việc. Các quốc gia cố gắng đáp ứng các yêu cầu thích hợp của các
quốc gia mà tàu mang cờ.
Theo
yêu cầu bằng văn bản của một quốc gia,các quốc gia phải tiến hành điều tra về
mọi vi phạm do tàu thuyền mang cờ của họ có thể đã phạm phải. Quốc gia mà tàu
mang cờ phải tiến hành không chậm trễ việc truy tố về nội dung chính của sự vi
phạm đã được suy đoán theo đúng luật trong nước của mình, nếu tin chắc rằng đã
có đủ chứng cứ để tiến hành công việc này.
Quốc
gia mà tàu mang cờ thông báo ngay cho quốc gia yêu cầu và tổ chức quốc tế có
thẩm quyền về vụ việc đã được khởi tố và kết quả của nó. Tất cả các quốc gia
đều được tiếp xúc với những thông tin đã được thông báo đó.
Những
chế tài được trù định trong các quy luật và quy định của quốc gia đối với các
tàu thuyền mang cờ của mình cần phải nghiêm khắc để hạn chế các vụ vi phạm,ở
bất cứ đâu.
Khi
một chiếc tàu tự ý có mặt ở trong một cảng hay ở một công trình cảng cuối cùng
ngoài khơi, quốc gia có cảng có thể mở một cuộc điều tra và, khi có các chứng
cứ để chứng minh, có thể khởi tố đối với bất kỳ sự thải đổ nào do chiếc tàu
tiến hành ở ngoại nội thủy, lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế của mình, vi
phạm các luật và quy phạm quốc tế có thể áp dụng, được xây dựng qua trung gian của
tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao chung.
Quốc
gia có cảng không thể khởi tố theo khoản 1 đối với một vụ vi phạm do việc thải
đổ nào do chiếc tàu tiến hành ở ngoài nội thủy, lãnh hải hay vùng đặc quyền về
kinh tế của mình, hoặc là quốc gia mà tàu mang cờ hay quốc gia đã chịu, hay có
nguy cơ phải chịu, các tổn thất do việc thải đổ này gây ra yêu cầu.
Khi
một con tàu tự ý có mặt trong một cảng hay ở một công trình cảng cuối cùng
ngoài khơi, quốc gia có cảng cố gắng chấp nhận những đơn yêu cầu điều tra của
bất kỳ quốc gia nào khác về việc thải đổ có khả năng gây ra vụ vi phạm đã nêu ở
khoản 1 có thể đã xảy ra trong nội thủy, lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế
của quốc gia yêu cầu, và có thể đã gây ô nhiễm hay có nguy cơ gây ô nhiễm cho
các vùng này. Quốc gia có cảng cũng cố gắng chấp nhận đơn yêu cầu điều tra của
quốc gia mà tàu mang cờ về những vi phạm như thế, bất kể các vụ vi phạm này có
thể xảy ra ở đâu.
Hồ
sơ điều tra do quốc gia có cảng tiến hành theo điều này được chuyển cho quốc
gia mà tàu mang cờ hay cho quốc gia ven biển theo yêu cầu của các quốc gia này.
Bất kỳ việc nào do quốc gia có cảng khởi tố dựa trên cơ sở của cuộc điều tra
này, có thể bị đình chỉ theo yêu cầu của quốc gia ven biển, với điều kiện phải
tuân theo các quy định của Mục 7, khi vụ vi phạm đã xảy ra trong nội thủy, lãnh
hải hay vùng đặc quyền về kinh tế của quốc gia ven biển này. Khi đó những chứng
cứ, hồ sơ về sự việc, cũng như mọi sự bảo lãnh hay đảm bảo tài chính đã được
gửi cho những nhà đương cục của quốc gia có cảng phải được chuyển cho quốc gia
ven biển. Sau khi chuyển giao hồ sơ, quốc gia có cảng không theo đuổi vụ kiện
nữa.
Với
điều kiện tuân thủ Mục 7, khi các quốc gia, theo yêu cầu hay tự ý mình xác định
rằng một con tàu đang ở một trong các cảng của mình hay ở một trong các công
trình cảng cuối cùng ở ngoài khơi của mình đã vi phạm các qui tắc và quy phạm
quốc tế có thể áp dụng liên quan đến khả năng đi biển của tàu thuyền và có nguy
cơ từ đó gây ra thiệt hại cho môi trường biển, cần thi hành các biện pháp hành
chính trong phạm vi khả năng của mình để ngăn không cho chiếc tàu này rời bến.
Các quốc gia này chỉ cho phép chiếc tàu này đi vào xưởng sửa chữa thích hợp gần
nhất và, một khi đã loại trừ các nguyên nhân gây ra vi phạm, các quốc gia này
cho phép chiếc tàu này tiếp tục hành trình của mình ngay lập tức.
Khi
một chiếc tàu tự ý có mặt trong cảng hay ở một công trình cảng cuối cùng ngoài
khơi với điều kiện tuân thủ Mục 7, quốc gia có cảng có thể khởi tố về bất kỳ vi
phạm nào đôi với các luật và quy định mà mình đã thông qua theo đúng Công ước
hay theo đúng các qui tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng nhằm ngăn ngừa,
hạn chế và chế ngự ô nhiễm do tàu thuyền gây ra, nếu vụ vi phạm đã xảy ra trong
lãnh hải hay trong vùng đặc quyền kinh tế của mình.
Khi
một quốc gia có lý do xác đáng cho rằng chiếc tàu trong lúc đi qua lãnh hải của
mình đã vi phạm các luật và quy định mà mình đã thông qua theo đúng công ước
hay các nguyên tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế
và chế ngự ô nhiễm do các tàu thuyền gây ra thì quốc gia này có thể tiến hành
kiểm tra cụ thể chiếc tàu đã gây ra vụ vi phạm, nhưng không làm phương hại đến
việc áp dụng các quy định thích hợp của Mục 3 thuộc phần II, và, khi có các
chứng cứ để chứng minh được điều đó thì có thể khởi tố và đặc biệt có thể ra
lệnh giữ chiếc tàu theo đúng luật trong nước của mình, với điều kiện phải tuân
thủ theo quy định của Mục 7.
Khi
một quốc gia có lý do xác đáng để cho rằng một con tàu đi trong vùng đặc quyền
về kinh tế hay trong lãnh hải của mình đã vi phạm các quy tắc và quy phạm quốc
tế đó và đem lại hiệu lực cho chúng, quốc gia này có thể yêu cầu con tàu cung
cấp các thông tin liên quan đến lý lịch và cảng đăng ký của tàu, cảng cuối cùng
và cảng sắp ghé vào của tàu và các thông tin thích hợp cần thiết khác để xác
định có phải một vụ vi phạm đã xảy ra không.
Các
quốc gia thông qua các luật và qui định và thi hành các biện pháp cần thiết cho
các tàu thuyền mang cờ của mình đáp ứng các yêu cầu về thông tin đã nêu ở khoản
3.
Khi
một quốc gia có các lý do xác đáng để cho rằng một chiếc tàu đi trong đặc quyền
kinh tế hay trong lãnh hải của mình đã gây ra một vụ vi phạm trong vùng đặc
quyền kinh tế đã nêu ở khoản 3 dẫn đến những việc thải đổ nghiêm trọng vào môi
trường biển, đã gây ra hoặc có nguy cơ gây ra ở môi trường biển này một vụ ô nhiễm
đáng kể, quốc gia có thể tiến hành kiểm tra cụ thể con tàu để xác minh xem có
phải đã có sự vi phạm không, nếu như con tàu từ chối không đưa ra các thông
tin, hay nếu những thông tin được cung cấp mâu thuẫn rõ ràng với sự thật, và
nếu các hoàn cảnh của sự việc lý giải cho sự kiểm tra này.
Khi
có chứng cứ chứng tỏ rằng một chiếc tàu đi trong vùng đặc quyền về kinh tế hay
lãnh hải của một quốc gia đã gây ra trong vùng đặc quyền về kinh tế một vụ vi
phạm đã nêu ở khoản 3 dẫn đến những việc thải đổ gây hoặc có nguy cơ gây ra
những tổn thất nghiêm trọng cho vùng duyên hải hay cho các lợi ích có liên quan
của quốc gia ven biển hay cho tất cả tài nguyên của lãnh hải hay vùng đặc quyền
về kinh tế của mình, thì quốc gia đó, với điều kiện tuân thủ Mục 7 và nếu có các
chứng cứ chứng minh được điều trên, có thể tiến hành khởi tố, nhất là ra lệnh
giữ con tàu lại theo đúng luật trong nước của mình.
Mặc
dù đã có khoản 6, trong mọi trường hợp mà các thủ tục thích hợp đã được đặt ra
qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền, hoặc do thỏa thuận bằng mọi
cách khác để tôn trọng các nghĩa vụ liên quan đến việc nộp tiền bảo lãnh hay
việc ký gửi một khoản bảo đảm tài chính thích hợp khác, nếu như quốc gia ven
biển có bị các thủ tục đó ràng buộc, thì quốc gia đó cho phép chiếc tàu tiếp
tục cuộc hành trình của mình.
Các
khoản 3, 4, 5, 6 và 7 cũng được áp dụng vào các luật và quy định quốc gia được
thông qua theo điều 211, khoản 6.
Không
một qui định nào của phần này đụng đến các quyền của các quốc gia, theo pháp
luật quốc tế, kể cả tập quán lẫn theo công ước, định ra và tiến hành áp dụng ở
ngoài lãnh hải các biện pháp cân xứng với những thiệt hại mà các quốc gia này
đã thật sự phải chịu đựng hay bị đe dọa phải chịu nhằm bảo vệ vùng duyên hải
hay các lợi ích có liên quan của mình, kể cả việc đánh bắt hải sản, chống nạn ô
nhiễm hay đe dọa ô nhiễm do một tai nạn xảy ra trên biển hoặc do những hành vi
gắn liền với một tai nạn như vậy gây ra mà người ta có căn cứ để chờ đợi những
hậu quả tai hại.
Trong
điều này, thì “tai nạn trên biển” có nghĩa là một vụ đâm va, mắc cạn hay sự cố
hàng hải khác hoặc sự kiện xảy ra ở trên hay ở một con tàu gây ra những thiệt
hại về vật chất hay đe dọa sắp gây ra những thiệt hại về vật chất cho một chiếc
tàu hay hàng hóa của nó.
ĐIỀU 222. Việc áp dụng quy định liên
quan đến ô nhiễm có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay qua bầu khí quyển…
Trong
giới hạn của vùng trời thuộc chủ quyền của mình hay đối với các tàu thuyền mang
cờ của mình hoặc các tàu hay phương tiện bay được mình cho đăng ký, các quốc
gia bảo đảm việc áp dụng các luật, quy định mà mình đã thông qua theo đúng điều
212, khoản 1, theo đúng các quy định khác của Công ước, thông qua các luật và
qui định, thi hành các biện pháp khác để phát huy hiệu lực của các quy tắc và
quy phạm quốc tế có thể áp dụng, được xây dựng qua trung gian của các tổ chức
quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao nhằm ngăn ngừa, hạn chế
và chế ngự ô nhiễm môi trường có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay xuyên qua bầu
khí quyển, theo đúng tất cả các quy tắc và quy phạm quốc tế tương ứng liên quan
đến an toàn hàng không.
Khi
có một vụ kiện do áp dụng phần này, các quốc gia thi hành các biện pháp để tạo
thuận lợi cho việc nghe nhân chứng và thu nhận các chứng cứ do các nhà đương
cục của một quốc gia khác hay do tổ chức quốc tế có thẩm quyền cung cấp và tạo
điều kiện thuận lợi cho việc tham gia các phiên tòa của các đại biểu chính thức
của tổ chức này, của quốc gia mà tàu mang cờ hay của bất kỳ quốc gia nào bị ảnh
hưởng bởi nạn ô nhiễm nảy sinh từ mọi vi phạm. Các đại biểu chính thức tham gia
các phiên tòa này có quyền và nghĩa vụ do luật trong nước hay pháp luật quốc tế
trù định.
Chỉ
có những nhân viên chính thức có đủ tư cách, cũng như các tàu chiến hay phương
tiện bay quân sự hay các tàu thuyền hoặc các phương tiện bay khác có mang những
dấu hiệu bên ngoài chứng tỏ rõ ràng rằng chúng thuộc một cơ quan nhà nước và
được phép tiến hành công việc đó, có thể thi hành các việc cảnh sát đối với các
tàu thuyền nước ngoài theo phần này.
