Thứ Bảy, 25 tháng 11, 2023

Báo Mỹ - 60 năm John Kennedy bị ám sát: GIẢ THUYẾT MỚI VỀ KẺ ÁM SÁT

 
John Kennedy và vợ tại thời điểm ngay trước khi bị ám sát

Trước khi đọc bài mới, kính mời coi lại bài Báo Politico (Mỹ) báo động: GEERT WILDERS THẮNG CỬ, HÀ LAN CHUẨN BỊ … ‘NIXIT’, TỨC RỜI BỎ EU và các bài:

1.  VÌ SAO KINH TẾ CHÂU ÂU RƠI VÀO HỐ ĐEN NHƯ THỜI 1930?- THẬT THÚ VỊ KHI THẤY CÂU TRẢ LỜI GIỐNG NHAU CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN CẢNH TOÀN VÀ V.PUTIN,

2. GS.TS Nguyễn Cảnh Toàn: SAU BORIS JOHNSON, CHÍNH KHÁCH NÀO CỦA PHƯƠNG TÂY SẼ RA ĐI DO KHỦNG HOẢNG CHÍNH TRỊ Ý THỨC HỆ VÀ KINH TẾ?

3. Báo Pháp dự báo: TRONG VÒNG 1 NĂM NỮA EU SẼ “BIẾN MẤT

4.  Báo Anh: CẢ CHÂU ÂU ĐANG BƯỚC VÀO KỶ NGUYÊN PHI CÔNG NGHIỆP HÓA  

5. CỰU TỔNG THỐNG PHÁP SARKOZY CÔNG KHAI LÊN ÁN SỰ LỆ THUỘC CỦA CHÂU ÂU VÀO MỸ VÀ KÊU GỌI CHÂU ÂU ĐÀM PHÁN VỚI PUTIN

Kính mời những ai biết tiếng Anh, xin hãy đọc bản gốc bài trên Tạp chí American Thinker (Mỹ) với tiêu đề A Plausible Explanation for JFK’s Assassination? – Dịch: Một lời giải thích hợp lý cho vụ ám sát JFK?

https://www.americanthinker.com/articles/2023/11/a_plausible_explanation_for_jfks_assassination.html

Dưới đây, Google.tienlang xin dịch bài báo này….

******

 A Plausible Explanation for JFK’s Assassination? – Dịch: Một lời giải thích hợp lý cho vụ ám sát JFK?

Nhân kỷ niệm 60 năm vụ ám sát Tổng thống Kennedy (22/11/1963 – 22/11/2023), Tạp chí American Thinker (Mỹ ) đang thách thức các giả thuyết cho rằng đám đông hoặc phe cực hữu đã giết chết Kennedy. Kẻ nổ súng, Lee Harvey Oswald, là gánh nặng của nước Mỹ. Ông sống như một người tái định cư ở Liên Xô. Và sau đó tôi quyết định thử Cuba - cho một dịch vụ.

Thuyết âm mưu không thực sự làm tôi bận tâm. Chà, bạn biết đấy, về thực tế là đất nước chúng ta đã được cai trị bởi Hội Tam điểm kể từ khi thành lập, v.v. Vì vậy, tôi đã bác bỏ trước phần lớn các bài viết về vụ ám sát John Kennedy. Dao cạo của Occam là quá đủ. Nhưng gần đây, một giả thuyết về lý do John Fitzgerald Kennedy bị ám sát đã khiến tôi mất thăng bằng về mặt tinh thần. Nó khiến tôi quan tâm chính xác bởi vì... chẳng có gì về một âm mưu cả. Lời giải thích đơn giản hơn mức bình thường về chủ đề này, không có bí mật nào của tòa án Madrid và có rất nhiều bí mật xoay quanh vấn đề này. Phiên bản này liên quan đến Cuba, mặc dù chỉ là gián tiếp.

Bạn có thể hỏi: cái gì, bạn không tin vào những âm mưu chút nào? Không, tất nhiên, những âm mưu được thêu dệt và những cuộc đảo chính liên quan đến chúng sẽ xảy ra. Kết quả của một trong số đó là Lincoln đã bị giết.

'Nhà nước ngầm' không phải là điều bạn nghĩ

Bạn chỉ cần hiểu rằng “nhà nước ngầm” khét tiếng giống một hệ thống kết nối hơn là một nhóm người cụ thể. Các thành viên của “chính phủ vĩnh cửu”, tức là các bộ phận của bộ máy quan liêu liên bang gắn kết với nhau thông qua các cơ quan tình báo và an ninh, đang thực sự bảo vệ phạm vi ảnh hưởng của mình nhằm khẳng định quyền lực và kiếm tiền bằng cách gây bất lợi cho chính phủ. Người Mỹ. Eisenhower cũng cảnh báo về “tổ hợp công nghiệp-quân sự” và Truman về CIA.

Khi Trump bước vào hiện trường, “nhà nước ngầm” dần bắt đầu lộ diện từ trong bóng tối. Hoặc vì kiêu ngạo, hoặc vì sợ hãi, hoặc vì cả hai cùng một lúc, nhưng các thành viên của “trạng thái sâu” đã xác nhận sự tồn tại của họ. Theo nghĩa này, lời thú nhận của người lãnh đạo đa số Thượng viện hiện nay thuộc Đảng Dân chủ, Chuck Schumer, mang tính biểu thị: “Nếu bạn đi ngược lại tình báo, thì từ Thứ Hai đến Chủ Nhật, họ sẽ tìm ra ít nhất một cách mỗi ngày để trả đũa."

Nhà kính của các phiên bản và lý thuyết

60 năm trước John Kennedy bị ám sát. Điều này xảy ra vào ngày 22 tháng 11 tại Dallas. Tuy nhiên, các “điều tra viên” đồng ý rất ít, ngoại trừ việc Kennedy thực sự bị giết và không giả vờ chết. Nhưng ai đã làm điều đó và tại sao—nhiều giả thuyết đã nở rộ ở đây. Đủ cho cả một nhà kính. Bạn có thể nói rằng cả một ngành công nghiệp đã phát triển nhờ hoạt động kinh doanh này. Nhiều người khoe rằng họ đã giải được một câu chuyện trinh thám từ 60 năm trước. Nhưng phần lớn là khoe khoang. Các tình huống được phóng đại và những phỏng đoán thường được trình bày như sự thật. Giải pháp thực sự cho cái chết của Kennedy sẽ chỉ gây tổn hại cho doanh nghiệp.

Trong bản tin tháng 11 năm 2023, các tác giả của Dự án Thống kê Đạo đức Tư pháp đã báo cáo:

“Chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu và Lưu trữ Ám sát James Lesar, người đồng sáng lập tổ chức phi lợi nhuận vào năm 1984, ước tính rằng hơn 2.500 cuốn sách đã được xuất bản, trực tiếp hoặc gián tiếp, về vụ ám sát Kennedy.”

Phiên bản phong cách kết hợp

Phiên bản nào bạn yêu thích nhất? Khrushchev và Liên Xô? CIA? Xã hội đen? Lyndon Johnson? Castro? Có lẽ Kennedy đã bị người sao Hỏa bắn từ bãi cỏ bên cạnh? Hay bạn thích một “kết hợp bánh sandwich”, tức là một sự kết hợp kỳ lạ nào đó giữa thứ này, thứ kia và thứ ba? Giả sử Lyndon Johnson âm mưu với mafia, và họ đã lấy người sao Hỏa làm phần của mình - và đuổi người đứng đầu “vùng đất tự do” bằng những nỗ lực chung của họ?

Hay có một âm mưu của những người cực hữu điên cuồng ở Mỹ liên minh với những người Cuba lưu vong chống cộng nhớ nhà, như Oliver Stone đã miêu tả trong bộ phim bom tấn JFK năm 1991 của ông? ( Phim của Stone được đặt tên là JFK theo những chữ cái đầu tiên trong tên của Kennedy - John Fitzgerald Kennedy - ghi chú của Người dịch.) Hoặc đại loại như thế.

Vậy chúng ta biết gì? Kennedy bị bắn bởi một người tên Oswald - giống như Lee Harvey. Hoặc dừng lại. Có lẽ không phải sau tất cả? Một số “điều tra viên” thề và thề rằng Oswald không thể là kẻ xả súng. Hoặc có một vài trong số họ? Họ nói rằng Oswald chỉ đơn giản yêu thích khẩu súng trường Carcano Fucile di Fanteria 91/38 của Ý. Đến nỗi anh đã đưa cô đi làm vào buổi sáng xảy ra vụ ám sát Kennedy - theo những người hâm mộ những lý thuyết phức tạp, chỉ như vậy thôi, một cách tình cờ.

Oswald làm việc tại kho lưu trữ sách trường học Texas, tình cờ hay âm mưu? - thấy mình đang ở ngay trên đường đoàn xe của Kennedy đi qua Dallas. Những người theo thuyết âm mưu: "Làm sao Oswald biết được?" Đừng lo lắng: lộ trình của đoàn xe đã được đăng trên tờ Dallas Times Herald và Dallas Morning News vào tối hôm trước, cũng như vào buổi sáng xảy ra vụ án mạng.