ĐIỀU 225. Nghĩa vụ đối với các quốc
gia tránh các hậu quả tai hại có thể xảy ra trong khi thi hành các quyền cảnh
sát của họ
Khi
thi hành quyền cảnh sát của mình đối với tàu thuyền nước ngoài theo Công ước,
các quốc gia không được gây ra nguy hiểm cho an toàn hàng hải, không được gây
ra một rủi ro nào cho một con tàu hay dẫn con tàu đó về một cảng hoặc khu neo
nguy hiểm, cũng không gây ra rủi ro quá đáng cho môi trường biển.
a)
Các quốc gia không được giữ một chiếc tàu nước ngoài lâu quá mức cần thiết để
tiến hành các cuộc điều tra đã được trù định ở các Điều 216, 218 và 220. Việc
kiểm tra cụ thể một chiếc tàu nước ngoài phải được giới hạn ở việc xem xét các
chứng từ, sổ đăng ký hay các tài liệu khác mà chiếc tàu có nhiệm vụ phải mang
theo, theo các quy tắc và quy phạm quốc tế được chấp nhận chung, hay mọi tài
liệu tương tự; chỉ có thể tiến hành kiểm tra cụ thể chiếc tàu tỉ mỉ hơn tiếp
theo sau cuộc xem xét này và với điều duy nhất là:
Có
các lý do xác đáng để cho rằng tình trạng con tàu hay trang thiết bị của nó về
cơ bản không phù hợp với những ghi chú ở trên các tài liệu.
Nội
dung của các tài liệu này không đủ để xác minh và thẩm tra vụ vi phạm đã được
suy đoán.
Con
tàu không mang theo các chứng từ và tài liệu có giá trị.
b)
Khi qua cuộc điều tra mà thấy rằng đã có sự vi phạm các luật và qui định có thể
áp dụng hay các quy tắc và quy phạm quốc tế nhằm bảo vệ và gìn giữ môi trường
biển, sau khi con tàu đã hoàn thành các thể thức hợp lý, như việc ký gửi một
khoản tiền bảo lãnh hoặc một khoản bảo đảm tài chính khác, thì cần chấm dứt
ngay việc cầm giữ.
c)
Không làm phương hại đến các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng về mặt
khả năng đi biển của tàu thuyền, nếu việc chấm dứt cầm giữ một con tàu sẽ có
nguy cơ dẫn tới thiệt hại do khinh suất đối với môi trường biển, thì con tàu
nói trên có thể không được phép tiếp tục cuộc hành trình, hoặc được phép nhưng
với điều kiện là phải đi đến xưởng sửa chữa thích hợp gần nhất. Trong trường hợp
mà việc chấm dứt cầm giữ con tàu bị từ chối hay bị đặt các điều kiện, thì quốc
gia mà tàu mang cờ phải được thông báo ngay về việc này và có thể yêu cầu chấm
dứt việc cầm giữ này theo đúng phần XV.
2.
Các quốc gia hợp tác để soạn thảo các thủ tục nhằm tránh khỏi việc kiểm tra cụ
thể thừa đối với tàu thuyền trên biển.
Khi
thi hành các quyền và làm tròn các nghĩa vụ của mình theo phần này, các quốc gia
không được bắt các tàu thuyền của một quốc gia nào khác phải chịu một sự phân
biệt đối xử về mặt pháp lý hay về mặt thực tế.
Khi
một quốc gia tiến hành các cuộc truy tố nhằm trừng phạt một vi phạm do một
chiếc tàu nước ngoài gây ra ở bên ngoài lãnh hải của quốc gia trên đối với các
luật và quy định có thể áp dụng hay các quy tắc và qui phạm quốc tế nhằm ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do tàu thuyền gây ra, thì các cuộc truy tố này
phải bị đình chỉ ngay sau khi quốc gia mà tàu mang cờ đã tự mình tiến hành các
cuộc truy tố đối với nội dung chính của vụ vi phạm nói trên, trong vòng 6 tháng
tiếp theo việc khởi tố đầu tiên, trừ khi việc khởi tố này nhằm vào một trường
hợp đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho quốc gia ven biển, hay quốc gia mà tàu
mang cờ nói trên đã nhiều lần không làm tròn nghĩa vụ của mình để bảo đảm áp
dụng thực sự các quy tắc và các quy phạm quốc tế hiện hành đối với các vụ vi
phạm do tàu thuyền của mình gây ra. Quốc gia mà tàu mang cờ khi đã yêu cầu đình
chỉ các cuộc truy tố theo đúng điều này trao lại trong thời gian thích hợp cho
quốc gia đầu tiên một hồ sơ đầy đủ về sự việc và các văn bản gốc của vụ án. Khi
các tòa án của quốc gia mà tàu mang cờ đã tuyên án thì các cuộc truy tố phải
chấm dứt sau khi đã thanh toán xong các chi phí về thủ tục, thì bất kỳ khoản
tiền bảo lãnh hay khoản bảo đảm tài chính nào khác được ký gửi khi tiến hành
các cuộc truy tố này đều phải được quốc gia ven biển trả lại.
Không
thể tiến hành các cuộc truy tố đối với tàu thuyền nước ngoài sau thời hạn 3 năm
kể từ ngày vi phạm, và không quốc gia nào có thể tiến hành rồi, với điều kiện
phải tuân thủ khoản 1.
Điều
này không đụng chạm đến quyền của quốc gia mà tàu mang cờ sử dụng mọi biện
pháp, kể cả quyền tiến hành các cuộc truy tố, theo đúng luật trong nước của
mình, không phụ thuộc vào các cuộc truy tố do một quốc gia khác tiến hành
trước.
Không
một quy định nào của Công ước đụng chạm đến quyền khởi tố về trách nhiệm dân sự
trong trường hợp xảy ra những thiệt hại hay tổn thất do ô nhiễm môi trường
biển.
Đối
với trường hợp vi phạm các luật và quy định quốc gia hay các quy tắc và quy
phạm quốc tế có thể áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi
trường biển do các tàu thuyền nước ngoài gây ra ở ngoài lãnh hải thì chỉ có thể
áp dụng hình thức phạt tiền.
Đối
với tình trạng vi phạm các luật và quy định quốc gia hay các quy tắc và quy
phạm quốc tế có thể áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi
trường biển, do một tàu nước ngoài gây ra ở trong lãnh hải, thì chỉ có thể áp
dụng hình thức phạt tiền, trừ trường hợp đó là một hành động cố ý và gây ra ô
nhiễm nghiêm trọng.
Trong
tiến trình các cuôc truy tố đã được tiến hành nhằm trừng phạt các vụ vi phạm
thuộc lọai này do một tàu nước ngoài phạm phải mà chiếc tàu có thể phải chịu
đụng những hình thức xử phạt, các quyền được thừa nhận của bị cáo vẫn được tôn
trọng.
Các
quốc gia thông báo không chậm trễ cho các quốc gia mà tàu mang cờ và cho mọi
quốc gia hữu quan khác tất cả các biện pháp được sử dụng với tàu thuyền nước
ngoài trong việc áp dụng Mục 6, và giao cho quốc gia mà tàu mang cờ tất cả các
báo cáo chính thức có liên quan đến biện pháp này. Tuy nhiên, trong trường hợp
các vụ vi phạm xảy ra trong lãnh hải, quốc gia ven biển chỉ thực hiện các nghĩa
vụ này đối với các biện pháp đuợc dùng trong khuôn khổ các cuộc truy tố. Các
nhân viên ngọai giao hay các viên chức lãnh sự, và trong trường hợp có thể
được, nhà đương cục về biển của quốc gia mà tàu mang cờ được thông báo ngay về
mọi biện pháp thuộc loại này.
Các
quốc gia chịu trách nhiệm về những thiệt hại và tổn thất có thể qui cho họ do
các biện pháp đã được sử dụng trong việc áp dụng Mục 6, khi các biện pháp này
là bất hợp pháp hay vượt quá mức cần thiết hợp lý, có xét đến các thông tin sẵn
có.
Không
một quy định nào của Mục 5, 7 và 6 đụng chạm đến chế độ pháp lý của các eo dùng
cho hàng hải quốc tế. Tuy nhiên, nếu một chiếc tàu nước ngoài không phải là các
tàu thuyền đã nêu ở Mục 10 vi phạm các luật và quy định đã nêu ở Điều 42 khoản
1, điểm a, và b, gây ra hay đe dọa gây ra các thiệt hại nghiêm trọng cho môi
trường biển của các eo biển, thì quốc gia có eo biển có thể thi hành các biện
pháp cảnh sát thích hợp, trong khi vẫn tôn trọng mutatis mutandis (với những
sửa đổi cần thiết về chi tiết) mục này.
Các
quốc gia ven biển có quyền thông quan và tiến hành áp dụng các luật và quy định
không phân biệt đối xử nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường
biển do tàu thuyền gây ra trong khu vực bị băng bao phủ và nằm trong ranh giới
của vùng đặc quyền về kinh tế, khi các điều kiện khí hậu đặc biệt khắc nghiệt
và việc các khu vực bao phủ phần lớn thời gian trong một năm gây trở ngại cho
hàng hải hoặc hoặc làm cho việc hàng hải trở nên đặc biệt nguy hiểm, và nạn ô
nhiễm môi trường biển có nguy cơ gây tác hại nghiêm trọng đến sự cân bằng sinh
thái hay làm rối lọan sự cân bằng này một cách không thể hồi phục được. Các
luật và quy định này phải lưu ý thích đáng đến hàng hải cũng như đến việc bảo
vệ và gìn giữ môi trường biển trên cơ sở của các dữ kiện khoa học chắc chắn
nhất mà người ta có thể có được.
Các
quốc gia có trách nhiệm quan tâm đến việc hoàn thành các nghĩa vụ quốc tế của
mình về vấn đề bảo vệ và gìn giữ môi trường biển. Các quốc gia có trách nhiệm
theo đúng luật quốc tế.
Quốc
gia quan tâm làm sao cho luật trong nước của mình có được những hình thức tố
tụng cho phép thu được sự đền bù nhanh chóng và thích đáng, hay sự bồi thường
khác đối với những thiệt hại nảy sinh từ ô nhiễm môi trường do tự nhiên nhân,
hay pháp nhân thuộc quyền tài phán của mình gây ra.
Để
bảo đảm một sự đền bù nhanh chóng và thích đáng mọi thiệt hại nảy sinh từ ô nhiễm
môi trường biển, các quốc gia cần hợp tác để bảo đảm áp dụng và phát triển luật
quốc tế về trách nhiệm có liên quan đến việc đánh giá và bồi thường các thiệt
hại và việc giải quyết các tranh chấp về mặt này, cũng như, nếu có thể, đến
việc soạn thảo các tranh chấp và thủ tục để thanh toán tiền bồi thường thích
đáng, chẳng hạn trù định một khoản bảo hiểm bắt buộc các quỹ bồi thường.
Các
quy định của Công ước liên quan đến việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển
không áp dụng đối với các tàu chiến hay tàu thuyền bổ trợ, cũng như đối với các
tàu thuyền khác hay đối với các phương tiện bay thuộc một quốc gia hay do quốc
gia này, khai thác, khi trong thời gian xem xét, quốc gia này chỉ sử dụng chúng
vào những mục đích công vụ không có tính chất thương mại. Tuy nhiên, mỗi quốc
gia thi hành các biện pháp thích hợp không ảnh hưởng đến các hoạt động hay khả
năng hoạt động của tàu thuyền hay phương tiện bay thuộc mình hay do mình khai
thác, sao cho các tàu thuyền hay phương tiện bay này hành động một cách thích
hợp với Công ước trong chừng mực có thể làm được.
Phần
này không ảnh hưởng đến các nghĩa vụ riêng thuộc bổn phận của các quốc gia theo
các công ước hay điều ước đặc thù được ký kết trước đây về mặt bảo vệ và gìn
giữ môi trường biển, cũng không ảnh hưởng đến các điều ước có thể được ký kết
để áp dụng các nguyên tắc chung đã được nêu trong Công ước.
Các
quốc gia phải làm tròn các nghĩa vụ riêng thuộc phận sự của mình có liên quan
đến việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển theo Công ước đặc biệt, một cách
thích hợp với các nguyên tắc và mục tiêu chung của Công ước.
Tất
cả các quốc gia, bất kể vị trí địa lý thế nào, cũng như các tổ chức quốc tế có
thẩm quyền, đều có quyền tiến hành các cuộc nghiên cứu khoa học biển, với điều
kiện tôn trọng các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác như đã đuợc quy định
trong Công uớc.
Các
quốc gia và tổ chức quốc tế có thẩm quyền khuyến khích và tạo điều kiện thuận
lợi cho việc triển khai và chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học biển theo đúng
Công uớc.
Công
tác nghiên cứu khoa học biển phải phục tùng các nguyên tắc sau đây: Công tác
này đuợc tiến hành nhằm vào những mục đích hoàn toàn hòa bình;
Công
tác này đuợc tiến hành bằng cách dùng các phương pháp và phương tiện khoa học
thích hợp phù hợp với Công uớc;
Công
tác này không cản trở một cách vô lý những việc sử dụng biển hợp pháp khác phù
hợp với Công uớc và nó phải đuợc quan tâm đến trong các việc sử dụng này.
Công
tác này đuợc tiến hành theo đúng mọi quy định tương ứng đuợc thông qua để thi
hành Cống uớc, kể cả các quy định nhằm bảo vệ và giữ gìn môi truờng biển.
ĐIỀU 241. Việc không thừa nhận công
tác nghiên cứu khoa học biển với tư cách là cơ sở pháp lý cho một yêu sách nào
đó
Công
tác nghiên cứu khoa học biển không tạo ra co sở pháp lý cho một yêu sách nào
đối với một bộ phận nào đó của môi truờng biển hay của các tài nguyên của nó.
Chấp
hành nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và quyền tài phán, và trên cơ sở của nguyên
tắc có đi có lại về lợi ích, các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền
tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế về mặt nghiên cứu khoa học
biển vì mục đích hòa bình.
Trong
bối cảnh này và không làm phương hại đến các quyền và nghĩa vụ các quốc gia
theo Công uớc, một quốc gia khi hành động theo phần này, cần tùy theo tình hình
mà dành cho các quốc gia khác các khả năng hợp lý để nhận đuợc của mình
hay với sự hợp tác của mình các thông tin cần thiết để ngăn ngừa và chế ngự các
tác hại đối với sức khỏe và đối với sự an toàn của con nguời và môi truờng
biển.
Các
quốc gia, tổ chức quốc tế có thẩm quyền hợp tác với nhau qua việc ký kết các
hiệp định hai bên và nhiều bên để tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc chỉ
đạo công tác nghiên cứu khoa học biển trong môi truờng biển và kết hợp những nỗ
lực của các nhà nghiên cứu khoa học tiền hành nghiên cứu bản chất của các hiện
tuợng, các quá trình xảy ra trong môi truờng biển và các tác động qua lại của
chúng.
Bằng
các con đuờng thích hợp và theo đúng Công uớc, các quốc gia và tổ chức quốc tế
có thẩm quyền công bố, phổ biến các thông tin liên quan đến các chương trình
chủ yếu đuợc dự tính và các mục tiêu của chúng, cũng như những kiến thức đuợc
rút ra từ công tác nghiên cứu khoa học biển.
Vì
mục đích này, các quốc gia, tự mình hay hợp tác với các quốc gia khác và với
các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, tích cực tạo điều kiện thuận lợi cho việc
trao đổi các dữ kiện, thông tin khoa học và cho việc chuyển giao các kiến thức
rút ra từ công tác nghiên cứu khoa học biển, đặc biệt là cho các quốc gia đang
phát triển cũng như cho việc tăng cuờng khả năng của chính các quốc gia này để
tiến hành các công tác nghiên cứu khoa học biển, nhất là bằng các chuong trình
giúp cho các nhân viên kỹ thuật và khoa học của họ đuợc huởng một sự giáo dục
và đào tạo thích hợp.
Mục 3. SỰ CHỈ ĐẠO CÔNG TÁC NGHIÊN
CỨU KHOA HỌC BIỂN VÀ HOẠT ĐỘNG NHẰM TẠO ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI CHO CÔNG VIỆC NÀY
Trong
việc thực hiện chủ quyền của mình, các quốc gia ven biển có đặc quyền quy định,
cho phép và tiến hành các công tác nghiên cứu khoa học biển ở trong lãnh hải
chỉ đuợc tiến hành vợi sự thảo thuận rõ ràng của quốc gia ven biển và trong các
điều kiện do quốc gia này ấn định.
Trong
việc thi hành quyền tài phán của mình, các quốc gia ven biển có quyền quy định,
cho phép và tiến hành các công tác nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc
quyền về kinh tế và trên thềm lục địa của mình theo đúng các quy định tương ứng
của Công uớc.
Công
tác nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế và trên thềm lục
địa đuợc tiến hành với sự thỏa thuận của quốc gia ven biển.
Trong
những truờng hợp bình thuờng, các quốc gia ven biển thỏa thuận cho thực hiện
các dự án nghiên cứu khoa học biển mà các quốc gia khác hay các tổ chức quốc tế
có thẩm quyền dự định tiến hành trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm
lục địa của mình theo đúng Công uớc, nhằm vào những mục đích hoàn toàn hòa bình
và để tăng thêm kiến thức khoa học về môi truờng biển, vì lợi ích của toàn thể
loài nguời. Vì mục đích này, các quốc gia ven biển thông qua các quy tắc và thủ
tục bảo đảm sẽ cho phép trong những thời hạn hợp lý và sẽ không khuớc từ một
cách phi lý.
Trong
việc áp dụng khoản 3, các truờng hợp có thể đuợc coi là bình thuờng ngay cả khi
giữa quốc gia ven biển và quốc gia đề nghị thực hiện công trình nghiên cứu
không có quan hệ ngoại giao.
Tuy
nhiên, quốc gia ven biển có thể tùy ý mình không cho phép thực hiện một dự án
nghiên cứu khoa học biển do một quốc gia khác hay một tổ chức quốc tế có thẩm
quyền đề nghị tiến hành ở vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa của
mình trong các truờng hợp sau:
a.
Nếu dự án có ảnh huởng trực tiếp đến việc thăm dò và Khai thác các tài nguyên
thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật;
b.
Nếu dự án có dự kiến công việc khoan trong thềm lục địa, sử dụng chất nổ hay
đưa chất độc hại vào trong môi truờng biển;
c.
Nếu dự án dự kiến việc xây dựng, khai thác hay sử dụng các đảo nhân tạo, thiết
bị và công trình đã nêu ở các Điều 60 và 80;
d.
Nếu những thông tin đuợc thông báo về tình chất và mục tiêu của dự án theo Điều
248 không đúng, hoặc nếu quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền, tác giả
của dự án không làm tròn những nghĩa vụ đã cam kết với quốc gia ven biển hữu
quan trong một dự án nghiên cứu truớc đây.
Mặc
dầu khoản 5 đa quy định như thế, các quốc gia ven biển cũng không thể thi hành
quyền tùy ý khuớc từ theo điểm a của khoản này, đối với các dự án nghiên cứu
khoa học biển đuợc tiến hành theo đúng phần này trên thềm lục địa ở cách đuờng
cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải quá 200 hải lý, ngoài các khu vực đặc
biệt mà bất kỳ lúc nào các quốc gia ven biển cung có thể chính thức chỉ định
làm nơi hoặc sẽ làm nơi để tiến hành công việc khai thác hay thăm dò đi vào chi
tiết trong một thời hạn hợp lý. Các quốc gia ven biển thông báo trong những
thời hạn hợp lý các khu vực mà mình chỉ định cũng như tất cả những thay đổi có
liên quan, nhung không có trách nhiệm cung cấp các chi tiết về các công việc
trên các khu vực này.
Khoản
6 đuợc áp dụng không phương hại đến các quyền ở thềm lục địa đuợc thừa nhận cho
các quốc gia ven biển ở Điều 77.
Các
công tác nghiên cứu khoa học biển nói ở điều này không đuợc gây trở ngại một
cách phi lý cho các hoạt động do quốc gia ven biển tiến hành trong việc thi
hành quyền thuộc chủ quyền và quyền tài phán mà Công uớc đã trù định.
ĐIỀU 247. Các dự dán nghiên cứu do
các tổ chức quốc tế thực hiện hay duới sự bảo trợ của các tổ chức này
Một
quốc gia ven biển là hội viên của một tổ chức quốc tế, hay bị ràng buộc với tổ
chức quốc tế đó qua một hiệp định tay đôi và ở vùng đặc quyền về kinh tế hay
thềm lục địa của quốc gia đó, tổ chức quốc tế nói trên muốn trực tiếp tiến
hành, hay cho tiến hành duới sự bảo trợ của mình một dự án nghiên cứu khoa học
biển, thì nếu như quốc gia đó đã chuẩn y dự án chi tiết khi tổ chức quốc tế
quyết định tiến hành dự án, hay là quốc gia đó đã sẵn sàng tham gia dự án
nghiên cứu khoa học biển và không có ý kiến phản đối nào sau thời gian 4 tháng,
kể từ khi tổ chức đó thông báo cho quốc gia về dự án nói trên, thì quốc gia đó
coi như đa cho phép thực hiện dự án đúng theo các quy định về tiêu chuẩn kỹ
thuật đã thỏa thuận.
Các
quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền muốn tiền hành các công tác
nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa
của một quốc gia ven biển, phải cung cấp cho quốc gia này, chậm nhất là không
quá 6 tháng truớc thời gian dự kiến để bắt đầu dự án nghiên cứu khoa học biển,
một bản mô tả đầy đủ, chỉ rõ:
Tính
chất và các mục tiêu của dự án
Phương
pháp và các phương tiện sẽ đuợc sử dụng; có nói rõ tên, trọng luợng, kiểu và
loại tàu thuyền, và một bản mô tả các dụng cụ khoa học;
Các
khu vực địa lý cụ thể mà dự án sẽ thực hiện;
Các
thời hạn dự định cho chuyện đến đầu tiên và chuyện ra đi cuối cùng của các tàu
thuyền nghiên cứu, hay thời hạn dự định cho việc triển khai và rút thiết bị, và
thời hạn dự định cho việc thu hồi dụng cụ nghiên cứu, tùy theo truờng hợp;
Tên
cơ quan bảo trợ cho dự án nghiên cứu, tên của giám đốc cơ quan này và của nguời
chịu trách nhiệm dự án;
Mức
độ mà quốc gia ven biển có thể tham gia vào dự án hay đuợc cử đại diện
1.
Các quốc gia và tổ chức quốc tế có thẩm quyền thực hiện công tác nghiên cứu
khoa học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa của một
quốc gia ven biển, cần phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
a.
Bảo đảm cho quốc gia ven biển, nếu quốc gia này muốn, quyền tham gia vào dự án
nghiên cứu khoa học biển hay đặc biệt là khi có thể đuợc, cử đại diện lên trên
các tàu thuyền và các xuồng nghiên cứu khác hay lên trên các thiết bị nghiên
cứu khoa học, nhung không phải thanh toán một khoản tiền thù lao nào cho những
nhà nghiên cứu của quốc gia này, và quốc gia này cũng không bị buộc phải đóng
góp vào các kinh phí của dự án;
b.
Một khi công việc nghiên cứu đã kết thúc, phải cung cấp càng sớm càng tốt, theo
yêu cầu của quốc gia ven biển, những báo cáo sơ bộ, cũng như các kết quả và kết
luận cuối cùng;
c.
Cam kết cho quốc gia ven biển, theo yêu cầu của họ, tiếp xúc với tất cả các mẫu
vật và dữ kiện thu đuợc trong khuôn khổ của dự án nghiên cứu khoa học biển,
cũng như cam kết cung cấp cho quốc gia này những dữ kiện có thể sao lại và các
mẫu vật có thể đuợc phân chia mà không làm giảm giá trị khoa học của chúng;
d.
Cung cấp cho quốc gia ven biển, theo yêu cầu của họ, một bản đánh giá về các dữ
kiện, các mẫu vật và các kết quả nghiên cứu đó, hay giúp đỡ cho quốc gia này
tiến hành đánh giá hoặc giải thích chung;
e.
Với điều kiện phải thực hiện quy định ở khoản 2, bảo đảm cho các kết quả của
công tác nghiên cứu đuợc sẵn sàng đưa ra sử dụng càng sớm càng tốt trên truờng
quốc tế qua các con đuờng quốc gia hay quốc tế thích hợp.
f.
Thông báo ngay cho quốc gia ven biển bất kỳ sửa đổi quan trọng nào đối với dự
án nghiên cứu;
g.
Một khi công tác nghiên cứu đã kết thúc, phải tháo gỡ các thiết bị hay công cụ
nghiên cứu khoa học, trừ khi có sự thỏa thuận khác.
2.
Điều này đuợc áp dụng không làm phương hại đến các điều kiện do các luật và quy
định của quốc gia ven biển ấn định về việc thi hành quyền tùy ý quyết định đồng
ý hay không đồng ý theo Điều 246, khoản 5, kể cả việc bắt buộc phải đuợc sự
đồng ý truớc của nuớc đó mới đuợc phổ biến trên phạm vi quốc tế các kết quả
nghiên cứu thuộc một dự án có liên quan trực tiếp đến việc thăm dò và khai thác
các tài nguyên thiên nhiên.
Các
thông tin liên lạc liên quan đến các dự án nghiên cứu khoa học biển phải đuợc
tiến hành qua các con đuờng chính thức thích hợp, trừ khi có sự thỏa thuận
khác.
Các
quốc qia hay các tổ chức quốc tế có thẩm quyền có thể thực hiện một dự án
nghiên cứu khoa học sau một thời hạn 6 tháng kể từ ngày các thông tin cần thiết
theo Điều 248 đã đuợc thông báo cho quốc gia ven biển, trừ khi trong một thời
hạn 4 tháng kể từ lúc nhận đuợc các thông tin này, quốc gia ven biển đã báo cho
quốc gia hay tổ chức đề nghị thực hiện các công tác nghiên cứu biết:
Quốc
gia ven biển đã khuớc từ theo Điều 246; hay
Các
thông tin do quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền này cung cấp về tính
chất hay mục tiêu của dự án không phù hợp với sự thực hiển nhiên; hay
Quốc
gia ven biển cần có một thông báo bổ sung về những thông tin hoặc những điều
kiện đã nêu ở các Điều 248 và 249; hay
Các
nghĩa vụ nẩy sinh từ các điều kiện đã đuợc quy định ở Điều 249 cho một dự án
nghiên cứu khoa học biển do quốc gia hay tổ chức quốc tế này thực hiện truớc
đây đã không đuợc làm tròn.
1.