Phiên bản mà Oswald bị “đóng khung”

Và Oswald có đi làm ngày hôm đó không? Họ nói rằng tổ của lính bắn tỉa và khẩu súng trường Carcano, được tìm thấy trên tầng 6 của kho lưu trữ sách, là một "sự dàn dựng". Ai đã làm điều này? Phải chăng đó chính là kẻ mạo danh đã tạo dáng trong bức ảnh đen trắng nổi tiếng của Oswald, được cho là với một tờ báo và một khẩu súng trường Carcano trên tay? Nếu bạn tin những người ủng hộ “thuyết âm mưu” thì mọi thứ xung quanh đều là sự thay thế hoàn toàn: bức ảnh, khẩu súng trường và “tổ bắn tỉa”...

Nhưng những người hâm mộ những quyết định khó khăn không bỏ cuộc: nghe họ nói, Oswald “chỉ là vật tế thần”. Chính anh ta đã tuyên bố điều này trước camera với cảnh sát. Đúng, chỉ sau khi anh ta bị bắt vì bắn cảnh sát Jay Tippit, người đang cố gắng giam giữ anh ta trong khi cố gắng trốn thoát. Tại sao lại bắn cảnh sát nếu bạn vô tội? Có phải Oswald thực sự cũng bị gài bẫy ở đây không?

Vụ giết người của kẻ giết người làm lẫn lộn dấu vết của anh ta

Chủ câu lạc bộ thoát y Carousel ở Dallas, Jack Ruby, đã bắn Oswald ở cự ly gần. Vụ nổ súng này cũng đã được ghi lại trên video. Chuyện này xảy ra tại Sở cảnh sát Dallas khi Oswald đang được chuyển đến một nhà tù khác. Tiếng súng vang lên khi Oswald đang được dẫn qua tầng hầm của gara. Không cần thiết phải bày ra một âm mưu lớn về việc làm sao Ruby lại đến được đó. Anh ta thích đi chơi với cảnh sát và hòa nhập tốt với họ. Bây giờ thật khó để tưởng tượng, nhưng khi đó ý tưởng về an ninh đã hoàn toàn khác: công dân bình thường vẫn được phép ở một số nơi.

Những người theo thuyết âm mưu một lần nữa: Ruby là một sát thủ được gửi đến bởi mafioso Sam Giancana và những tên xã hội đen khác, một số nhà lý thuyết âm mưu cho biết. Hoàn toàn không, Bert Griffin, một cựu nhân viên của Ủy ban Warren, bác bỏ (nhân tiện, bản thân ủy ban không phải là giả sao?). Griffin đã được phỏng vấn bởi NBC 5 của Chicago nhân kỷ niệm 50 năm vụ án mạng.

Griffin nói:

“Anh ấy [ Ruby ] tin rằng vụ ám sát tổng thống là một phần của âm mưu bài Do Thái nhằm đổ lỗi mọi thứ cho người Do Thái. Vào buổi sáng xảy ra vụ ám sát, tờ Dallas Morning News đã xuất bản một tài liệu về chiến dịch chống Kennedy có chữ ký của một Bernard Weissman nào đó. Ruby thực sự bị ám ảnh bởi bài báo này và tin rằng nó có thể kích động tình cảm bài Do Thái.”

Vâng, âm mưu đã bị phá vỡ? Không, không phải trong đầu mọi người

Việc viết những lời bác bỏ những thuyết âm mưu được mọi người yêu thích là vô ích. Bạn có thể viết hết trang này đến trang khác về các sự kiện, con người, tổ chức và động cơ của họ. Nhưng nó vô nghĩa. Hầu hết người Mỹ đều tin rằng John Kennedy chết một cách bi thảm do một âm mưu. Ý tưởng rằng Oswald hành động một mình không gây ra điều gì ngoài nụ cười toe toét ở một người bình thường khi tìm hiểu chi tiết.

Vì vậy, chúng ta hãy chuyển sang phiên bản của một âm mưu giả, có vẻ khá chính đáng. Dù sao thì rất có thể chúng ta sẽ không bao giờ biết được sự thật - đây là những luật bất thành văn của thể loại này.

Hãy lắng nghe Gus Russo. Bảo tàng Mob Las Vegas mô tả Gus Russo là một phóng viên, nhà văn và nhà sản xuất. Anh ta chuyên điều tra nhiều kế hoạch xảo quyệt khác nhau nhằm ám sát Fidel Castro, được phát triển theo lệnh của chính Tổng thống Mỹ Kennedy. Bản thân Gus Russo cũng có mặt trong hội đồng quản trị của Bảo tàng Mob.

Và chiếc hộp nhỏ vừa mở ra: Oswald muốn tới Cuba

Năm ngoái, trong một bài viết dài trên trang web của bảo tàng, Russo đã giải thích động cơ của Oswald. Hóa ra mọi thứ khá đơn giản. Oswald đã một mình giết Kennedy. Và tất cả là để gây ấn tượng với Fidel Castro. Vụ ám sát John Kennedy, như Oswald tin tưởng, không phải không có lý do, sẽ mang lại cho ông tấm vé đến Cuba.

Chúng tôi đọc trong bài viết:

“Chúng tôi cũng biết rằng Oswald đã bất ngờ tấn công đại sứ quán Cuba ở Mexico và khiến họ bối rối với đề xuất giết Kennedy. Sau đó, các đặc vụ Cuba ngồi một lúc lâu và vắt óc: “Chúng ta nên làm gì với anh chàng này?”

"Ném ra khỏi máy bay qua Vịnh Mexico"

Cuối cùng, Russo tuyên bố, họ ủng hộ hy vọng của Oswald, quyết định rằng dù sao thì họ cũng chẳng còn gì để mất, mặc dù họ tin rằng sẽ rất khó để thực hiện được điều đó. Người Cuba không đóng vai trò trực tiếp trong vụ ám sát. Nhưng Castro và các đặc vụ Cuba của ông ta có động cơ muốn Kennedy chết. Suy cho cùng, chính Jack và Bobby Kennedy đã cùng với CIA thực hiện “Chiến dịch Mongoose” nhằm loại bỏ Castro.

Chúng ta đọc thêm từ Rousseau:

“Họ [ người Cuba ] đã hứa với Oswald một điều gì đó, theo những gì chúng tôi biết. Nhưng một lần nữa, điều này chưa bao giờ được xác lập trước tòa, tôi chỉ có thể chuyển tiếp những gì đã nói với chúng tôi. Hai nguồn tin ở Mexico City có quan hệ với tình báo Cuba thừa nhận: “Chúng tôi đã hứa với Oswald rằng chúng tôi sẽ cứu anh ta nếu anh ta thành công. Và chúng tôi sẽ chở anh ấy đến Havana.”

Tuyên bố kỳ lạ. Theo Russo, người ta cho rằng Oswald sau đó sẽ đến một sân bay tư nhân, nơi anh ta sẽ được máy bay Cuba đón. Cuộc trốn thoát bị cản trở bởi vụ sát hại của Tippit. Tuy nhiên, người Cuba sẽ loại bỏ Oswald trong mọi trường hợp. Chúng tôi định thả nó xuống Vịnh Mexico. Chúng tôi sẽ không đi chơi với anh ấy, các nguồn tin được cho là đã nói với Russo.

Johnson, Dulles và Robert Kennedy

Liệu Castro có cử máy bay đến Dallas để đón Oswald ngay sau vụ ám sát Kennedy không? Rủi ro là quá lớn. Nếu các nhà báo biết được điều này, Lyndon Johnson sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tự mình loại bỏ Castro. Nhưng Liên Xô sẽ không dám can thiệp sau chuyện này.

Russo cho biết: Johnson, Bộ trưởng Tư pháp Bobby Kennedy và cựu giám đốc CIA Allan Dulles không muốn hoạt động ám sát Castro nổi lên như một phần cuộc điều tra của Ủy ban Warren. Vì vậy, họ quyết định cắt đứt mối liên hệ của Oswald với đại sứ quán Cuba và ngăn chặn nó. Vào đỉnh điểm của Chiến tranh Lạnh, Johnson lo sợ rằng mối liên hệ của Oswald với Cuba, dù có mong manh đến đâu, cũng sẽ gây ra một cuộc chiến tranh lớn.”

Vì vậy, ở đây bạn đi. Âm mưu giả.

Đối với nhiều người, vụ ám sát Kennedy sẽ vẫn là một câu chuyện trinh thám. Hơn nữa, từ lâu đã phát triển đến mức thực sự huyền thoại.

Nếu không có cái ngày khủng khiếp năm 1963 đó, nước Mỹ có thể đã đi một con đường hoàn toàn khác. Có lẽ John Kennedy, như những người ủng hộ ông tuyên bố, sẽ không ủng hộ và mở rộng sự can dự của Mỹ vào Việt Nam - không giống như Lyndon Johnson. Có lẽ 58.220 lính Mỹ sẽ không thiệt mạng ở đó. Và những biến động, bước ngoặt xã hội sau chiến tranh cũng sẽ không xảy ra.

Có lẽ vậy. Nhưng cuối cùng, tất cả chỉ là suy đoán.

Tác giả: Jay Robert Smith

Nguyễn Thành Trung - Cộng tác viên Google.tienlang Dịch và Giới thiệu

Mời xem bài liên quan:

1. Nhắn cụ Biden: NÂNG CẤP THÌ NÂNG CẤP, NHƯNG VIỆT NAM LUÔN CẢNH GIÁC KHÔNG ĐỂ MỸ BIẾN HÀ NỘI THÀNH KIEV

2JOE BIDEN THĂM VIỆT NAM VÀ CÁI NGU, CÁI HÈN CỦA BÁO CHÍ VIỆT NAM 

3. Báo Sao và Sọc (Mỹ) cho biết: TÀU CHIẾN MỸ XÂM PHẠM VÙNG BIỂN CÔN ĐẢO CỦA VIỆT NAM 

4. CÓ PHẢI MỸ CÓ “LỢI ÍCH CỐT LÕI” Ở VÙNG BIỂN CÔN ĐẢO VÀ TRƯỜNG SA?

5. Báo Yahoo News Nhật Bản: SỰ THẬT UKRAINA NGAY TỪ ĐẦU ĐÃ KHÔNG THỂ CHIẾN THẮNG VÀ SỰ DỐI TRÁ CỦA THUYỀN THÔNG PHƯƠNG TÂY

6. BÁO MỸ TIẾT LỘ: HOA KỲ ĐÃ ĐẠO DIỄN CHO ELTSIN TRÚNG CỬ TỔNG THỐNG NHIỆM KỲ II RA SAO.

7. Video clip - Phát hiện lý thú của một nhà báo Mỹ: V.PUTIN LÀ NGUYÊN THỦ DUY NHẤT TRÊN THẾ GIỚI…KIÊNG RƯỢU BIA

8. Báo Mỹ thừa nhận: TRONG SUỐT THẾ KỶ NAY, PHONG CÁCH CHIẾN TRANH CỦA MỸ CÓ NGHĨA LÀ GIẾT HẠI DÂN THƯỜNG

9. Bạn nên biết: CỰU TỔNG THỐNG HOA KỲ JIMMY CARTER KHẲNG ĐỊNH “HOA KỲ LÀ QUỐC GIA HIẾU CHIẾN NHẤT THẾ GIỚI”

10. Báo Politico (Mỹ) báo động: GEERT WILDERS THẮNG CỬ, HÀ LAN CHUẨN BỊ … ‘NIXIT’, TỨC RỜI BỎ EU

11. VÌ SAO TỔNG THỐNG NGA PUTIN 'NGHI NGỜ EU LÀ MỘT LIÊN MINH BÌNH ĐẲNG'? (CÓ VIDEO)

12. Báo Mỹ - 60 năm John Kennedy bị ám sát: GIẢ THUYẾT MỚI VỀ KẺ ÁM SÁT

17 nhận xét:

  1. Tôi cho rằng Kẻ ám sát Tổng thống Mỹ John Kennedy (22/11/1963 – 22/11/2023) chính là người Việt Nam- tay chân của Ngô Đình Diệm- Kẻ bị người Mỹ ám sát ngày 02/11/1963.
    Họ quyết định xử John Kennedy là để trả thù cho Ngô Đình Diệm.

    Trả lờiXóa
  2. Vụ ám sát Ngô Đình Diệm và J.F.Kennedy
    Tác giả: Bradley S. O'Leary & Edward Lee.
    Dịch giả: Phạm Viêm Phương, Mai Sơn.
    Nguồn: sachhiem.


    Lời tác giả


    Bạn có biết rằng John F. Kennedy (JFK) đã chuẩn bị việc lật đổ chính phủ công giáo ở Nam Việt Nam?

    Nếu bạn có kiến thức trực tiếp về các nguồn cội của chiến tranh Việt Nam, có lẽ bạn không tin vào tuyên bố trên, và có lẽ bạn không tin vào nó cho dù bạn hầu như chẳng biết gì về cuộc chiến tranh này. Quốc gia Việt Nam, sau cùng, là đồng minh của chúng ta. Vì lý do gì mà Kennedy lại phải ủng hộ việc lật đổ một lãnh tụ đồng minh?

    Chúng ta đang nói về một người có tên là Ngô Đình Diệm. Ông ta đã là tổng thống của Nam Việt Nam được chín năm. Hầu hết các sách lịch sử đều nói với chúng ta rằng JFK ủng hộ Diệm, và đã ủng hộ suốt nhiều năm. Chính vì Diệm và JFK cam kết sử dụng quân đội Mỹ, quân cụ Mỹ, và hàng triệu đô la từ tiền thuế của dân Mỹ trong một nỗ lực nhằm giúp Nam Việt Nam thoát khỏi mối đe doạ của cộng sản. Diệm là đồng minh của chúng tôi, nên thật sự vô lý khi tin rằng Kennedy muốn lật đổ ông ta. Thế nhưng Diệm đã bị lật đổ và lập tức bị giết chết.

    Ba tuần sau cái chết của Diệm, chính Kennedy cũng bị ám sát. Bây giờ có một chủ đề mà tất cả chúng ta đều nghe nói tới: cái chết của JFK, một sự cố có lẽ là ám sát bí ẩn nhất của mọi thời đại. Hàng chục giả thiết đã phát triển quanh vụ ám sát Kennedy trong gần bốn mươi năm qua, tuy rằng chỉ có hai cuộc điều tra chính thức đã được tiến hành.

    Những uỷ ban điều tra này của Chính phủ Mỹ đã nói với bạn nhiều chuyện. Bạn được nghe nói rằng chỉ một tay súng đơn lẻ có tên Lee Harvey Oswald là kẻ ám sát. Bạn cũng nghe nói là chỉ có hai phát súng trúng đích vào ngày 22.11.1963 đó, và có một phát bắn hụt. Bạn đã nghe nói rằng những phát đạn bắn ra ngày hôm đó đều xuất phát từ tầng sáu của Kho sách Giáo Khoa Texas. Bạn đã nghe nói rằng JFK bị giết bởi vì ông đang chuẩn bị rút toàn bộ quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam

    Tất cả những điều mà bạn được nghe nói đó đều sai sự thật, nhưng cuốn sách này sẽ tiết lộ sự thật đích thực. Sách này sẽ giải thích rằng Robert Kennedy không muốn cho điều tra về cái chết của ông anh mình vì việc đó có thể phơi bày chuyện ông ta, JFK, và toàn bộ Nhà Trắng dưới thời Kennedy, đã vạch ra các kế hoạch hành động nhằm ám sát Fidel Castro sau vụ xâm nhập Vịnh Con Heo, nhưng chỉ vài ngày trước khi bị ám sát, tổng thống đã bí mật lập kế hoạch tiến hành việc lật đổ và sau cùng hạ sát các lãnh tụ theo đạo Thiên chúa giáo của Nam Việt Nam và trao chính quyền cho một tập đoàn tướng lĩnh theo đạo Phật. Bạn sẽ thấy rằng bộ não của JFK – một vật chứng quan trọng có giá trị pháp lý – đã bị một Đô đốc Hải quân Mỹ đánh cắp, theo lệnh của Robert Kennedy.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Chúng tôi hy vọng bạn biết ra nhiều điều do đọc cuốn sách này.

      Những tài liệu được giải mật gần đây liên quan đến chiến tranh Việt Nam, KGB, Mafia Mỹ, Mật vụ Pháp, và tập đoàn ma tuý quốc tế đã rọi một luồng sáng mới đáng quan tâm vào những sự kiện chung quanh vụ ám sát JFK ngày 22.11.1963. Những tài liệu này đưa ra vô số những mảnh rời mới khớp với câu đố có từ gần bốn mươi năm qua đã kết thúc cuộc đời của vị tổng thống được yêu thích nhất của nước Mỹ.

      Sau đây là một số điều mà bạn sẽ biết được từ cuốn sách này:

      Đích thân trùm Mafia Carlos Maecello đã gặp Jack Ruby và Lee Harvey Oswald, và y ta, Marcello, đã nói lộ ra một cách có thể xác minh với các quan chức Liên bang rằng y đã trực tiếp dính líu vào vụ ám sát Kennedy.

      Mỹ và Liên Xô đều báo động quân sự khẩn cấp ngay sau cái chết của JFK, tránh cho nhân loại một cuộc huỷ diệt hạt nhân trong đường tơ kẽ tóc.

      JFK đã đích thân yêu cầu một sĩ quan cao cấp trong Quân đội Mỹ tiến hành ám sát Tổng thống Diệm.

      Nhưng quan trọng hơn tất cả nhiều điều đó, cuốn sách này sẽ cho bạn thấy một tài liệu của CIA mà nó có thể là bằng chứng gây chấn động nhất từng nảy sinh từ mớ bòng bong quanh cái chết của JFK.

      Tài liệu này xác định rằng một tay ám sát quốc tế đã bị chính quyền Dallas, bang Texas bắt giữ trong vòng chưa tới hai ngày sau khi Kennedy bị bắn, và thay vì tống giam người này, các cơ quan công quyền đó đã bí mật đưa tay ám sát đó ra khỏi lãnh thổ Mỹ và trả tự do cho y.

      Chúng tôi sẽ trình cho các bạn thâý tài liệu đó cùng nhiều thứ khác nữa, và rồi chúng tôi sẽ trình bày giả thiết của mình cùng tất cả những mối liên hệ đáng tin đã nối kết chặt chẽ những thông tin trên để kết luận rằng hợp đồng giết tổng thống Kennedy không xuất phát từ CIA hay liên minh quân sự – công nghiệp mà từ một sự hợp tác giữa Mafia Mỹ, tập đoàn bạch phiến Pháp, và chính quyền Nam Việt Nam.