Quốc gia ven biển có quyền yêu cầu đinh chỉ các công việc nghiên cứu khoa học
biển đang tiến hành trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa của
mình:
Nếu
công việc này không đuợc tiến hành theo đúng các thông tin đã đuợc thông báo
theo Điều 248 mà quốc gia ven biển đã dựa vào để đồng ý cho phép; hay
Nếu
quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền khi tiến hành công việc này không
tôn trọng các quy định của Điều 249 liên quan đến các quyền của quốc gia ven
biển đối với dự án nghiên cứu khoa học biển.
2.
Quốc gia ven biển có quyền yêu cầu chấm dứt mọi công việc nghiên cứu khoa học
biển trong tất cả các truờng hợp mà việc không tuân thủ Điều 248 có nghĩa là
làm thay đổi lớn dự án các công trình nghiên cứu.
3.
Quốc gia ven biển cũng có thể yêu cầu chấm dứt các công việc nghiên cứu khoa
học biển, nếu như, trong một thời gian hợp lý, một điểm bất kỳ trong những tình
hình nêu ở khoản 1 không đuợc sửa chữa.
4.
Sau khi nhận đuợc thông báo về quyết định của quốc gia ven biển đòi đinh chỉ
hay chấm dứt công việc nghiên cứu khoa học biển, các quốc gia hay tổ chức quốc
tế có thẩm quyền đã đuợc phép tiến hành các công việc này phải chấm dứt những công
việc thuộc đối tuợng của thông báo.
5.
Lệnh đinh chỉ đuợc đưa ra theo khoản 1 phải do quốc gia ven biển thu hồi, và dự
án khoa học nghiên cứu biển có thể đuợc tiếp tục ngay khi quốc gia hay tổ chức
quốc tế có thẩm quyền thực hiện các công tác nghiên cứu khoa học biển này đã
tuân theo các điều kiện quy định ở các Điều 248 và 249.
ĐIỀU 254. Các quyền của các quốc gia
láng giềng không có biển và các quốc gia láng giềng có hoàn cảnh địa lý bất lợi
1.
Các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền khi đã trao cho một quốc gia
ven biển một dự án nghiên cứu khoa học biển nêu ở Điều 246, khoản 3, cần thông
báo dự án này cho các quốc gia láng giềng không có biển và các quốc gia láng
giềng có hoàn cảnh địa lý bất lợi, và báo cho quốc gia ven biển việc gửi các
thông báo này.
2.
Một khi quốc gia ven biển có liên quan đã chấp thuận dự án, theo đúng điều 246
và các quy định thích hợp khác của Công uớc, các quốc gia và các tổ chức quốc
tế có thẩm quyền khi thực hiện dự án cần cung cấp cho các quốc gia láng giềng
không có biển và các quốc gia láng giềng có hoàn cảnh địa lý bất lợi các thông
tin đã đuợc quy định rõ ở các Điều 248 và 249, khoản 1, điểm f, theo yêu cầu
của họ và tùy theo sự cần thiết.
3.
Các quốc gia không có biển và các quốc gia bất lợi về mặt địa lý đã nói ở trên,
theo yêu cầu của mình, có khả năng đuợc tham gia trong chừng mực có thể vào dự
án nghiên cứu khoa học hiển đã đuợc dự tính qua các chuyên gia có trình độ do
mình chỉ định và đuợc quốc gia ven biển chấp nhận, theo những điều kiện mà quốc
gia ven biển và quốc qia hay các tổ chức quốc tế có thẩm quyền tiến hành công
tác nghiên cứu khoa học biển đã thảo luận để thực hiện dự án, phù hợp với Công
uớc.
4.
Các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền đã nêu ở khoản 1 cung cấp cho
các quốc gia không có biển và các quốc gia bất lợi về mặt địa lý nói trên, theo
yêu cầu của họ, những thông tin và sự giúp đỡ đã đuợc quy định rõ ở Điều 249,
khoản 1, điểm d, với điều kiẹn phải tuân thủ khoản 2 của chính điều này.
ĐIỀU 255. Những biện pháp nhằm tạo
điều kiện dễ dàng cho việc nghiên cứu khoa học biển và giúp đỡ cho các tàu
thuyền nghiên cứu
Các
quốc gia cố gắng thông qua các quy tắc, quy định và thủ tục hợp lý nhằm khuyến
khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu khoa học biển đuợc tiến
hành theo đúng Công uớc ở ngoài lãnh hải, và nếu cần, thì tạo điều kiện cho các
tàu thuyền nghiên cứu khoa học biển chấp hành các quy định thích hợp của phần
này vào ra cảng của các quốc gia nói trên đuợc dễ dàng, với điều kiện là phải
tuân thủ theo các luật và quy định của các quốc gia này, và phải khuyến khích
sự giúp đỡ cho các tàu thuyền này.
Tất
cả các quốc gia, bất kể hoàn cảnh địa lý của mình như thế nào, cũng như các tổ
chức quốc tế có thẩm quyền, đều có quyền thực hiện việc nghiên cứu khoa học
biển trong Vùng, theo đúng phần XI.
ĐIỀU 257. Việc nghiên cứu khoa học
biển trong phần nuớc nằm ngoài ranh giới của vùng đặc quyền về kinh tế
Tất
cả các quốc gia, bất kể hoàn cảnh địa lý của mình như thế nào, cũng nhu các tổ
chức quốc tế có thẩm quyền, đều có quyền thực hiện việc nghiên cứu khoa học
biển theo đúng Công uớc trong phần nuớc nằm ngoài ranh giới của vùng đặc quyền
về kinh tế.
Việc
đặt và sử dụng các thiết bị hay dụng cụ nghiên cứu khoa học thuộc bất kỳ kiểu
nào ở một vùng nào đó của môi truờng biển phải phụ thuộc vào cùng các điều kiện
như đã đuợc Công uớc trù định cho việc tiến hành nghiên cứu khoa học biển ở
trong khu vực kể trên.
Các
thiết bị hay dụng cụ đuợc nêu trong mục này, không có quy chế của các đảo.
Chúng không có lãnh hải riêng, và sự có mặt của chúng không có ảnh huởng đến
vấn đề hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng độc quyền về kinh tế hay thềm lục
địa.
Các
khu vực an toàn có một chiều rộng hợp lý không quá 500m có thể đuợc lập ra xung
quanh các thiết bị nghiên cứu khoa học, theo đúng các quy định tuong ứng của
Công uớc. Tất cả các quốc gia phải chú ý bảo đảm cho tàu thuyền của mình tôn
trọng các khu vực an toàn này.
Việc
đặt và sử dụng các thiết bị hay dụng cụ nghiên cứu khoa học thuộc bất kỳ kiểu
nào không đuợc gây cản trở cho việc hàng hải theo các con đuờng quốc tế thuờng
dùng.
Các
thiết bị hay dụng cụ đã nêu trong mục này phải có các dấu hiệu nhận dạng chỉ rõ
quốc gia đăng ký hay tổ chức quốc tế mà chúng phụ thuộc vào, cũng như, phải có
các phuong tiện báo hiệu thích hợp đã đuợc chấp thuận trên truờng quốc tế nhằm
bảo đảm an toàn hàng hải và hàng không, có tính đến các quy tắc và quy phạm do
các tổ chức quốc tế có thẩm quyền đặt ra.
Bổn
phận của các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền là phải quan tâm,
sao cho việc nghiên cứu khoa học biển, bất kể chúng do hoặc nguời thay mặt cho
họ thực hiện, đều đuợc tiến hành theo đúng Công uớc.
Các
quốc gia và tổ chức quốc tế có thẩm quyền chịu trách nhiệm về những biện pháp
mà mình thi hành, vi phạm Công uớc, liên quan đến các công việc nghiên cứu khoa
học biển do các quốc gia khác, các tự nhiên nhân hay pháp nhân có quốc tịch của
các quốc gia khác đó hoặc do các tổ chức quốc tế có thẩm quyền tiến hành, và
phải đền bù các tồn thất do các biện pháp đó gây ra.
Các
quốc gia và tổ chức có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm, theo Điều 235, về các
tổn thất gây ra bởi nạn ô nhiễm môi truờng biển xuất phát từ việc nghiên cứu khoa
học biển do mình thực hiện hay do nguời thay mặt cho mình thực hiện.
Các
tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các quy định của Công uớc
về việc nghiên cứu khoa học biển đuợc giải quyết theo đúng các Mục 2 và 3 của
Phần XV
Chừng
nào một tranh chấp chưa đuợc giải quyết theo đúng các Mục 2 và 3 của Phần XV,
thì quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền đuợc phép thực hiện dự án nghiên
cứu khoa học biển, không cho phép thực hiện hay tiếp tục việc nghiên cứu khoa
học nếu không có sự đồng ý rõ ràng của các quốc gia ven biển hữu quan.
1.
Các quốc gia hợp tác trực tiếp, hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền, trong phạm vi khả năng của mình, nhằm tích cực tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển và chuyển giao khoa học và kỹ thuật biển theo các thể thức và
điều kiện công bằng và hợp lý.
2.
Các quốc gia tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển khả năng trong lĩnh vực
khoa học và kỹ thuật biển của các quốc gia có nhu cầu và yêu cầu được hưởng một
sự giúp đỡ về kỹ thuật trong lĩnh vực này, nhất là các quốc gia đang phát
triển, kể cả quốc gia không có biển hay bất lợi về mặt địa lý, trong việc thăm
dò, khai thác, bảo vệ và quản lý các tài nguyên của biển, trong việc bảo vệ và
giữ gìn môi trường biển, trong việc nghiên cứu khoa học biển và các hoạt động
khác nhằm tiến hành trong môi trường biển phù hợp với Công ước, nhằm thúc đẩy
tiển bộ xã hội và kinh tế của các quốc gia đang phát triển.
3.
Các quốc gia cố gắng giúp tạo ra các điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi cho
việc chuyển giao kỹ thuật biển, trên cơ sở công bằng, có lợi cho tất cả các bên
hữu quan.
Để
tạo điều kiện cho sự hợp tác theo Điều 266, các quốc gia cần phải tính đến tất
cả các lợi ích chính đáng, cũng như các quyền và nghĩa vụ của người nắm giữ,
những người cung cấp và những người được nhận các kỹ thuật biển.
Các
quốc gia trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, cần phải
xúc tiến:
Việc
nắm, đánh giá và phổ biến các kiến thức trong lĩnh vực kỹ thuật biển; các quốc
gia này tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp xúc với các thông tin và các dữ
liệu tương ứng;
Việc
phát triển các kỹ thuật biển thích hợp;
Việc
phát triển hạ tầng cơ sở về kỹ thuật cần thiết để làm dễ dàng cho việc chuyển
giao các kỹ thuật biển;
Việc
khai thác nguồn nhân lực qua việc đào tạo và giảng dạy cho các công dân của các
quốc gia và các nước đang phát triển, đặc biệt là những nước kém phát triển
nhất trong các quốc gia đang phát triển đó;
Việc
hợp tác quốc tế ở mọi mức độ, nhất là việc hợp tác theo khu vực, phân khu vực
và tay đôi.
Để
đạt đến các mục tiêu cơ bản đã nêu ở Điều 268, ngoài các biện pháp khác, các
quốc gia tìm cách, trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền,
để:
Lập
ra các chương trình hợp tác kỹ thuật nhằm chuyển giao thực sự các kỹ thuật biển
thuộc đủ mọi loại cho các quốc gia có nhu cầu và yêu cầu hưởng một sự giúp đỡ
về mặt kỹ thuật biển trong lĩnh vực này, nhất là cho các quốc gia đang phát
triển không có biển hay bất lợi về địa lý, cũng như cho các quốc gia đang phát
triển khác không có khả năng hoặc để tạo ra hoặc để phát triển khả năng kỹ
thuận riêng của mình trong lĩnh vực khoa học biển và trong lĩnh vực thăm dò và
khai thác các tài nguyên của biển, cũng không có khả năng phát triển hạ tầng cơ
sở cần thiết cho các kỹ thuật này;
Giúp
tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc ký kết các hiệp định, các hợp đồng hay
các thỏa thuận tương tự khác, trong những điều kiện công bằng, hợp lý;
Tổ
chức các hội nghị, hội thảo và các cuộc thảo luận về các vấn đề khoa học và kỹ
thuật, nhất là về các chính sách và phương pháp cần đề ra để thực hiện chuyển
giao các kỹ thuật biển;
Tạo
điều khiện thuận lợi cho việc trao đổi các nhà khoa học, kỹ thuật và các chuyên
gia khác;
Thực
hiện các dự án và xúc tiến các xí nghiệp liên doanh và các hình thức hợp tác
hai bên và nhiều bên khác.
Việc
hợp tác quốc tế để phát triển và chuyển giao kỹ thuật biển được thực hiện, khi
có thể được và thích hợp, trong khuôn khổ của các chương trình hai bên, khu
vực, và nhiều bên hiện có, cũng như trong khuôn khổ của các chương trình được
mở rộng và của các chương trình mới, nhằm làm dễ dàng cho việc nghiên cứu khoa
học biển và chuyển giao kỹ thuật biển, đặc biệt, trong các lĩnh vực mới, và
việc cấp kinh phí quốc tế thích hợp cho việc nghiên cứu đại dương và khai thác
các đại dương.
Các
quốc gia, trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, tìm cách
xúc tiến việc soạn thảo các nguyên tắc chỉ đạo, các tiêu chuẩn và qui phạm được
chấp nhận chung về việc chuyển giao kỹ thuật biền trong khuôn khổ của các thỏa
hiệp hai bên hay trong khuôn khổ của các tổ chức quốc tế và cơ quan khác, đặc
biệt, có tính đến các lợi ích và nhu cầu của quốc gia đang phát triển.
Trong
lĩnh vực chuyển giao kỹ thuật biển, các quốc gia cố gắng bảo đảm cho các tổ
chức quốc tế có thâtm quyền phối hợp với các hoạt động của họ, kể cả mọi chương
trình khu vực và thế giới, có tính đến các lợi ích và nhu cầu của các quốc gia
đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia không có biển hay bất lợi về mặt địa
lý.
Các
quốc gia tích cực hợp tác với các tổ chức quốc tế có thẩm quyền và với Cơ quan
quyền lực nhằm khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao cho
các quốc gia đang phát triển, cho công dân của họ và cho xí nghiệp những kiến
thức thực tiễn và kỹ thuật biển có liên quan đến các hoạt động trong Vùng.
Về
các hoạt động tiến hành trong Vùng, Cơ quan quyền lực quan tâm tới mọi lợi ích
chính đáng cũng như các quyền và nghĩa vụ của những người nắm giữ, những người
cung cấp và những người được nhận kỹ thuật, đảm bảo cho:
Theo
đúng nguyên tắc phân chia công bằng về mặt địa lý, các công dân của các quốc
gia đang phát triền, dù là quốc gia ven biển, không có biển hay có hoàn cảnh
địa lý bất lợi, được đưa vào làm nhân viên tập sự trong số các nhân viên kỹ
thuật, quản lý và nghiên cứu được tuyển cho các nhu cầu hoạt động của Cơ quan
quyền lực;
Tài
liệu kỹ thuật về dụng cụ, máy móc thiết bị và phương pháp đã dùng phải để cho
tất cả các quốc gia sử dụng, nhất là cho các quốc gia đang phát triển đang có
nhu cầu và yêu cầu được hưởng sự giúp đỡ kỹ thuật trong lĩnh vực này;
Các
quy định thích hợp phải được xác định ngay trong Cơ quan quyền lực để tạo điều
kiện dễ dàng cho các quốc gia có nhu cầu và yêu cầu được hưởng một sự giúp đỡ
kỹ thuật trong lĩnh vực kỹ thuật biển, nhất là các quốc gia đang phát triển, và
công dân của các nước này, nắm được các kiến thức và có trình độ thành thạo cần
thiết, kể cả việc được hưởng một sự đào luyện về nghề nghiệp.
Các
quốc gia có nhu cầu và yêu cầu được hưởng một sự giúp đỡ kỹ thuật trong lĩnh
vực này, nhất là các quốc gia đang phát triển, nhận được một sự giúp đỡ để có
được trang thiết bị, các phương pháp, dụng cụ và bí quyết kỹ thuật cần thiết,
trong khuôn khổ của các thỏa thuận tài chính trù định trong Công ước.
1.
Các quốc gia, trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền và Cơ
quan quyền lực, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập, nhất là trong các
quốc gia ven biển đang phát triển, các trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học
và kỹ thuật biển, và tăng cường các trung tâm hiện có, để động viên và xúc tiến
việc nghiên cứu khoa học biển trong các quốc gia này và để phát triển khả năng
riêng của từng nước nhằm sử dụng và gìn giữ các tài nguyên biển của họ cho mục
đích kinh tế.
2.
Các quốc gia, thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền và Cơ quan quyền lực,
góp phần giúp đỡ thích đáng để tạo điều kiện dễ dàng cho việc thành lập và tăng
cường các trung tâm quốc gia nhằm làm cho các quốc gia có nhu cầu và yêu cầu
được hưởng sự giúp đỡ như vậy có được những phương tiện đào tạo tiên tiến,
những thiết bị, những kiến thức thực tiễn và sự thông thạo cần thiết, cũng như
các chuyên gia kỹ thuật.
1.
Phối hợp với các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, Cơ quan quyền lực và các viện
nghiên cứu quốc gia về khoa học và kỹ thuật biển, các quốc gia tạo điều kiện dễ
dàng cho việc thành lập, nhất là trong các quốc gia đang phát triển, các trung
tâm nghiên cứu khoa học và kỹ thuật biển của khu vực, nhằm khuyến khích và thúc
đẩy việc nghiên cứu khoa học biển trong các quốc gia này và để làm dễ dàng cho
việc chuyển giao kỹ thuật biển.
2.
Tất cả các quốc gia của cùng một khu vực cần tập hợp tác với các trung tâm của khu
vực để bảo đảm tốt hơn việc thực hiện các mục tiêu của họ.
Ngoài
các chức năng khác, các trung tâm khu vực có trách nhiệm bảo đảm: Các chương
trình đào tạo và giảng dạy ở mọi trình độ trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa
học và kỹ thuật biển khác nhau, đặc biệt là môn sinh vật biển, đề cập trước hết
là việc bảo về và quản lý các tài nguyên sinh vật, môn hải dương học, thủy văn
học, kỹ thuật công trình, thăm dò địa chất đáy biển, khai thác mỏ và kỹ thuật
khử mặn nước biển; Việc nghiên cứu công tác quản lý;
Các
chương trình nghiên cứu có quan hệ đến việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển
và việc ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm;
Việc
tổ chức các hội nghị, hội thảo và các cuộc thảo luận thuộc khu vực;
Thu
thập và xử lý dữ kiện và thông tin trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật biển;
Phổ
biến nhanh chóng các kết quả của việc nghiên cứu khoa học và kỹ thuật biển
trong các tài liệu dễ phổ cập;
Phổ
biến các thông tin về các chính sách quốc gia liên quan đến việc chuyển giao kỹ
thuật biển, và việc nghiên cứu so sánh có hệ thống các chính sách này;
Sưu
tập và hệ thống hóa các thông tin liên quan đến việc thương mại hóa các kỹ
thuật, cũng như đến các hợp đồng và các thỏa thuận khác về các chứng chỉ;
Hợp
tác kỹ thuật với các quốc gia khác của khu vực.
Các
tổ chức quốc tế có thẩm quyền nói trong phần này và Phần XIII thi hành mọi biện
pháp cần thiết để trực tiếp hay bằng cách hợp tác chặt chẽ, làm tròn các chức
năng và nhiệm vụ mà mình đảm đương theo phần này.
Các
quốc gia thành viên giải quyết mọi tranh chấp xảy ra giữa họ về việc giải thích
hay áp dụng Công ước bằng các phương pháp hòa bình theo đúng Điều 2, khoản 3
của Hiến chương liên hợp quốc và, vì mục đích này, cần phải tìm ra giải pháp
bằng các phương pháp đã được nêu ở Điều 33, khoản 1 của Hiến chương.
Không
một quy định nào của phần này ảnh hưởng đến quyền của các quốc gia thành viên
đi đến thỏa thuận giải quyết vào bất cứ lúc nào, bằng bất kỳ phương pháp hòa
bình nào theo sự lựa chọn của mình một vụ tranh chấp xảy ra giữa họ và vấn đề
giải thích hay áp dụng Công ước.
1.
Khi các quốc gia thành viên tham gia và một vụ tranh chấp liên quan đến việc
giải thích hay áp dụng Công ước đã thỏa thuận tìm cách giải quyết tranh chấp
này bằng một phương pháp hòa bình theo sự lựa chọn của mình, thì các thủ
tục được trù định trong phần này chỉ được áp dụng nếu người ta không đạt được
một cách giải quyết bằng phương pháp này và nếu sự thỏa thuận giữa các bên
không loại trừ khả năng tiến hành một thủ tục khác.
2.
Nếu các bên cùng thỏa thuận về một thời hạn, thì khoản một chỉ được áp dụng kể
từ khi kết thúc thời hạn này.
Khi
các quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp liên quan đến việc giải
thích hay áp dụng Công ước, trong khuôn khổ của một hiệp định chung, khu vực
hay hai bên hay bất kỳ cách nào, đã thỏa thuận rằng một vụ tranh chấp như vậy,
sẽ phải tuân theo một thủ tục dẫn đến một quyết định bắt buộc, thì thủ tục này
được áp dụng thay cho các thủ tục đã được trù định trong phần này, trừ khi các
bên tranh chấp có thỏa thuận khác.
1.
Khi có tranh chấp xảy ra giữa các quốc gia thành viên liên quan đến việc giải
thích hay áp dụng Công ước, các bên tranh chấp tiến hành ngay một cuộc trao đổi
quan điểm về cách giải quyết tranh chấp bằng thương lượng hay bằng các phương
pháp hòa bình khác.
2.
Cũng như vậy, các bên tiến hành ngay một cuộc trao đổi quan điểm mỗi khi kết
thúc một thủ tục giải quyết đối với một vụ tranh chấp như vậy mà không giải
quyết được, hay mỗi khi đã có một giải pháp và các hoàn cảnh đòi hỏi các cuộc
tham khảo ý kiến liên quan đến việc thi hành giải pháp đó.
1.
Bất kỳ quốc gia nào thành viên nào tham gia vào một vụ tranh chấp liên quan đến
việc giải thích hay áp dụng Công ước đều có thể yêu cầu quốc gia khác hay các
bên khác đưa vụ tranh chấp ra hòa giải theo thủ tục đã được trù định ở Mục 1
của Phụ lục V, hay theo một thủ tục hòa giải khác.
2.
Khi yêu cầu đã được chấp nhận và nếu các bên đồng ý về thủ tục hòa giải sẽ được
áp dụng, thì bất kỳ bên nào cũng có thể đưa ra vụ tranh chấp ra hòa giải theo
thủ tục đó.
3.
Khi yêu cầu không được chấp nhận hay nếu các bên không thỏa thuận được về thủ
tục hòa giải, thì coi như đã chấm dứt việc hòa giải.
4.
Khi một vụ tranh chấp đã được đưa ra hòa giải, thì chỉ kết thúc việc hòa giải
theo đúng thủ tục hòa giải đã thỏa thuận, trừ khi các bên có sự thỏa thuận
khác.
Mục
này được áp dụng cho bất kỳ vụ tranh chấp nào mà theo Mục 5 của Phần XI cần
được giải quyết theo đúng các thủ tục đã trù định trong phần này. Nếu một thực
thế không phải là một quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp như
thế, thì mục này được áp dụng mutalis mutandis (với những sửa đổi cần thiết về
chi tiết).
Với
điều kiện tuân thủ Mục 3, mọi tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp
dụng Công ước khi không được giải quyết bằng cách áp dụng Mục 1, theo yêu cầu
của một bên tranh chấp, đều được đưa ra trước tòa án có thẩm quyền theo mục
này.
1.
Khi ký hay phê chuẩn Công ước hoặc tham gia Công ước, hay ở bất kỳ thời điểm
nào sau đó, một quốc gia được quyền tự do lựa chọn, hình thức tuyên bố bằng văn
bản, một hay nhiều biện pháp sau đây để giải quyết các tranh chấp có liên quan
đến việc giải thích hay áp dụng Công ước:
Tòa
án quốc tế về Luật biển được thành lập theo đúng Phụ lục VII; Toà án quốc tế;
Một
tòa trọng tài được thành lập theo đúng Phụ lục VII;
Một
tòa trọng tài đặc biệt được thành lập theo đúng Phụ lục VIII để giải quyết một
hay nhiều loại tranh chấp đã được qui định rõ trong đó.
2.
Một bản tuyên bố theo khoản 1 không ảnh hưởng đến nghĩa vụ của một quốc gia
thành viên phải chấp nhận, trong phạm vi và theo các thể thức được trù định ở
Mục 5 của phần XI, thẩm quyền của Viện giải quyết các tranh chấp có liên quan
đến đáy biển thuộc Toàn án quốc tế về luật biển và tuyên bố đó cũng không bị
nghĩa vụ này tác động đến.
3.
Một quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp mà không được một tuyên
bố còn có hiệu lực bảo vệ, thì được xem là đã chấp nhận thủ tục trọng tài đã
trù định ở Phụ lục VII.
4.
Nếu các bên tranh chấp đã chấp nhận cùng một thủ tục để giải quyết tranh chấp,
thì vụ tranh chấp đó chỉ có thể được đưa ra giải quyết theo thủ tục đó, trừ khi
các bên có thỏa thuận khác.
5. Nếu các bên tranh chấp không chấp nhận cùng một thủ tục để
giải quyết tranh chấp, thì vụ tranh chấp đó chỉ có thể được đưa ra giải quyết
theo thủ tục trọng tài đã được trù định ở Phụ lục VII, trừ khi các bên có thỏa
thuận khác.
6. Một bản tuyên bố theo đúng khoản 1 vẫn còn hiệu lực trong
vòng 3 tháng sau khi đã gửi một thông báo hủy bỏ cho Tổng thư ký Liên hợp quốc.