      Tháng 7.2000

      BRADLEY S.O’LEARY & EDWARD LEE

      Xóa
  3. MỘT CHÀNG TRAI HỐI HẢ

    “Đừng đòi hỏi tổ quốc làm được gì cho bạn…” - JOHN F.KENNEDY


    Những năm đầu thập niên 60 là những năm đầy biến động đối với nước Mỹ. Chỉ cách bờ biển Florida chín mươi dặm, Cuba nằm trong tay một nhà cộng sản lập dị. Một cuộc chiến tranh “lạnh” mới lạ giữa Mỹ và Liên Xô đang xảy ra, Thế chiến thứ 3 có vẻ như chực bùng nổ. Kinh tế biến động, và những bất ổn chủng tộc đang sục sôi. Nước Mỹ không ổn

    Vào năm 1960, một Thượng nghị sĩ trẻ trực tính của bang Massachusetts tên là John Fitzgerald Kennedy trở thành tổng thống thứ 35 của nước Mỹ. Ơû tuổi 43 ông là người trẻ tuổi nhất, người Thiên chúa giáo đầu tiên và duy nhất từ trước đến nay được bầu vào cương vị này. Kenned hứa hẹn với dân chúng Mỹ một Biên cương mới, và trong một nghĩa nào đó ông đã cho họ đúng điều đó. Ông cho nước Mỹ cái mà nó cần nhất lúc đó : hy vọng.

    Vụ ám sát ông ở Dallas, ngày 22.11.1963 sẽ trở thành cái mà hầu hết mọi người đều coi là tội ác của thế kỷ, nếu không muốn nói đó là vụ ám sát gây biến động lớn nhất trong lịch sử. Nhưng cũng chính vụ ám sát đó đã gieo quá nhiều bóng tối lên cuộc đời thực của con người này. Khi một người bình thường nghĩ tới Kennedy, trong đầu họ lập tức hiện lên vụ ám sát. Nhưng chúng ta hãy để cho họ có cái quyền đó trước đã. JFK đạt được nhiều thành công trước và trong suốt 1.037 ngày làm tổng thống, nhưng đa số những thành công này đã bị che khuất bởi cái chết chấn động của ông.

    Ngay cả trước khi bắt đầu sự nghiệp chính trị, Kennedy đã chứng tỏ tài năng quyết đoán và lãnh đạo của mình trong Thế chiến thứ 2. Khi chiếc tàu ngư lôi tuần thám của Kennedy bị một tàu khu trục của Nhật đánh chìm gần đảo Solomon, JFK đã dũng cảm đưa thuỷ thủ đoàn sống sót về đến bến an toàn. Do hành động anh hùng này, vị tổng thống tương lai được tặng các huy chương của Hải quân và Thuỷ quân lục chiến.

    Trên phương diện chính trị, Kennedy là người chống cộng kiên định, mặc dù ông công khai chỉ trích – rất ngược lại với những ý muốn của cha ông – chủ trương “Tìm và Diệt bọn Đỏ” của Thượng nigh sĩ bang Wisconsin Joseph McCarthy, người đã trở nên nổi danh với những chiến dịch khai trừ đầu những năm 50. JFK là tác giả có sách bán chạy nhất; cuốn sách triển khai luận văn đại học của ông, Why England Slept (“Tại sao nước Anh ngủ”), xuất bản năm 1940, đưa ra tài liệu cho thấy Vương quốc Anh không có khả năng thích hợp trong việc chuẩn bị tham gia Thế chiến 2. Cuốn sách bán rất chạy và đưa chàng trai John Kenendy vào danh sách best-seller. Một thành công không nhỏ cho một cậu thanh niên hăm ba tuổi.

    Cuốn sách tiếp theo của JFK, Profile in Courage (“Những chân dung của lòng dũng cảm”), thậm chí còn thành công hơn vào năm 1957 khi nó được trao giải thưởng cao quý Pulizer. Cuốn sách miêu tả các lãnh tụ chính trị đương thời, và phần lớn cuốn sách được JFK viết trong thời gian tập luyện hồi phục sau lần mổ lưng nguy kịch.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Kennedy đắc cử vào Hạ nghị viện Mỹ ba nhiệm kỳ liên tiếp (1947-53), và rồi tiếp tục giành được ghế thượng viện ở Massachussetts, hoàn toàn đánh bại ứng cử viên Đảng Cộng hoà Henry Cabot Lodge, một người chống đạo Công giáo và rất cứng rắn. JFK có vẻ là một mẫu người chinh phục mới , quật ngã tất cả các đối thủ ngay tại chỗ bằng tài nói chuyện hùng biện sắc gọn, và sự thành thạo các vấn đề được cử tri quan tâm nhất. Một nhà báo thậm chí đã mô tả ông là “Một chàng trai hối hả”(1) [(Encyclopedia Britannica, Kennedy, John Fritzgerald)] một cách nói không thể nào thích hợp hơn : Jack Kennedy dấn thân vào sự nghiệp chính trị như một người chạy nước rút vượt qua mọi chướng ngại, không bao giờ giảm tốc độ để quay nhìn lại. Tiếng tăm càng ngày càng lên cao, và năm 1958, ông đắc cử Thượng nghị sĩ nhiệm kỳ thứ hai tại Massachussets với số phiếu chênh lệch lớn nhất so với bất kỳ cuộc chạy đua nào vào Thượng viện năm đó.

      Quả thật Kennedy chưa bao giờ thất cử.

      Trong vai trò tổng thống, ông luôn đối đầu với những vấn đề gai góc, ông tán thành việc cải cách quyết liệt các quyền dân sự, ủng hộ Mỹ chạy đua vào không gian, gây sức ép buộc Pháp trao trả độc lập cho Algeria. Ông tuyên chiến với những kẻ thù chung của con người: “…độc tài, đói nghèo, bệnh tật, và bản thân chiến tranh”(2) [(sđd)] và không một người Mỹ nào quên được bài diễn văn “Đừng đòi hỏi” lừng danh của ông.

      Những công trạng nào nữa? Đa số những độc giả am hiểu đều biết rằng JFK là người lập ra Đội Hoà Bình, nhưng mấy ai biết ông cũng chính là người lập ra Liên Minh Vì Sự Tiến Bộ, một tổ chức lôi cuốn công chúng giành sự giúp đỡ và khích lệ cho Châu Mỹ La Tinh? Bạn có biết Kennedy cũng đã ký hiệp ước đầu tiên cấm thử vũ khí hạt nhân? Và bạn có biết, dù là người của Đảng Dân Chủ phóng khoáng, Kennedy vẫn coi một trong những việc mạo hiểm lớn nhất của mình là chương trình cắt giảm thuế một cách sâu rộng? Thậm chí người ta còn cho rằng chiến dịch cắt giảm thuế trên quy mô rộng lớn của Kennedy, dẫn đến sự tăng trưởng kinh tế kỳ lạ, cuối cùng đã tỏ ra là một kiểu mẫu cho trước những luận thuyết cắt-giảm-thuế bảo thủ của những năm đầu thập niên 80 vốn đã giảm hẳn lạm phát và thất nghiệp, và trên thực tế, nó đã tạo thêm nguồn thu cho chính phủ bằng cách tăng thêm nhiều việc làm. (Rất tiếc, mặc dù cố vận động cho biện pháp này tại Quốc hội, Kennedy đã chết trước khi nó trở thành luật, và hầu hết những công trạng lịch sử của bước đi táo bạo này – cũng như cải cách về các quyền dân sự của Kennedy – sẽ rơi vào tay người thừa nhiệm không thích hợp của ông, Lydon Baines Johnson).

      JFK thực sự là “một chàng trai luôn hối hả.” Nhưng điều duy nhất mà ông thực sự hối hả hướng đến lại là cái chết của ông ta, vì với tư cách tổng thống, ông sẽ phải thừa kế một gánh nặng gay go hơn bất cứ điều gì khác....Việt Nam

      Xóa
  4. NGUỒN GỐC CỦA HỖN LOẠN

    “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng.
    Tạo hoá ban cho họ một số quyền bất khả nhượng” - HỒ CHÍ MINH, 1945

    Thực sự là có nhiều cuộc chiến tranh Việt Nam, và nếu từng có một nền văn minh nào đã sớm nếm trải xung đột bạo lực, thì đó là văn minh Việt Nam. Chiến tranh là một phần của cuộc sống cứ như việc sinh ra và chết đi vậy. Xuất xứ của người Việt có lẽ là ở gần Đồng bằng Sông Hồng, ngày nay gọi là miền bắc của quốc gia này, cách đây khoảng ba ngàn năm. Sự cố kết của nền văn hoá nguyên thuỷ của họ, theo nhiều nhà nhân chủng học, có thể nhận dạng được qua nghệ thuật sơ khai, tục xâm mình, và thói quen ăn trầu (một chất kích thích như cà phê), đến nay vẫn còn và để lại những vết ố trên răng. Tự điển Encyclopedia Britanica nêu rõ:

    “Mặc dù văn minh Trung Quốc về sau trở thành một ảnh hưởng chính, nhưng việc người Trung Quốc đã không đồng hoá được người Việt Nam đã cho thấy những yếu tố mạnh mẽ của văn hoá bản địa xác thực đã xuất hiện ở thung lũng Sông Hồng từ rất lâu trước khi Trung Quốc thiết lập nền đô hộ một ngàn năm của họ ở Việt Nam”.