7. Một tuyên bố mới, một thông báo hủy nbỏ hay việc một tuyên bố
hết hạn không hề ảnh hưởng đến thủ tục đang tiến hành trước một toàn án có thẩm
quyền theo điều này, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
8. Các tuyên bố và thông báo đã nêu ở điều này được gửi đến Tổng
thư ký Liên hợp quốc để lưu chuyển và Tổng thư ký Liên hợp quốc chuyển các bản
sao cho các quốc gia thành viên.
1. Một tòa án đã nêu ở Điều 287 có thẩm quyền xét xử bất kỳ
tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước đã được đưa
ra cho mình theo đúng phần này.
2. Một tòa án nói ở Điều 287 cũng có thẩm quyền xét xử bất kỳ
tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng một điều ước quốc tế
có liên quan đến các mục đích của Công ước và đã được đưa ra cho mình theo đúng
điều ước này.
3. Viện giải quyết tranh chấp liên quan đến đáy biển được lập
nên theo đúng phụ lục VI và bất kỳ viện nào khác, hay tòa trọng tài nào khác,
đã nêu ở Mục 5 của Phần XI, đều có thẩm quyền xét xử mọi vấn đề đã được đưa ra
cho mình theo đúng mục đó.
4. Trong trường hợp có sự tranh cãi về vấn đề một tòa án có thẩm
quyền hay không, thì vấn đề này do tòa án đó quyết định.
Đối với mọi tranh chấp đụng chạm đến những vấn đề khoa học hay
kỹ thuật, một tòa án khi thi hành thẩm quyền của mình theo mục này, theo yêu
cầu của một bên hay tự ý mình, và qua tham khảo ý kiến các bên, có thể lựa chọn
trên một bản danh sách thích hợp được lập nên theo đúng Điều 2 của phụ lục
VIII, ít nhất là 2 chuyên viên khoa học hay kỹ thuật tham gia tòa án nhưng
không có quyền biểu quyết.
1. Nếu một tòa án được đề nghị xét một vụ tranh chấp theo đúng
thủ tục và thấy prima facie (hiển nhiên) là mình có thẩm quyền theo phần này
hay Mục 5 của phần XI, thì tòa án này có thế qui định tất cả các biện pháp bảo
đảm mà mình xét thấy thích hợp với tình hình để bảo vệ các quyền riêng của từng
bên tranh chấp hay để ngăn không cho môi trường của biển bị những tổn thất
nghiêm trọng, trong khi chờ quyết định cuối cùng.
2. Các biện pháp bảo đảm có thể bị sửa đổi hay hủy bỏ ngay khi
các hoàn cảnh chứng minh cho các biện pháp đó thay đổi hay không còn tồn tại.
3. Các biện pháp bảo đảm chỉ có thể được qui định, sửa đổi hay
hủy bỏ theo điều này, theo yêu cầu của một bên tranh chấp và sau khi đã tạo cho
các bên tranh chấp khả năng thỏa thuận được với nhau.
4. Toà án thông báo ngay mọi biện pháp bảo đảm hay mọi quyết
định sửa bỏ hay hủy bỏ biện pháp đó cho các bên tranh chấp, và nếu xét thấy
thích hợp, thì thông báo cho các quốc gia thành viên khác.
5. Trong khi chờ lập ra một tòa trọng tài xét xử một vụ tranh
chấp theo mục này, mọi tòa án do các bên thỏa thuận với nhau chỉ định, hoặc,
nếu không thỏa thuận được trong một thời hạn 2 tuần sau ngày có yêu cầu các
biện pháp bảo đảm. Toà án quốc tế về luật biển, hay trong trường hợp của các
hoạt động tiến hành trong Vùng, Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến
đáy biển, có thể quy định, sửa đổi hay hủy bỏ các biện pháp bảo đảm theo đúng điều
này, nếu như họ thấy prima facie (hiển nhiên) rằng tòa án cần được lập ra sẽ có
thẩm quyền, và nếu như họ xét thấy rằng tính chất khẩn trương của tình hình đòi
hỏi phải làm như vậy. Một khi được thành lập, tòa án được giao xét xử vụ tranh
chấp, hành động theo đúng các khoản 1 đến 4, có thể sửa đổi, hủy bỏ hay xác
nhận biện pháp bảo đảm này.
6. Các bên tranh chấp phải tuân theo không chậm trễ các biện
pháp bảo đảm được quy định theo điều này.
1. Tất cả các thủ tục giải quyết tranh chấp được trù định trong
phần này đều để ngỏ cho các quốc gia thành viên.
2. Các thủ tục để giải quyết tranh chấp được trù định trong phần
này chỉ để ngo cho các thực thể không phải là quốc gia thành viên trong phạm vi
mà Công ước đã trù định một cách rõ ràng.
1. Khi các nhà chức trách của một quốc gia thành viên đã bắt giữ
một chiếc tàu mang cờ của một quốc gia thành viên khác và nếu thấy rằng quốc
gia bắt giữ chiếc tàu đã không tuân theo các qui định của Công ước trù định
việc giải phóng ngay cho tàu thuyền hay trả tự do cho đoàn thủy thủ của nó ngay
khi ký gởi một khoản tiền bảo lãnh hợp lý hay một khoản bảo đảm tài chính nào
khác, thì vấn đề giải phóng tàu hay trả tự do cho đoàn thủy thủ phải được đưa
ra trước một tóa án do các bên chỉ định theo một thỏa thuận chung; nếu không
thỏa thuận đuợc trong một thời hạn 10 ngày kể từ lúc bắt giữ chiếc tàu hay đoàn
thủy thủ, vấn đề này có thể được đưa ra trước một tòa án được quốc gia đã tiến
hành bắt hay giữ tàu hay đoàn thủy thủ chấp nhận theo đúng Điều 287, hay trước
Tòa án quốc tế về luật biển, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
2. Yêu cầu giải phóng hay trả tự do chỉ có thể do quốc gia mà
tàu mang cờ hoặc nhân danh quốc gia ấy đưa ra.
3. Tòa án nhanh chóng xem xét yêu cầu này và chỉ xét xử vấn đề
giải phóng tàu hay trả tự do cho đoàn thủy thủ, việc này không có ảnh hưởng gì
đến tiến trình tiếp sau của mọi vụ kiện mà chiếc tàu, người chủ chiếc tàu hay
đoàn thủy thủ của nó có thể là đối tượng trước quyền tài phán quốc gia thích
hợp. Các nhà chức trách của quốc gia đã tiến hành bắt, giữ vẫn có đủ tư cách ra
lệnh giải phóng tàu hay trả tự do cho đoàn thủy thủ của nó vào bất kỳ lúc nào.
4. Ngay khi đã ký gửi khoản tiền bảo lãnh hay một khoản bảo đảm
tài chính khác theo quyết định của tòa án, các nhà chức trách của quốc gia đã
bắt giữ tàu phải tuân theo quyết định của tòa án về việc giải phóng tàu và trả
tự do cho đoàn thủy thủ của nó.
1. Tòa án có thẩm quyền theo mục này áp dụng các qui định của
Công ước và các qui tắc khác của pháp luật quốc tế không mâu thuẫn với Công
ước.
2. Khoản 1 không đụng chạm đến quyền hạn của tòa có thẩm quyền
theo mục này để xét xử ex aequo bono (công bằng) nếu các bên thỏa thuận.
1. Tòa án được trù định ở Điều 287 nhận được đơn yêu cầu xét xử
một vụ tranh chấp nói ở Điều 297 quyết định theo thỉnh cầu của một bên, hay có
thể quyết định theo ý mình, xem yêu cầu này có phải là một sự lạm dụng các
phương pháp tố tụng hay prima facie (hiển hiên) là có căn cứ. Nếu tòa án xét
thấy rằng, đó là một sự lạm dụng các phương pháp tố tụng hay prima facie (hiển
hiên) là không có căn cứ, thì tòa án thôi không xét đơn nữa.
2. Lúc nhận được đơn, tòa án thông báo ngay cho bên kia hay các
bên kia, và qui định một thời hạn hợp lý, để các bên này có thể yêu cầu tòa
quyết định về các điểm đã nêu ở khoản 1.
3. Điều này không hề đụng chạm đến các quyền của một bên tranh
chấp nêu lên những phản bác sơ bộ theo đúng các qui tắc tố tụng có thể áp dụng.
Một vụ tranh chấp giữa các quốc gia thành viên liên quan đến
việc giải thích hay áp dụng Công ước, chỉ có thể được đưa ra giải quyết theo
các thủ tụ đã qui định ở mục này sau khi các biện pháp tố tụng nội bộ đã được
sử dụng hết theo đòi hỏi của pháp luật quốc tế.
1. Các quyết định do tòa án có thẩm quyền theo mục này đưa ra là
có tính chất tối hậu, và tất cả các bên tranh chấp phải tuân theo.
2. Các quyết định đó chỉ có tính chất bắt buộc đối với các bên
và trong trường hợp riêng biệt được xem xét.
1. Các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng
Công ước về việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền hay quyền tài phán của quốc
gia ven biển như đã được trù định trong Công ước, được xét theo các thủ tục
giải quyết đã được trù định ở Mục 2 trong các trường hợp sau đây:
Khi thấy rằng quốc gia ven biển đã không tuân theo Công ước liên
quan đến tự do và quyền hàng hải, hàng không hoặc tự do và quyền đặt các dây
cáp và ống dẫn ngầm, cũng như đến việc sử dụng biển vào các mục đích khác mà
quốc tế thừa nhận là chính đã nêu ở Điều 58;
Khi thấy rằng trong việc thi hành các tự do và các quyền đó hoặc
trong việc sử dụng các quyền này, một quốc gia đã không tuân theo Công ước hay
các luật hoặc các qui định do quốc gia ven biển đề ra phù hợp với các qui định
của Công ước và các qui tắc khác của pháp luật quốc tế không trái với Công ước;
hoặc
Khi thấy rằng quốc gia ven biển đã không tuân theo các qui tắc
hay quy phạm quốc tế đã được xác định nhằm bảo vệ và gìn giữ môi trường biển có
thể áp dụng cho quốc gia này và đã được Công ước đặt ra, hay được đặt ra thông
qua một tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay một hội nghị ngoại giao hành động phù
hợp với Công ước.
2. a) Các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp
dụng các qui định của Công ước về nghiên cứu khoa học biển được giải quyết theo
đúng Mục 2, trừ khi quốc gia ven biển không chịu chấp nhận theo cách giải quyết
như thế đối với một vụ tranh chấp phát sinh từ:
Việc quốc gia này thi hành một quyền tùy ý quyết định theo đúng
Điều 246; hay
Quyết định của quốc gia này ra lệnh đình chỉ hoặc chấm dứt tiến
hành một dự án nghiên cứu theo đúng Điều 253;
b) Các vụ tranh chấp phát sinh từ một luận cứ của quốc gia
nghiên cứu cho rằng trong trường hợp của một dự án riêng biệt, quốc gia ven
biển không sử dụng các quyền mà các Điều 246 và 253 đã dành cho mình một cách
phù hợp với Công ước, thì theo yêu cầu của bên này hay bên khác được đưa ra hòa
giải theo thủ tục đã được trù định ở Mục 2 của Phụ lục V, dĩ nhiên là Ủy ban
hòa giải không được xét việc thi hành quyền tùy ý quyết định của quốc gia ven
biển trong việc chỉ định các khu vực đặc biệt, như đã được trù định ở Điều 246,
khoản 6, cũng như việc thi hành quyền tùy ý không cho phép theo đúng khoản 5
của cùng điều đó.
3. a) Các việc tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp
dụng các qui định của Công ước về việc đánh bắt hải sản được giải quyết theo
đúng Mục 2, trừ khi quốc gia ven biển không chịu chấp nhận cách giải quyết như
vậy về một vụ tranh chấp liên quan đến các quyền thuộc chủ quyền của mình đối
với các tài nguyên sinh vật thuộc Vùng đặc quyền về kinh tế của mình, hay liên
quan đến việc thi hành các quyền này, kể cả quyền tùy ý qui định khối lượng
đánh bắt có thể chấp nhận được và khả năng đánh bắt của mình, phân phối số dư
ra giữa các quốc gia khác, quyết định các thể thức, điều kiện đặt ra trong các
luật và qui định của mình về bảo vệ và quản lý;
b) Nếu việc vận dụng Mục 1, không cho phép đi đến một cách giải
quyết, thể theo yêu cầu của một bên nào đó trong số các bên tranh chấp, vụ
tranh chấp được đưa ra hòa giải theo thủ tục được trù định ở Mục 2 của Phụ lục
V, khi chứng minh được rằng quốc gia ven biển đã:
Rõ ràng không thực hiện nghĩa vụ phải dùng các biện pháp bảo vệ
và quản lý thích hợp để bảo đảm rằng việc duy trì các tài nguyên sinh vật thuộc
vùng đặc quyền kinh tế không bị ảnh hưởng nghiêm trọng;
Độc đoán từ chối việc quy định, theo yêu cầu của một quốc gia
khác khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận được và khả năng khai thác tài nguyên
sinh vật của mình đối với các đàn (stocks) hải sản mà việc khai thác có liên
quan đến quốc gia khác đó; hay
Độc đoán từ chối việc chia cho một quốc gia nào đó toàn bộ hay
một phần số cá dư mà mình đã xác nhận, như đã trù định ở các Điều 62, 69 và 70
và theo các thể thức và điều kiện mà bản thân mình đã qui định và phù hợp với
Công ước;
Ủy ban hòa giải không có trường hợp nào được phép dùng quyền túy
ý quyết định của mình thay cho quyền tùy ý quyết định của các quốc gia ven
biển.
Báo cáo của Ủy ban hòa giải phải được thông báo cho các tổ chức
quốc tế thích hợp.
Khi đàm phán về các thỏa thuận đã trù định ở các Điều 69 và 70,
các quốc gia thành viên, trừ khi có thỏa thuận khác, ghi vào đó một điều khoản
trù định các biện pháp mà mình phải thi hành để giảm đến mức tối thiểu các khả
năng bất đồng về việc giải thích hay áp dụng thỏa thuận, cũng như thủ tục phải
tuân theo trong trường hợp vẫn có bất đồng.
1. Khi ký kết, phê chuẩn hay tham gia Công ước, hoặc ở vào bất
kỳ thời điểm nào sau đó, với điều kiện không phương hại đến các nghĩa vụ phát
sinh từ Mục 1, một quốc gia có thể tuyên bố bằng văn bản rằng mình không chấp
nhận một hay nhiều thủ tục giải quyết các tranh chấp đã được trù định ở Mục 2
có liên quan đến một hay nhiều loại tranh chấp sau đây:
a) i. Các vụ tranh chấp về việc giải thích hay áp dụng các Điều
15, 74 và 83 liên quan đến việc hoạch định ranh giới các vùng biển hay các vụ
tranh chấp về các vịnh hay danh nghĩa lịch sử, nghĩa là khi một tranh chấp như
thế xảy ra sau khi Công ước có hiệu lực và nếu các bên không đi đến một thỏa
thuận nào bằng con đường thương lượng trong một thời hạn hợp lý, thì quốc gia
đã tuyên bố, theo yêu cầu của một trong các bên, chấp nhận đưa vụ tranh chấp đó
ra hòa giải theo thủ tục đã được trù định ở Mục 2 của phụ lục V, và đương nhiên
không thể đưa ra xét theo thủ tục này một vụ tranh chấp nào đòi hỏi nhất thiết
phải xem xét đồng thời một vụ tranh chấp chưa được giải quyết liên quan đến chủ
quyền và các quyền khác trên một lãnh thổ đất liền hay đảo;
ii. Một khi Ủy ban hòa giải đã trình bày báo cáo của mình, báo
cáo phải nói rõ được lý do, thì các bên thương lượng về một thỏa thuận trên cơ
sở của báo cáo này; nếu các cuộc thương lượng không thành, thì các bên, qua sự
thỏa thuận với nhau, đưa vấn đề ra theo các thủ tục đã được quy định ở Mục 2,
trừ khi các bên có thỏa thuận khác;
iii. Điểm nhỏ này không áp dụng đối với các vụ tranh chấp liên
quan đến việc hoạch định ranh giới các vùng biển đã được một thỏa thuận giữa
các bên giải quyết dứt khoát, cũng như đối với các vụ tranh chấp phải được giải
quyết theo đúng một bạn thỏa thuận hai bên hay nhiều bên có tính chất ràng buộc
các bên;
b) Các vụ tranh chấp liên quan đến các hoạt động quân sự, kể cả
hoạt động quân sự của tàu thuyền và phương tiện bay của Nhà nước được sử dụng
cho một dịch vụ không có tính chất thương mại, và các vụ tranh chấp liên quan
đến các hành động bắt buộc chấp hành, đã được thực hiện trong việc thi hành các
quyền thuộc chủ quyền hoặc quyền tài phán mà Điều 297, khoản 2 và 3, đã loại
trừ khỏi thẩm quyền của một Tòa án;
c) Các vụ tranh chấp mà Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, trong khi
thi hành các chức năng của mình do Hiến chương Liên hợp quốc giao phó có trách
nhiệm giải quyết, trừ khi Hội đồng bảo an quyết định xóa vấn đề trong chương
trình nghị sự của mình hay yêu cầu các bên tranh chấp giải quyết tranh chấp của
họ bằng các phương pháp đã qui định trong Công ước.
2. Một quốc gia thành viên đã ra một tuyên bố theo khoản 1, thì
bất kỳ lúc nào cũng có thể rút lui tuyên bố đó hay thỏa thuận đưa ra một vụ
tranh chấp mà tuyên bố này đã loại trừ, ra trước bất cứ thủ tục giải quyết nào
đã được trù định trong Công ước.
3. Một quốc gia thành viên đã ra một tuyên bố theo khoản 1, thì
không thể đưa ra một vụ tranh chấp, nằm trong một loại tranh chấp đã bị loại
trừ, ra trước một thủ tục nào đó trong số các thủ tục đã được trù định trong
Công ước, nếu không có sự thỏa thuận của quốc gi thành viên đang tranh chấp với
mình.
4. Nếu một quốc gia thành viên đã ra một tuyên bố theo khoản 1,
điểm a, thì bất kỳ quốc gia thành viên nào khác cũng có thể đưa ra mọi tranh
chấp giữa quốc gia đó với quốc gia đã ra tuyên bố và nằm trong một loại tranh
chấp đã bị loại trừ, ra giải quyết theo thủ tục được định rõ trong tuyên bố
này.
5. Một tuyên bố mới hay một thông báo rút lui một tuyên bố không
hề có tác động đến thủ tục đang áp dụng trước một toàn án xét xử theo đúng điều
này, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
6. Các tuyên bố hay các thông báo rút lui các tuyên bố nói ở
điều này phải được gửi cho Tổng thư ký Liên hợp quốc để lưu chuyển, Tổng thư ký
Liên hợp quốc chuyển các bản sao các văn kiện đó cho các quốc gia thành viên.
1. Bất kỳ tranh chấp nào khi đã bị loại khỏi các thủ tục giải
quyết các tranh chấp được trù định ở Mục 2 theo Điều 297 hoặc bằng một tuyên bố
theo đúng Điều 298, thì chỉ có thể được đưa ra giải quyết theo các thủ tục này
qua sự thỏa thuận của các bên tranh chấp.
2. Không một quy định nào của mục này đụng chạm đến quyền của
các bên tranh chấp trong việc thỏa thuận sử dụng một thủ tục khác để giải quyết
vụ tranh chấp, hay thỏa thuận giải quyết vụ tranh chấp bằng sự giàn xếp ổn
thỏa.
Các quốc gia thành viên phải có thiện chí hoàn thành các nghĩa
vụ đã đảm nhận theo nội dung Công ước, và thực hiện các quyền, thẩm quyền và
các tự do đã được thừa nhận trong Công ước, sao cho không để xảy ra tình trạng
lạm quyền.
Trong việc thực hiện các quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình
theo đúng Công ước, các quốc gia thành viên tránh dựa vào việc đe dọa hay sử
dụng vũ lực để xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ hay độc lập chính trị của mọi quốc
gia hay tránh cùng bất kỳ cách nào khác không phù hợp với các nguyên tắc của
pháp luật quốc tế đã được nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc.
Không phương hại đến quyền của mọi quốc gia thành viên dựa vào
các thủ tục giải quyết các vụ tranh chấp đã được trù định trong Công ước, không
qui định nào của Công ước có thể được giải thích như là bắt buộc một quốc gia
thành viên, trong khi thi hành các nghĩa vụ của mình theo Công ước, cung cấp
các thông tin mà việc tiết lộ sẽ là trái với các lợi ích thiết yếu của mình về
mặt an ninh.
Các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ các hiện vật có tính chất khảo
cổ hay lịch sử được phát hiện ở biển; các quốc gia hợp tác với nhau vì mục đích
ấy.
Để kiểm soát việc mua bán hiện vật này, bằng cách áp dụng Điều
33, quốc gia ven biển có thể coi việc lấy các hiện vật đó từ đáy biển trong
vùng nói ở điều đó mà không có sự thỏa thuận của mình là sự vi phạm các luật và
qui định của quốc gia ven biển ở trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình, đã
được nêu ở Điều 33.
Điều này không đụng chạm đến các quyền của những người sở hữu có
thể được xác nhận, cũng không đụng chạm đến quyền thu hồi các xác tàu và các
qui tắc khác của luật hàng hải cũng không đụng chạm đến các luật và tập quán về
mặt trao đổi văn hóa.
Điều này không làm phương hại đến các điều ước quốc tế khác và
các qui tắc của pháp luật quốc tế liên quan đến việc bảo vệ các hiện vật có
tính chất khảo cổ hay lịch sử.
Các qui định của Công ước liên quan đến trách nhiệm trong trường
hợp xảy ra thiệt hại không phương hại đến việc áp dụng các qui tắc hiện hành và
việc lập ra các qui tắc mới liên quan đến trách nhiệm theo pháp luật quốc tế.
1. Công ước để ngỏ cho các đối tượng sau đây được ký: Tất cả các
quốc gia;
Nước Na-mi-bi-a do Hội đồng của Liên hợp quốc về Na-mi-bi-a đại
diện;
Tất cả các quốc gia liên kết tự trị đã chọn chế độ này qua một
hành động tự quyết do Liên hợp quốc giám sát và phê chuẩn theo Nghị quyết 1514
(XV) của Đại hội đồng và có thẩm quyền đối với các vấn đề mà Công ước đề cập,
kể cả thẩm quyền ký các hiệp ước về các vấn đề đó;
Tất cả các quốc gia liên kết tự trị mà theo các văn bản liên
kết, có thẩm quyền đối với các vấn đề mà Công ước đề cập, kể cả thẩm quyền ký
các hiệp ước về các vấn đề đó;
Tất cả các lãnh thổ có quyền tự trị hoàn toàn về nội trị được
Liên hợp quốc thừa nhận, nhưng chưa giành được nền độc lập hoàn toàn phù hợp
với Nghị quyết 1514 (XV) của Đại hội đồng và có thẩm quyền đối với các vấn đề
mà Công ước đề cập, kể cả thẩm quyền ký các hiệp ước về các vấn đề đó;
Các tổ chức quốc tế theo đúng phụ lục IX.
Công ước để ngỏ cho việc ký kết tại Bộ Ngoại giao nước
Gia-mai-ca cho đến ngày 09-12-1984 cũng như tại trụ sở của Liên hợp quốc tại
Niu Oóc từ 1-7-1983 đến 9-12-1984.
Công ước phải được các quốc gia và các thực thể khác nói ở Điều
305, khoản 1, các điểm b, c, d và e phê chuẩn và được các thực thể nói ở khoản
1, điểm f, của điều đó xác nhận chính thức theo đúng Phụ lục IX. Các văn kiện
phê chuẩn và xác nhận chính thức được lưu chiểu bên cạnh Tổng thư ký Liên hợp
quốc.
Công ước vẫn để ngỏ cho các quốc gia và thực thể khác nói ở Điều
305 tham gia. Việc tham gia của các thực thể nói ở Điều 305, khoản 1, điểm f do
Phụ lục IX điều chỉnh. Các văn kiện tham gia được lưu chiểu bên cạnh Tổng thư
ký Liên hợp quốc.
1. Công ước có hiệu lực sau 12 tháng kể từ ngày gửi lưu chiểu
văn bản phê chuẩn hay tham gia thứ 60.
2. Đối với mỗi quốc gia phê chuẩn Công ước hay tham gia vào Công
ước sau khi văn bản phê chuẩn hay tham gia thứ 60 đã được gửi lưu chiểu, thì
Công ước sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 30 sau ngày quốc gia này gửi lưu chiểu văn
bản phê chuẩn hay tham gia của mình, với điều kiện phải tuân thủ quy định ở
khoản 1.
Đại hội đồng của Cơ quan quyền lực sẽ nhóm họp vào ngày mà Công
ước bắt đầu có hiệu lực và sẽ bầu ra Hội đồng của Cơ quan quyền lực. Trong
trường hợp Điều 161 không thể thực hiện hoàn toàn đầy đủ, thì Hội đồng đầu tiên
phải được thành lập sao cho phù hợp với những mục tiêu đã nói ở điều đó.
Các quy tắc, quy định và thủ tục do Ủy ban trù bị soạn thảo sẽ
được tạm thời áp dụng trong khi chờ cho các qui tắc, qui định và thủ tục đó
được Cơ quan quyền lực chính thức thông qua theo đúng Phần XI.
Cơ quan quyền lực và các cơ quan của nó hành động theo đúng nghị
quyết II của Hội nghị luật biển lần thứ III của Liên hợp quốc liên quan đến các
khoản vốn đầu tư ban đầu và với các quyết định của Ủy ban trù bị để thực hiện
nghị quyết này.
Công ước không chấp nhận bảo lưu, cũng không chấp nhận các ngoại
lệ ngoài những điều đã được các điều khác của Công ước cho phép một cách rõ
ràng.