    Thật vậy, chính Trung Quốc đã tiến hành những cuộc chiến tranh đầu tiên xâm lăng Việt Nam; Trung Quốc rất quan tâm đến đất đai màu mỡ của đồng bằng Sông Hồng và việc sử dụng nó như một thương cảng. Lúc ấy người Trung Quốc đã dại dột tìm cách nô lệ hoá người Việt Nam vì những mụch đích riêng của họ đồng thời tìm cách thay thế văn hoá và tín ngưỡng Việt Nam bằng văn hoá và tín ngưỡng riêng của họ. Nỗ lực này không thành, và vào năm 40 sau công nguyên, hai chị em người Việt – Trưng Trắc và Trưng Nhị – đã khởi binh đánh tan các đạo quân Trung Quốc chiếm đóng và giành độc lập trọn vẹn cho Việt Nam trong ba năm. Đó không phải là một thành tích tồi đối với một nền văn hoá nhỏ bé đương đầu với con rồng vĩ đại Trung Quốc.

    Cuộc nổi dậy đầu tiên chống lại nền chuyên chế của một nước lớn đó chỉ là khởi đầu cho nhiều cuộc nổi dậy khác. Qua nhiều thế kỷ. Trên thực tế, sau này nhân dân Việt Nam sẽ bị Trung Quốc đô hộ…nhưng họ không bao giờ ngừng tranh đấu giữ gìn bản sắc riêng của mình, cũng không bao giờ chịu thống trị hoàn toàn trước nền thống trị của Trung Quốc. Sự yêu chuộng tinh thần Việt Nam đích thực đã bắt đầu như thế. Dù bị đàn áp nặng nề tới đâu, họ không bao giờ thôi chiến đấu chống lại những kẻ áp bức, họ không bao giờ đầu hàng. Gia đình và văn hoá của họ là những ưu tiên hàng đầu, và ngay cả khi bị người Trung Quốc cai trị hà khắc, họ vẫn trui rèn kỹ năng đề kháng của mình. Chính những kỹ năng này sẽ được mài sắc thêm mãi cho đến khi họ giành được độc lập hoàn toàn hai ngàn năm sau đó.

    Họ không bao giờ đầu hàng.

    Vào cuối những năm 1850, một thế lực đàn áp mới xuất hiện. Nước Pháp, với vũ khí tối tân và chiến lược quân sự tốt hơn, đã tuyên bố quyền cai trị của mình trên quốc gia này, họ dùng tới danh Chúa Trời để tìm kiếm thương trường cực kỳ cần thiết ở nước ngoài. Nước Pháp đã mất mười sáu năm để áp đặt thành công quyền lực đế quốc lên những vùng đất mà họ gọi là thuộc địa Đông Dương, ngày nay là Việt Nam, Campuchia và Lào.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Tuy nhiên, Việt Nam là nơi người Pháp cai trị cứng rắn nhất, và họ đã cố tình chia cắt quốc gia này thành những vùng thuộc địa tách rời nhằm làm tiêu tan tính bản sắc văn hoá của dân chúng. Những toàn quyền người Pháp tàn bạo đến đây để Aâu hoá nền văn hoá “man rợ” và khai thác những tài nguyên của vùng đất này – tất cả vì “Nước Pháp Toàn Cầu”. Nơi đây là món nợ của người da trắng : nạn cưỡng dâm, cướp bóc, nô dịch, làm việc tới chết để tìm cao su và ngà voi. Bất cứ nơi nào có sự phản kháng, quân Pháp liền được phái tới để “bình định”, để lại những mặt đường đẫm máu. Người dân địa phương nào không chết vì súng đạn sẽ bị đối xử như những kẻ phản bội và bị xử trảm nơi công cộng. Không có gì là thành kiến khi nói rằng người Pháp rất đáng chê trách trong việc đối xử với người “Đông Dương”. Người Pháp đã tự cho thấy họ là những kẻ tra tấn ghê tởm đối với một dân tộc chỉ muốn sống và được tự do như những dân tộc khác, nhưng rồi dân tộc đó chỉ được nhồi nhét giáo lý Công giáo và chết đói vì không đạt được những chỉ tiêu xuất khẩu qua Pháp. Từ những năm 1860 đến những năm 1940, hàng ngàn người chết trong khi làm đường bộ, đường xe lửa, xưởng tàu, và kênh đào. Hàng ngàn người khác chết trong các hầm mỏ, những cánh đồng và kênh mương thuỷ lợi. Những người Việt Nam chết vì đói khát hay kiệt sức trên những đồn điền cao su thường được chôn gần các gốc cao su – một thứ phân bón không tốn tiền – và khi những người nông dân van xin giảm thuế trong lúc đói kém, người Pháp đã từ chối. Đau ốm trong các nhà máy xi măng và xưởng dệt, người công nhân thường bị bỏ mặc cho chết không thuốc men chữa trị, người ta sẽ thay họ bằng người làm công mới, và đó được coi là hiệu quả cao.
      Những người Pháp bóc lột không ngừng quất ngọn roi của chủ nghĩa thực dân một cách tàn nhẫn lên lưng người dân Việt Nam… cho đến khi một kẻ mạnh hơn chen chân vào.

      Quân đội Nhật.

      Tháng 9. 1940, sau khi Pháp đầu hàng Phát xít Đức, vị toàn quyền Pháp ở Việt Nam cho phép Nhật đưa 30.000 quân vào tiếp quản các sân bay để sử dụng vào mục đích quân sự chống lại các nước Đồng minh (3) [(Encyclogpedia Britannica, Vietnam, History)]. Khi người nông dân van xin giảm thuế vì hạn hán, người Pháp đã từ chối, còn người Nhật thì nhún vai bởi vì hợp đồng cộng tác giữa họ với người Pháp không dính dáng đến bất cứ chuyện cai trị nào đối với dân bản xứ. “Hãy mang đơn kiện tới chỗ người Pháp,” họ nói vậy với nông dân. Cuối cùng thì hạn hán đã dẫn tới nạn đói làm chết gần hai triệu người Việt Nam trong lúc người Pháp và người Nhật vẫn ăn uống ngon lành. Lượng gạo dư thừa có thể cứu sống những người đang hấp hối đã được đem xuất khẩu sang Nhật, và người Pháp không phản đối. Chừng nào người Nhật còn được sung sướng, quyền cai trị của Pháp vẫn không bị sứt mẻ. Nói cách khác, bằng cách nhân nhượng người Nhật ở Việt Nam, người Pháp đã trực tiếp ủng hộ một cường quốc phe Trục có liên minh với Phát xít Đức, cũng chính là guồng máy quân sự đã diễu hành đắc thắng trên các đường phố Paris.

      Nói rằng người Pháp khom mình liếm gót thì quả cũng không ngoa chút nào. Và họ sẽ tiếp tục liếm gót cho tới khi cuộc chiến tranh sắp sửa kết thúc, lúc ấy người Nhật, nhận ra tình thế khó khăn cuả mình, sẽ tống tất cả lính tráng Pháp vào tù để đề phòng một cuộc nổi dậy. Nhưng vào lúc này có nhiều người khởi nghĩa hơn – những người khởi nghĩa bản xứ – chống lại sự áp bức của cả Pháp lẫn Nhật. Việt Minh là tên gọi của một nhóm dân quân du kích được tổ chức tốt và lập tức được cả nước đứng sau lưng. Đứng đầu nhóm là người sau này trở thành vị lãnh tụ duy nhất từng giành thắng lợi trong một cuộc chiến tranh chống lại người Mỹ: Hồ Chí Minh.

      Xóa
    2. Thế nhưng có một sự thật ít người biết rằng, vào cuối Thế chiến 2, Hồ Chí Minh là bạn đồng minh của nước Mỹ, hoặc ít nhất ông ta đã đi đến chỗ tin rằng như thế. Đầu tiên, Tổng thống Roosevelt tuyên bố mạnh mẽ chống lại chủ nghĩa đế quốc và sự áp bức ở Châu Á, và Hồ Chí Minh tin ông ta. Hãy nhớ rằng, Hồ Chí Minh lúc bấy giờ chưa phải là một người cộng sản thực sự, nhiệt tình của ông là tinh thần ái quốc thuần tuý, là tìm cách lật đổ hoàn toàn nền thống trị đế quốc trên đất nước, giành lại Việt Nam cho người Việt Nam. Ngay cả khi chiến thắng của phe Đồng minh trong thế chiến 2 đã trở nên chắc chắn, thì sự hiện diện của quân Nhật tại Việt Nam cũng gây ra nhiều vấn đề, và các gián điệp Mỹ, Anh được gởi đến để giải quyết. Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh chủ động đánh cắp các kho lương thực của người Nhật đồng thời giải thoát các tù nhân và những phi công Đồng minh bị rớt máy bay. Ngày nước Nhật chính thức đầu hàng sau khi hai thành phố Hiroshima và Nagasaki bị thả bom nguyên tử, vẫn còn 100.000 quân Nhật tại Việt Nam, và chính Hồ Chí Minh là người đã hết lòng giúp đỡ người Mỹ bằng cách chỉ rõ những vị trí trú đóng của quân Nhật cho nhóm OSS của Mỹ, lập tức người Mỹ thông báo điều này cho người Anh là nước chịu trách nhiệm giải giới quân đội Nhật.

      Tin tưởng là có sự giúp đỡ của chúng ta, Hồ Chí Minh chính thức tuyên bố đất nước độc lập – nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà – và thậm chí ông đã viết bản tuyên ngôn độc lập dựa trên tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ. Franklin Delano Roosevelt lúc ấy đã chết, Harry S. Truman thay ông làm tổng thống, nhưng khi Hồ Chí Minh yêu cầu Truman đưa ra sự ủng hộ chính thức của Mỹ, ông nhanh chóng nhận ra rằng những phát biểu ủng hộ Việt Nam của Franklin Delano Roosevelt mới đây bây giờ đã không còn được chính quyền mới ở Washington tôn trọng nữa. Truman phớt lờ những yêu cầu khẩn thiết của Hồ Chí Minh, và đã chỉ thị cho Bộ Ngoại Giao Mỹ phải làm mọi cách trong quyền hạn của mình để giúp phục hồi nước Pháp hậu chiến càng hiệu quả càng tốt, kể cả việc cho phép nước Pháp giành lại quyền coi ba nước Lào, Campuchia và Việt Nam là bộ phận của Đế Quốc Thuộc Địa Pháp.

      Miệng chửi tay đấm, người Anh đã rất xảo trá tái vũ trang cho quân Nhật và sử dụng họ để lật đổ chính quyền dân chủ mới tuyên bố ở một nưả phía nam của quốc gia này. Đối với Hồ Chí Minh – cũng như đa số dân chúng ủng hộ ông – đây là kịch bản cuối cùng trong trò lật lọng của phương tây.

      Xóa
    3. Hồ Chí Minh đã giúp chúng ta rất nhiều trước khi Thế chiến 2 kết thúc – ông đã cứu sống nhiều quân Đồng minh – vậy mà chúng ta đền đáp ông như thế. Chúng ta tái vũ trang chính những kẻ xâm lược mà ông đã giúp chúng ta tước vũ khí, và rồi chúng ta sử dụng vũ lực đó để tìm cách xoábỏ chính quyền hợp pháp của ông ta.

      Campuchia và Lào nhượng bộ; họ chấp nhận độc lập “cục bộ” trong “Liên Hiệp Pháp”. Nhưng Hồ Chí Minh không nhượng bộ. Ông chống lại nước Pháp mới hồi phục, và người Pháp cười nhạo. Người Pháp khoác lác nói rằng đội quân của ông Hồ sẽ bị quét sạch trong tám ngày.
      Nhưng sau thời gian tám năm, đến năm 1954, người Pháp đã không quét sạch được cái gì khác ngoài sự ngạo mạn của họ. Cho dù có hai tỉ rưỡi đô la do Mỹ viện trợ để tái lập “thuộc địa” ở Việt Nam, người Pháp cũng đành thu xếp đồ đạc trở về nước sau thất bại thảm khốc tại cứ điểm quân sự Điện Biên Phủ. Quân Việt Minh nhanh trí hơn, giỏi chiến lược hơn, và thiện chiến hơn quân đội Pháp trên từng giai đoạn của cuộc chiến. Ông Hồ xẻo quân Pháp ra như xẻo một súc thịt. Đây là một tin chấn động, vì một trong những quốc gia chiến thắng trong Thế chiến 2 đã thất bại trước một đội quân được coi là nhỏ yếu lúc bấy giờ. Nhưng rõ ràng họ đã thất bại. Hồ Chí Minh đã phá huỷ hoàn toàn chủ nghĩa đế quốc của Pháp tại Việt Nam, thực vậy, sự kiện đó nghiêm trọng đến mức một hội nigh đa quốc gia đã được triệu tập dẫn đến Hiệp Định Geneva, theo đó nước Việt Nam sẽ tạm thời chia làm hai, lấy Vĩ tuyền 17 làm ranh giới, cho đến năm 1956 khi một cuộc tổng tuyển cử được tổ chức để quyết định quyền lãnh đạo đất nước sẽ đặt vào tay ai; một uỷ ban kiểm soát quốc tế sẽ giám sát cuộc tổng tuyển cử này và đảm bảo rằng sự thống nhất hai miền Nam và Bắc Việt Nam sẽ diễn ra công bằng, hợp pháp, và trong sạch. Hồ Chí Minh, lúc bấy giờ được coi là người lãnh đạo miền Bắc, phải chấp nhận những điều khoản của hiệp định.

      Bạn đoán được ai là người không chấp nhận?

      Chính quyền miền Nam được Mỹ hậu thuẫn (4) [(Dữ kiện lịch sử trong chương 2 lấy từ Encyclogpedia Britannica, mục “Vietnam, History and War”; Vietnam: A Televison History (1996) xuất phẩm hỗn hợp của WGHB Boston, Central Independent Televison/ Anh và Antenne-2 / Pháp và LRE Productions (VHS), tập 1)].

      Thời điểm lịch sử này của Việt Nam chính là gốc rễ mà từ đó sẽ sớm bùng phát sự hỗn loạn hoàn toàn, và hệ quả của sự bùng phát đó là một con người lập dị, độc thân, tự phụ và được Mỹ ủng hộ mạnh mẽ: Ngô Đình Diệm.

      Xóa
    4. CON BÙ NHÌN TỰ GIẬT DÂY

      “Ngô Đình Diệm không muốn tổ chức tổng tuyển cử, và tôi cho rằng chúng ta nên ủng hộ ông ta trong chuyện này” - JOHN FOSTER DULLES.

      Ngoại Trưởng Mỹ(5) [(Tuyên bố của Ngoại trưởng J.F.Dulles, cho rằng Mỹ phải ủng hộ việc Diệm từ chối thi hành Hiệp định Geneva (điều khoản bầu cử toàn quốc năm 1956); được trích dẫn bởi Paul M.Kattenburg, nhân viên cao cấp của Bộ Ngoại Giao, trong Vietnam: A Televison History, “America’s Mandarin”)]

      Theo Hiệp Định Geneva, việc chia đôi đất nước Việt Nam được ấn định rõ ràng chỉ là tạm thời cho đến khi tổ chức một cuộc bầu cử toàn quốc. Cuộc bầu cử dự trù sẽ diễn ra hai năm sau đó (1956), đủ thời gian cho các đảng phái chính trị củng cố và tự quảng bá mình trước cử tri trong nước. Đảng cộng sản của Hồ Chí Minh ở miền Bắc kiên trì chờ đợi, trong khi đó tại miền Nam, CIA Mỹ hậu thuẫn Ngô Đình Diệm, một trí thức Công giáo; họ tin tưởng ông sẽ là một con bù nhìn hoàn hảo sẵn sàng đáp ứng mọi quyền lợi của người Mỹ. Trong lúc thịnh thời của “Chủ thuyết Domino”, đây là một việc rất hệ trọng. Hồ Chí Minh lúc này được Liên Xô và Trung Quốc ủng hộ mạnh mẽ, nên Mỹ cần một nhà lãnh đạo người Việt tương xứng ở miền Nam giúp Mỹ có được một chỗ đứng hợp pháp để tạo lực đối trọng với những người cộng sản.

      Vậy là Phái bộ Quân sự Sài Gòn được thành lập, có thể coi như một tổ chức cố vấn. Tuy nhiên trên thực tế nó là một vỏ bọc của CIA, và một trong những nhân vật chính của tổ chức đó, Đại tá Edward Lansdale, chịu trách nhiệm lo liệu sao cho Ngô Đình Diệm được dân chúng nhìn dưới một ánh sáng tích cực.

      Vào thời điểm đó, Ngô Đình Diệm là Thủ Tướng, làm việc dưới sự chỉ đạo của một con bù nhìn chính trị khác là Bảo Đại, người từng nhiều năm phục vụ cho Pháp với tư cách “hoàng đế”. Tuy nhiên Bảo Đại là một tay ăn chơi trác táng, một kẻ phàm ăn. Ông đã đốt phần lớn đời mình trong các buổi tiệc tùng ở Pháp trong khi tổ quốc ông quằn quại trong cơn hoạn lạc và đói kém. Nước Mỹ muốn rút Bảo Đại ra khỏi bàn cờ, nhưng trước khi làm được chuyện này, họ phải đối phó với những đối thủ chính trị của Ngô Đình Diệm.

      Landsdale bèn ra tay. Từng làm việc cho OSS (tiền thân của CIA), Lansdale là bậc thầy về chiến tranh tâm lý, và trong bản thành tích của ông có chuyện ông đã giúp nhà lãnh đạo Philippines, Ramon Magsaysay, dập tắt cuộc nổi loạn của cộng sản ở nước này. Landsdale là người hai mặt: bề ngoài ông tỏ ra mềm mỏng, hùng biện, điềm đạm, nhưng bên trong ông là con người hành động hung hăng và là bậc thầy về những trò lừa dối, những thủ đoạn dơ bẩn.

      Xóa
    5. Đặt chân đến Việt Nam vào tháng 6.1954, Landsdale đã gây ra một bầu không khí chống cộng dữ dội bằng cách tung ra nhiều tin đồn thất thiệt rằng Hồng Quân Trung Quốc đã đốt cháy nhiều xóm làng người Việt. Ông ta cũng thuê các thầy bói người địa phương để họ phán với khách hàng rằng ông Hồ Chí Minh chỉ có thể mang lại chết chóc và điêu tàn cho đất nước. (Người Việt Nam vốn rất mê tín dị đoan; chuyện họ đi tới gặp thầy bói gần nhà cũng phổ biến như đi chợ vậy) Landsdale thậm chí còn phịa ra những tài liệu Việt Minh giả để khủng bố dân chúng(6) [(Karnow, Stanley, Vietnam (Viking,1983)]

      Tuy vậy đây chỉ là những công việc nhỏ nhặt so với thành tích bí mật đáng kể đầu tiên của Landsdale. Vào năm 1955, các đối thủ chủ yếu của Ngô Đình Diệm gồm ba phái chính trị: Cao Đài, Hoà Hảo, và Bình Xuyên. Landsdale nhanh chóng ra một đòn ngầm táo bạo: dụ dỗ những kẻ chủ mưu đi ăn chơi ở Manila. Khi các nhà lãnh tụ đối lập bắt đầu tập trung lại, Landsdale liền nhẹ nhàng lấy tiền từ quỹ của CIA đưa cho họ – mỗi người trên dưới 3 triệu đôla – để họ công khai ủng hộ Diệm(7) [(Karnow, tr 222)]. Nhiều người trong số các tay sừng sỏ này – như Landsdale đã lường trước – lập tức rút lui ôm theo đống tiền đến vùng biển Riviera của Pháp. Lòng tham mạnh hơn lòng trung thành, tất nhiên. Vậy là vấn đề đã được giải quyết.

      Nhưng chưa đủ.

      Giáo phái Cao Đài và Hoà Hảo đã trở nên vô hại, nhưng vẫn còn Bình Xuyên, một tổ chức bán quân sự, nắm cảnh sát mật trong tay. Dưới quyền chỉ huy của Lê Văn Viễn (Bảy Viễn), trước đây là một gã côn đồ đường phố mù chữ, Bình Xuyên ban đầu chỉ là một lũ sống ngoài vòng pháp luật, những tên cướp cạn hình thành từ những toán thợ trốn chạy khỏi các hầm mỏ, đồn điền, xưởng máy, nơi họ bị người Pháp bắt làm việc như nô lệ. Tuy vậy, vào đầu những năm 1950, lũ cướp cạn này, dưới sự lãnh đạo của Bảy Viễn, đã lớn lên thành một mạng lưới tội phạm rất có tổ chức hoạt động khắp Sài Gòn. Bảy Viễn là Al Capone cuả thành phố này; ông ta cùng với giáo phái Bình Xuyên, một lực lượng 40.000 người, kiểm soát tât cả các nhà chứa, sòng bạc, ổ thuốc phiện trong vùng(Cool [(McCoy, Alfred W., The Politics of Heroin: CIA Complicịty in the Global Drug Trade (Lawrence Hills Books,1991); Vietnam: A Televison History, “America’s Mandarin”)]. Ngay cả khi tung ra cả khối tiền hối lộ, Landsdale cũng không mua chuộc được Bảy Viễn, người mà nguồn thu từ buôn lậu thuốc phiện có thể biến đồng tiền hối lộ của Landsdale thành mớ bạc lẻ bỏ túi.

      Và chính là Diệm, chứ không phải Landsdale, mới là người có hành động kế tiếp làm kinh ngạc Phái bộ Quân sự Sài Gòn. Cho tới lúc này, Diệm trông chẳng có gì hơn một người với bộ dạng thấp đậm, mặc bộ vét trắng và hay có nụ cười vô thưởng vô phạt. Sức mạnh thực sự của ông ta bây giờ mới bộc lộ, và với sự trợ lực của Ngô Đình Nhu, em trai ông – cầm đầu một đảng phái chính trị rất mạnh – ông quyết định tuyên chiến với Bình Xuyên. Landsdale tìm mọi cách ngăn cản ý định này (ông ta nghĩ rằng Diệm không thắng được), nhưng khi thấy Diệm không lay chuyển, Landsdale phải làm tham mưu cho Diệm. Kết quả còn ngạc nhiên hơn chính hành động. Tháng 4 và tháng 5 năm 1955, các lực lượng của Diệm giao tranh ác liệt với quân đội Bảy Viễn trên các đường phố Sài Gòn. Năm trăm người chết tại chỗ, toàn bộ các quận nội thành đổ nát thành những đống gạch vụn, và 20.000 thường dân mất nhà cửa, nhưng kết thúc cuộc giao tranh, Diệm là người chiến thắng(9) [(Karnow)]. Tất cả những đối thủ chính trị chủ yếu của ông bây giờ đã bị vô hiệu hoá hoàn toàn.

      Xóa
    6. Sự hiên ngang, đầu óc tổ chức và trù liệu của Diệm đã đủ gây ấn tượng mạnh cho chính quyền Eisenhower, khẳng định một lần nữa Diệm là con bù nhìn thứ thiệt của họ. Và khi những đối thủ của Diệm bị khuất phục, Landsdale chỉ còn có mỗi một việc phải làm. Ông ta cần củng cố Diệm thành một lãnh tụ thực sự tại Nam Việt Nam, có nghĩa là phải đưa người nắm quyền lực chính thức (tay chơi Bảo Đại, người hiện vẫn ở trong lâu đài của ông tại Pháp để cai trị đất nước) ra khỏi bản đồ chính trị.

      Ám sát thì không ổn vì quá phiêu lưu mà hối lộ cũng chẳng được vì Bảo Đại cực kỳ giàu có. Thay vào đó, Landsdale thúc giục Diệm tổ chức bầu cử. Thoạt tiên Diệm tỏ ra hoang mang (vì là người Công giáo, ông không được đa số tín đồ Phật giáo biết tiếng), nhưng Landsdale hứa sẽ có nhửng biện pháp bảo đảm mà chỉ ông ta mới làm được. Quên dân chủ đi – tráo trở và gian lận hiệu quả hơn nhiều, mà trong chuyện này Landsdale rất tài giỏi. Ông ta đem hết các ngón nghề xảo quyệt ra để dàn dựng một cuộc bầu cử. Các thùng phiếu đã được dồn đầy phiếu sẵn. Cử tri bị cưỡng bức thậm chí bị đe doạ. Landsdale còn cho in hai loại phiếu khác nhau, đánh vào tâm lý mê tín dị đoan của dân chúng: phiếu bầu cho Diệm có màu đỏ (tượng trưng cho vận may) và phiếu bầu cho Bảo Đại màu xanh lục (tượng trưng cho điềm xấu). Cuối cùng, Diệm đắc cử với trên 90 phần trăm phiếu bầu, và tại nhiều quận huyện, ông còn nhận được nhiều phiếu hơn số cử tri ở đó(10) [(Karnow)].

      Chế độ của Diệm bắt đầu như vậy, và một sức mạnh kỳ lạ từ người đàn ông thấp nhỏ, cứng cỏi này sẽ sớm toả lan khắp miền Nam Việt Nam. Giờ đây, khi đã là tổng thống hợp hiến, ông liền bổ nhiệm Nhu em trai ông vào chức vụ cố vấn và giám đốc mật vụ. (Rốt cuộc thì ai cũng biết Nhu là người nắm quyền lực thực tế sau lưng Diệm và đó quả đúng là một quyền lực nhơ nhuốc). Tuy vậy vẫn còn một trở ngại trước khi Diệm có thể áp đặt quyền cai trị trên khắp đất nước.

      Hiệp định Geneva.

      Năm 1956 đến nhanh cùng với đòi hỏi của hiệp định là tổ chức bầu cử tự do trên toàn Việt Nam, cả miền Nam lẫn miền Bắc, cho phép dân chúng chọn lựa một người lãnh đạo cho một quốc gia thống nhất. Lúc này Landsdale và tổ chức CIA của ông không kiểm soát được tình hình miền bắc để có thể phá hoại cuộc bầu cử. Diệm và Landsdale đều hiểu rất rõ rằng với một cuộc bầu cử toàn quốc chính thức như vậy, Hồ Chí Minh hầu như chắc chắn chiến thắng nhờ sự ủng hộ của nông dân đang chiếm phần lớn dân số(11) [(Sheehan, Neil, A Bright Shining Lie (Vintage,1989))]. Hoàn cảnh xem chừng rất khó khăn, nhưng có một lối thoát nhanh, và đó là lối thoát được Mỹ hoàn toàn tán thành.

      g thống.

      Xóa
    7. Được Landsdale đảm bảo mọi việc sẽ trôi chảy, Diệm chỉ có việc từ chối thực hiện Hiệp định Geneva, từ chối tổ chức tổng tuyển cử. Cần gì một cuộc tổng tuyển cử chứ? Ông ta đã thắng cử một lần rồi, tổ chức thêm một lần bầu cữ nữa là cho phép những kẻ bất đồng chính kiến có thêm sức mạnh trong thời gian quyền lãnh đạo bị bỏ ngỏ.

      Diệm đang là người lãnh đạo quốc gia này, và với tư cách một kẻ chống cộng chưa ra mặt, Diệm hẳn nhiên được nước Mỹ hậu thuẫn mạnh mẽ. Trong khi miền Bắc được Liên Xô viện trợ, thì việc Mỹ hậu thuẫn miền Nam Diệm coi cũng công bằng.

      Bây giờ Diệm được tự do sử dụng quyền lực của mình trên khắp Nam Việt Nam. Thoạt đầu trong ván bài này, Mỹ chỉ nhìn thấy hai màu trắng và đen. Diệm là người chống cộng, do đó Diệm phải được hậu thuẫn. Nhưng điều mà chúng ta không nhận thấy lúc bấy giờ là Diệm không hiện hữu chỉ với hai màu trắng và đen – ông ta xám xịt, và khi những năm 1950 trôi qua, bản chất thật của ông ta bắt đầu lộ rõ. Chính tinh thần Công giáo cuồng tín của ông đã làm ông thay đổi thái độ. Người ta đã vẽ sai lệch cuộc xung đột Việt Nam như là cuộc xung đột giữa Chủ nghĩa cộng sản và Dân chủ, trong khi sự thật hầu như không phải vậy.

      Xung đột tôn giáo mới là xung đột dễ thấy nhất. Nam Việt Nam là đầm lầy của mâu thuẫn. Tín đồ Phật giáo chiếm phần lớn dân số, trong khi tín đồ Công giáo chỉ chiếm khoảng mười phần trăm. Tuy nhiên ngay sau khi lên nắm quyền, Diệm cho lấp đầy các chức vụ chủ chốt trong chính quyền bằng các thành viên của gia đình và những người thân khác theo đạo Công giáo. Trong giai đoạn ông gọi là “cải cách điền địa”, những dinh điền tốt nhất được giao cho người theo đạo Công giáo, trong khi những người nông dân theo đạo Phật bị đẩy ra những vùng đất kém màu mỡ. Phân bón và thuốc trừ sâu loại tốt – nằm trong chương trình viện trợ của Mỹ – nhanh chóng tìm đường đến với người theo đạo Công giáo, còn người theo Phật giáo chỉ được nhận những thứ phế phẩm hoặc đã bị cắt xén. Ơû miền Nam Việt Nam, các ngân hàng đều nằm trong tay người Công giáo, nên chỉ có người Công giáo mới được quyền vay ngân hàng. Người Công giáo rất dễ tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, còn người theo đạo Phật thì cố mà quên nó đi. Đây là cách mà Diệm khởi sự cai trị đất nước, và những kiểu bất công như thế này sẽ gây nên những làn sóng chống Diệm để rồi cuối cùng trở thành tai hoạ lớn nhất dành cho ông tổng thống.

      Xóa
    8. Việt Cộng.

      Việt Cộng không nhất thiết là cộng sản; họ chỉ là những người nổi dậy chống lại sự thiên vị của Diệm dành cho thiểu số người Công giáo, một lực lượng du kích đáng gờm buộc quân đội của Diệm phải đối phó thường xuyên. Chính vì áp bức nhân dân mình Diệm đã tạo ra kẻ thù nguy hiểm nhất cho ông ta, và cũng chính kẻ thù này sẽ sớm phát động một cuộc chiến tranh rộng lớn chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm(12) [(Encyclopedia Britannica, Ngo Dinh Diem)]

      Mỹ giúp đỡ nhiều về nhân sự và trang bị vũ khí cho tổ chức Dân Vệ của Diệm, nhưng thay vì dùng các đội quân này bảo vệ dân chúng khỏi tay Việt Cộng, Diệm lại dùng để bảo vệ Dinh Tổng Thống và các dinh thự nơi các thành viên gia đình và/ hoặc những người Công giáo được bổ nhiệm đang làm việc. Diệm hiểu rất rõ vai trò quyền lực của ông được người Mỹ dựng lên – thật vậy, nước Mỹ cần Diệm để duy trì thế mạnh chống chủ nghĩa cộng sản. Lúc ấy người Mỹ chậm hơn ông ta, và người Mỹ không biết cách thay đổi suy nghĩ cho thích hợp. Mặc dù nhiều quan chức ngoại giao trong chính quyền Eisenhower không hề ủng hộ Diệm (đặc sứ John Collins bị triệu hồi vì đã công khai nói thẳng những ác cảm của ông ta về Diệm), sự nhất trí chung vẩn là, dù Diệm không phải là nhà lãnh đạo quốc gia đáng tin cậy, ông ta vẫn là lựa chọn tốt nhất lúc này. Một câu nói cho thấy thái độ của Nhà Trắng, Tốt, chúng ta đã đưa gã đàn ông đó lên nắm quyền, bây giờ chúng ta cần phải tính toán sao cho có lợi nhiều nhất từ việc này. Nước Mỹ sẽ rất mất mặt nếu họ thay đổi thái độ về Diệm lúc đó.

      Và Diệm biết điều này.

      Diệm và em trai ông thích vũ khí và vật chất mà người Mỹ viện trợ cho họ nhưng họ sử dụng chúng theo ý riêng, không nghe theo lời khuyên của người Mỹ, điều này cũng được áp dụng cho quân đội của Diệm (Quân đội Việt Nam Cộng Hòa) – họ bị cấm không được nhận lệnh từ các chỉ huy của Mỹ(13) [(Sheehan]), hay thậm chí bị cấm xem xét những đề nghị tác chiến. Như thế là không khôn ngoan, vì Mỹ tinh thông về chiến sự hơn Quân đội Việt Nam Cộng Hoà nhiều. Thay vào đó, từ rất sớm Diệm đã sử dụng các lực lượng quân sự và cảnh sát của mình để truy lùng, bắc bớ và giết sạch những người Việt Minj “ở lại” (không tập kết ra bắc). Trong cuốn sách best-seller tại Mỹ và được giải thưởng (và gây sốc) A Bright Shining Lie (Lời nói dối toả sáng) của Neil Sheehan, một nét kinh khủng trong thái độ của Diệm đã được bộc lộ.

      Xóa
    9. Diệm coi tất cả những người “ở lại” hoặc cựu Việt Minh đều là “ác hoạ”. Diệm ra lệnh bắt giam bất cứ người nào chỉ vì lý do nghi ngờ – không cần xét xử, không cần điều tra. Đối với Diệm, bị nghi ngờ coi như là có tội. Những ai không bị bắn công khai sẽ bị tra tấn liên tục để họ khai ra thêm danh tánh những “tội nhân” khác, cứ thế tiến trình này tự nó kéo dài không dứt. Một người bị tra tấn khai ra vài cái tên, vậy là những người này bị bắt và bị tra tấn. Đàn bà chịu đựng gánh nặng tồi tệ nhất : họ bị cưỡng hiếp và tra tấn, vì cưỡng hiếp được xem là một phần của thủ tục thẩm vấn. Hậu quả là có hàng ngàn người Việt Nam bị giết chết, và trên 100.000 người khác bị giam giữ trong các trại tập trung(14) [(Sheehan)]

      Người ta có thể nhìn thấy ở đây một khuôn mẫu. Tra tấn, cưỡng hiếp, các trại tập trung? Diệm bức hại những người Việt Minh ở lại nhưng không hoạt động y hệt cách mà Hitler đã bức hại người Do Thái. Diệm nặn ra kẻ thù từ những con người không xâm hại gì đến mình, rồi thanh trừng họ một cách hệ thống và tàn bạo. Nhưng nếu Diệm là Hitler của Nam Việt Nam, thì Nhu là Himmler. Nhu điều hành mật vụ (quả thưc, theo lệnh của Nhu, mật vụ tiến hành một cách hăng hái việc thẩm vấn, tra tấn, và cưỡng hiếp như vừa kể trên) mà hiểu theo nghĩa nào đó nó là quân đội riêng của Diệm và Nhu – na ná như SS lúc đầu là lực lượng vệ sĩ của Hitler. Nhưng khi những người ở lại đã bị khuất phục, Diệm thấy cần phải tạo ra một vật tế thần mới để tấn công, nhằm làm cho dân chúng thấy rằng ông ta đang bảo vệ họ khỏi tay kẻ thù, dù là kẻ thù tưởng tượng. Diệm là tín đồ Công giáo sốt sắng, lập dị; năm 1950, trước khi trở thành Thủ Tướng của Nam Việt Nam, ông từng sống ở Đại chủng viện Maryknoll bang New Jersey (tại đây, tình cờ ông gặp và gây ấn tượng đúng lúc cho ông nigh sĩ trẻ, táo bạo bang Masschussetts tên là John F.Kennedy), cầu nguyện, suy gẫm, và nghĩ chuyện sống đời tu hành(15) [(Hersh, Seymour M., The Dark Side of Camelot (Little Brown, 1977)]. Rõ ràng ông ta đã từ chối viễn cảnh này để tham gia vào chính trị nhưng tuy vậy ông ta vẫn sống độc thân; và sau này trở thành tổng thống, ngay cả khi ra lệnh hành quyết hàng loạt và ném hàng chục người vào các trại tập trung, ông vẫn dự thánh lễ gần như hàng ngày. Cho đến cuối đời, và bất kể mọi sự chết chóc và bất hạnh do mình gây ra, Diệm cũng như toàn thể gia đình vẫn tự cho họ là những tín đồ Công giáo tuyệt đối thuần thành.

      Xóa
  5. Tôi nghĩ "Deep State" nên dịch là "Nhà Nước Ngầm" chớ không phải là "Trạng Thái Sâu", mà theo trang mạng được định nghĩa: một nhóm người, thường là những thành viên có ảnh hưởng trong các cơ quan chính phủ hoặc quân đội, được cho là có liên quan đến việc thao túng hoặc kiểm soát bí mật chính sách của chính phủ, (a body of people, typically influential members of government agencies or the military, believed to be involved in the secret manipulation or control of government policy:)

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Cảm ơn bạn đọc snn!
      Chúng tôi nhất trí với góp ý của bạn!

      Xóa