Điều 309 không ngăn cấm một quốc gia, vào lúc mà quốc gia này ký
hay phê chuẩn Công ước hoặc tham gia vào Công ước, ra các tuyên bố, bất kể lới
văn hay tên gọi của tuyên bố đó thế nào, đặc biệt là nhằm điều hòa luật lệ và
qui định quốc của họ với Công ước, với điều kiện là các tuyên bố này không nhằm
loại trừ hay sửa đổi hiệu lực pháp lý của các qui định của Công ước trong việc
áp dụng chúng vào quốc gia này.
Giữa các quốc gia thành viên, Công ước có giá trị hơn các Công
ước Giơ-ne-vơ ngày 29 tháng 4 năm 1958 về luật biển.
Công ước không thay đổi chút nào về các quyền và nghĩa vụ của
các quốc gia thành viên bắt nguồn từ các Hiệp ước khác phù hợp với Công ước và
các quyền và nghĩa vụ đó không đụng chạm đến việc các quốc gia khác được hưởng
các quyền mà Công ước dành cho họ, cũng như việc các quốc gia khác thi hành nghĩa
vụ của họ bắt nguồn từ Công ước.
Hai hoặc trên hai quốc gia thành viên tham gia vào Công ước có
thể ký các điều ước sửa đổi hay đình chỉ việc áp dụng các qui định của Công ước
và chỉ áp dụng vào các mối quan hệ giữa họ với nhau, với điều kiện là các điều ước
này không đụng đến một trong các qui định Công ước mà việc không tôn trọng sẽ
không phù hợp với việc thực hiện nội dung và mục đích của Công ước, và cũng với
điều kiện là các điều ước này không đụng chạm đến việc áp dụng các nguyên tắc
cơ bản đã được nêu trong Công ước, cũng không đụng chạm đến việc các quốc gia
khác hưởng và thi hành các quyền hay nghĩa vụ bắt nguồn từ Công ước.
Các quốc gia thành viên dự định ký kết một điều ước nói ở khoản
3 cần thông báo cho các bên khác, qua trung gian của người lưu chiểu Công ước,
ý định ký kết điều ước của mình cũng như những sửa đổi hay việc đình chỉ áp
dụng các qui định của Công ước mà điều ước đó trù định.
Điều này không đụng chạm đến các điều ước quốc tế được phép hay
được duy trì một cách rõ ràng theo các điều khác của Công ước.
Các quốc gia thành viên thỏa thuận rằng không thể có sự sửa đổi
nào đối với nguyên tắc cơ bản về di sản chung của loài người đã được nêu lên ở
Điều 136 và các quốc gia này sẽ không tham gia vào một điều ước nào vi phạm
nguyên tắc ấy.
Sau một thời gian 10 năm kể từ ngày Công ước có hiệu lực, mọi
quốc gia thành viên có thể, qua văn bản gửi lên Tổng thư ký Liên hợp quốc, đề
nghị các điểm sửa đổi đối với Công ước về những điểm cụ thể, trong chừng mực mà
các điểm sửa đổi đó không nhằm vào các hoạt động tiến hành trong Vùng, và đề
nghị triệu tập một hội nghị có nhiệm vụ xem xét các điều sửa đổi được đề xuất
như vậy. Tổng thư ký chuyển văn bản này cho các quốc gia thành viên. Nếu trong
12 tháng sau ngày chuyển văn bản, có ít nhất là một nửa số quốc gia thành viên
trả lời một cách thuận lợi cho yêu cầu này, thì Tổng thư ký triệu tập hội nghị.
Trừ khi Hội nghị sửa đổi có quyết định khác, Hội nghị đó sẽ áp
dụng thủ tục ra quyết định đã được dùng trong hội nghị luật biển lần thứ III
của Liên hợp quốc. Hội nghị phải cố gắng hết sức để đi đến thỏa thuận về các
điểm sửa đổi bằng consensus (thỏa thuận) và hội nghị chỉ được tiến hành bỏ
phiếu về vấn đề khi mọi cố gắng để đạt tới một sự thỏa thuận không còn nữa.
Qua văn bản gửi lên cho Tổng thư ký Liên hợp quốc, mọi quốc gia
thành viên có thể đề nghị một điều sửa đổi đối với Công ước, không phải là một điều
sửa đổi nhằm vào các hoạt động tiến hành trong Vùng, và yêu cầu rằng điều sửa
đổi đó được thông qua theo thủ tục đơn giản hóa được trù định trong điều này,
không cần triệu tập một hội nghị để xem xét điều sửa đổi đó. Tổng thư ký Liên
hợp quốc chuyển văn bản đó cho tất cả các quốc gia thành viên.
Nếu trong 12 tháng sau ngày chuyển văn bản này, một quốc gia
thành viên có ý kiến phản đối điều sửa đổi đã được đề nghị hay phản đối ý kiến
đề xuất nhằm làm cho điều sửa đổi đó được thông qua theo thủ tục đơn giản hóa,
thì điều sửa đổi coi như bị bác bỏ. Tổng thư ký Liên hợp quốc thông báo ngay
việc đó cho tất cả các quốc gia thành viên.
Nếu 12 tháng sau ngày chuyển văn bản, không có một quốc gia
thành viên nào có ý kiến phản đối điều sửa đổi đã được đề xuất hay phản đối đề
nghị nhằm làm cho điều đó được thông qua theo thủ tục đơn giản hóa, thì điều
sửa đổi được đề xuất coi như được chấp thuận. Tổng thư ký thông báo cho tất cả
các quốc gia thành viên việc chấp nhận điều sửa đổi đã được đề xuất này.
ĐIỀU 314. Những điều sửa đổi đối với
các qui định của Công ước chỉ liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng
1. Qua biên bản gởi lên Tổng thư ký của Cơ quan quyền lực, mọi
quốc gia thành viên có thể đề nghị một điều sửa đổi đối với các qui định của
Công ước chỉ liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng, kể cả các qui
định của Mục 4 thuộc Phụ lục VI. Tổng thư ký gởi văn bản này cho tất cả các
quốc gia thành viên. Một khi Hội đồng chuẩn y, điểm sửa đổi được đề xuất phải
được Đại hội đồng chuẩn y. Đại biểu của các quốc gia thành viên có toàn quyền
để xem xét và thông qua điều sửa đổi được đề xuất. Đề nghị sửa đổi, như đã được
Hội đồng và Đại hội đồng chuẩn y, coi như được chấp thuận.
2. Trước khi chuẩn y một điều sửa đổi theo đúng khoản 1, Hội
đồng và Đại hội đồng phải biết chắc rằng điều sửa đổi không đụng chạm đến hệ
thống thăm dò và khai thác các tài nguyên của Vùng trong khi chờ đợi triệu tập
cuộc hội nghị xét duyệt lại theo đúng Điều 155.
Những điều sửa đổi đối với Công ước khi được thông qua, được để
ngỏ cho các quốc gia thành viên ký kết tại trụ sở của Liên hợp quốc ở Niu Oóc,
trong thời hạn là 12 tháng kể từ ngày thông qua các điều sửa đổi này, trừ khi
các điều sửa đổi đó có qui định khác.
Các Điều 306, 307 và 320 được áp dụng cho tất cả các điều sửa
đổi đối với Công ước.
Đối với các thành viên đã phê chuẩn hay đã tham gia công ước,
ngoài những điều đã nói ở khoản 5, sẽ có hiệu lực vào ngày thứ ba mươi tiếp sau
việc gửi lưu chiểu các văn bản phê chuẩn hay tham gia của hai phần ba số quốc
gia thành viên hay của 60 quốc qia thành viên, số lượng nào cao nhất sẽ được sử
dụng. Các điều sửa đổi không đụng chạm đến việc các quốc gia khác được hưởng
các quyền mà Công ước dành cho họ, cũng không đụng chạm đến việc họ thi hành
các nghĩa vụ bắt nguồn từ Công ước.
Một điều sửa đổi có thể trù định rằng, việc nó có hiệu đòi hỏi
phải có một số lượng quốc gia phê chuẩn hay tham gia cao hơn số lượng mà điều
này đòi hỏi.
Đối với một quốc gia đã phê chuẩn một điều sửa đổi nói ở khoản 1
hay đã tham gia vào điều sửa đổi đó sau ngày số lượng các văn bản phê chuẩn hay
tham gia cần thiết đã được lưu chiểu, điều sửa đổi này có hiệu lực vào ngày thứ
ba mươi tiếp sau ngày nộp lưu chiểu văn bản phê chuẩn hay tham gia của quốc gia
thành viên đó.
Bất kỳ quốc gia nào khi trở thành thành viên của Công ước, sau
khi một điều sửa đổi có hiệu lực theo đúng khoản 1, nếu không biểu thị một ý
định khác, thì được coi như là:
Thành viên của Công ước đã được sửa đổi; và
Thành viên của Công ước không được sửa đổi đối với mọi quốc gia
thành viên không bị ràng buộc bởi các điều sửa đổi.
Các điều sửa đổi chỉ nhằm vào các hoạt động tiến hành trong Vùng
và các điều sửa đổi đối với Phụ lục VI sẽ có hiệu lực đối với tất cả các quốc
gia thành viên sau ngày có ba phần tư số quốc gia thành viên nộp lưu chiểu các
văn bản phê chuẩn hay tham gia.
Mọi quốc gia khi trở thành thành viên của Công ước, sau khi các
điều sửa đổi nói trong khoản 5 có hiệu lực được coi như thành viên của Công ước
đã được sửa đổi.
Một quốc gia thành viên có thể từ bỏ Công ước, qua thông báo
viết gửi lên cho Tổng thư ký Liên hợp quốc, và nói rõ những lý do của việc từ
bỏ. Dù quốc gia thành viên này không nêu rõ lý do đó, thì việc từ bỏ vẫn không
vì thế mà vô hiệu lực. Việc từ bỏ có hiệu lực sau một năm kể từ ngày nhận được
thông báo, trừ khi trong thông báo có trù định một thời hạn chậm hơn.
Việc từ bỏ cũng không làm cho một quốc gia tránh khỏi các nghĩa
vụ về mặt tài chính và hợp đồng mà họ phải đảm nhận, khi mà quốc gia này còn là
thành viên của Công ước, và việc từ bỏ cũng không ảnh hưởng đến các quyển,
nghĩa vụ hay các địa vị pháp lý của quốc gia này bắt nguồn từ việc áp dụng Công
ước, trước khi Công ước không còn hiệu lực đối với quốc gia đó.
Việc từ bỏ không hề ảnh hưởng chút nào tới bổn phận của mọi quốc
gia thành viên phải làm tròn mọi nghĩa vụ đã nêu trong Công ước, mà quốc gia
này phải tuân thủ theo pháp luật quốc tế độc lập với Công ước.
Các phụ lục là bộ phận hoàn chỉnh của Công ước, một sự viện dẫn
Công ước cũng là một sự viện dẫn các phụ lục của nó và sự viện dẫn một phần của
Công ước cũng là sự viện dẫn các phụ lục có liên quan đến phần đó, trừ trường
hợp có quy định trái ngược rõ ràng.
Tổng thư ký Liên hợp quốc là người lưu chiểu Công ước và các
điều sửa đổi có liên quan đến công ước.
Ngoài chức năng của người lưu chiểu, Tổng thư ký Liên hợp quốc
còn:
Báo cáo cho tất cả các quốc gia thành viên, Cơ quan quyền lực và
các tổ chức quốc tế có thẩm quyền về các vấn đề mang tính chất chung xuất hiện
liên quan đến Công ước.
Thông báo cho Cơ quan quyền lực các văn bản phê chuẩn, xác nhận
chính thức và tham gia Công ước và các điều sửa đổi đối với Công ước, cũng như
các văn bản từ bỏ các Công ước;
Thông báo cho các quốc gia thành viên các điều ước được ký kết
theo đúng với Điều 311, khoản 4;
Chuyển cho các quốc gia thành viên các điều sửa đổi đã được
thông qua theo đúng Công ước để phê chuẩn hay tham gia;
Triệu tập các cuộc họp cần thiết của các quốc gia thành viên
theo đúng Công ước.
3. a) Tổng thư ký cũng chuyển cho các quan sát viên nói ở Điều
156: Các báo cáo nói ở khoản 2, điểm a;
Các thông báo nói ở khoản 2, điểm b và c;
Văn bản các điểm sửa đổi nói ở khoản 2, điểm d với tính chất để
thông báo.
b) Tổng thư ký cũng mời các quan sát viên này tham gia các hội
nghị của các quốc gia thành viên nói ở khoản 2 điểm e với tư cách là quan sát
viên
Nguyên bản của Công ước bằng tiếng Anh, Ả Rập, Trung Quốc, Tây
Ban Nha, Pháp, và Nga đều có giá trị chính thức như nhau và được lưu chiếu bên
cạnh Tổng thư ký Liên hợp quốc, theo Điều 305, khoản 2.
Để làm tin, các đại diện toàn quyền ký dưới đây là những người
được phép hợp thức ký vào Công ước.
Làm tại Môn-tê-gô Bay ngày mồng Mười tháng Mười hai năm Một ngàn
chín trăm tám mươi hai.
LIÊN HỢP QUỐC
=====================
Bản tiếng Anh xem
ở đây:
=====================
Mời xem bài liên quan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét